Oai Nghi – Con Đường Của Sự Tỉnh Thức – Tập 3
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG THIỀN HỌC BẮC TRUYỀN
THÍCH ĐẠT MA KHẾ ĐỊNH
OAI NGHI
CON ĐƯỜNG CỦA SỰ TỈNH THỨC
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
TẬP 3
Mục lục
13. Vào Nhà Xí
14. Phép Nằm Ngủ
15. Phép Quanh Lò Hơ Lửa
16. Phép Ở Trong Liêu Phòng
17. Đến Chùa Cô Ni
18. Phép Đến Nhà Người
19. Đi Khất Thực
20. Vào Tụ Lạc
21. Đi Chợ
22. Phàm Chỗ Ra Làm Không Được Tự Ý
23. Đi Tham Học Phương Xa
24. Danh Và Tướng Của Y Bát
13.Vào Nhà Xí
Trong Truy Môn Cảnh Huấn nói:
“Pháp lên nhà xí luật chế rõ ràng, vốn là khiến muốn nghiêm trang thanh khiết tự thân, để tiện thân cận Thánh Hiền nên rửa sạch. Rửa tay mỗi mỗi có phép tắc. Ví như các pháp chưa trọn thì lễ Phật, tụng kinh, thắp hương, cầm nắm quyển kinh, tất cả đều là bất tịnh không có đúng pháp.”
Học oai nghi rất hay! Từ ngày, soạn Oai Nghi, tôi học nữa thì mỗi mỗi tự nhiên mình vào khuôn phép lúc nào không hay, làm cái gì mình cũng rất sợ, bởi vì nó vô trong tàng thức mình rồi.Làm cái gì nó cũng hiện ra hết.
Vào đây tu Phật rồi, mình thấy ở ngoài đời mình làm, đều là trật hết. Tại sao học luật Tỳ Ni, Sa Di, Oai Nghi, quý thầy thấy mình giống như hàng vương tôn công tử, trưởng giả đi tu chứ không phải là người ăn mày, ăn xin? Bởi vì Giáo chủ của mình, thủy tổ nói về giới luật chính là Đức Phật. Mà Đức Phật thì sanh trưởng trong vương cung, là Hoàng thái tử. Hoàng thái tử thì phải đủ oai nghi phép tắc, đi ra đường giống như long, như tượng, như sư tử chúa, chứ không phải như mèo, như chuột. Cho nên trong nhà thiền còn khẳng định là rồng, cọp, sư tử mới đi tu, còn thằn lằn, cắc ké tu không được. Phải có đại lực lượng, đại dũng mãnh mình mới xuất gia.
Vào nhà xí là muốn nghiêm trang, thanh khiết tự thân để tiện thân cận với Thánh Hiền. Mình tụng kinh, lễ Phật, thắp hương, rồi cầm nắm quyển kinh, tất cả đều phải sạch.
Mấy vị thị giả kể lại cho tôi nghe, có những lúc Hòa thượng bệnh nặng lắm đúng ra không được rửa nước mà mỗi khi tiểu tiện, đại tiện xong, Hòa thượng đều rửa nước. Hòa thượng nói nó ăn sâu trong tàng thức rồi, tiểu hoặc đại tiện xong phải rửa tay liền, chứ không dám mà không rửa tay. Phải học Hòa thượng, ngài là vị Thiền sư, vị Tổ mình tôn thờ mà ngài còn kỹ như vậy, huống chi mình là phàm phu, đạo lý chưa thông. Cho nên mình đừng bỏ qua chỗ này.
“Vừa muốn đại, tiểu tiện phải đi liền, đừng để trong thúc lật đật.”
Chẳng hạn, có người muốn đi mà không chịu đi, ráng ngồi nói chuyện đến lúc không chịu nổi lật đật chạy, nhiều khi đụng phải người khác. Vừa muốn đại tiểu tiện phải đi liền, để làm gì? Mình đi từ tốn. Còn đau bụng quá thì phải chạy, nhiều khi vấp té.
Có cô cư sĩ kể rằng, cô rất có tín tâm với một vị thầy, đây tôi giấu tên. Một hôm, cô đi theo đoàn do vị thầy này hướng dẫn, không biết vị thầy này ăn gì bị chột bụng sao đó, thầy vừa đi vừa chạy, vừa vén quần lên, cô nói từ đó về sau cô không còn tín tâm nữa.
Quý thầy phải kinh nghiệm, đừng ham dắt Phật tử, phái đoàn đi chơi, có những lúc quý thầy mà ăn khế chua, me chua gì đó nó chột bụng, xuống phải đi trước Phật tử giành cầu tiểu, cầu tiêu làm họ mất hết tín tâm.
Kinh nói:
“Tất cả chúng sanh đều nương sự ăn uống mà sống còn, nghĩa là thêm nhuận các căn, nuôi lớn bốn đại. Đã có đồ ăn uống vị bổ vào ruột, bao tử, thời chất khinh thăng lên, chất trọng chợt rớt xuống nên có đại, tiểu. Có thể thấy trong một thân người gồm có thế giới tịnh và uế, hay là tịnh là tưởng, uế là tình.”
Kinh nói tất cả chúng sanh đều nương sự ăn uống mà sống còn, không ăn thì sẽ chết. Ăn uống thì thêm nhuận các căn, thân thể hồng hào, khỏe mạnh. Khỏe mạnh thì phải đại tiện, tiểu tiện. Hòa thượng nói, hạnh phúc của con người là ăn được phải đại tiện được, ăn được mà đại tiện không được là phải đi bác sĩ.
Ở đây lý thiền rất sâu, chất khinh thì vượt lên, tiêu biểu cho tâm hồn thánh thiện, hướng thượng. Chất trọng rớt xuống, tiêu biểu cho những tham dục, sân hận, tật đố phải buông xả xuống hết.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật hiển phát cho Tôn giả A-nan tình và tưởng, hay nói khác hơn, tịnh và uế, chúng ta học thêm cho biết:
“Này A-nan! Nhân ái nhiễm phát khởi vọng tình, tình chứa không thôi sanh nước ái. Gặp thức ăn ngon, miệng chảy nước miếng; thương nhớ người thân, con mắt lệ tuôn trào; tham cầu vật báu, thân toát mồ hôi; vướng mắc dâm dục, hai căn nam nữ chảy dịch khí.”
Phật giải thích cho Tôn giả A-nan biết, khởi vọng tình thì tình chứa không thôi sanh nước ái, có nghĩa là vọng tưởng liên tục thì cảm sanh ra nước ái. Sau khi chết, năng lực của nước ái phát sanh, và tâm biến hiện ra cảnh giới để mà thác sanh vào.
Gặp thức ăn ngon miệng chảy nước miếng. Quý thầy nghe câu chuyện Tam quốc chí, Tào tháo dắt quân đi dọc đường khát nước quá chịu không nổi, ông nói với quân lính còn một cây số nữa thôi là gặp rừng mơ. Vừa nghe đến rừng mơ là lính chảy nước miếng, bớt khát. Do tâm thức mình biến hiện ra chứ không có gì lạ.
Thương nhớ người thân con mắt lệ tuôn trào. Quý thầy ngồi đây tưởng tượng, mẹ mình ở nhà phải đi gánh nước hay làm gì cực khổ, tự nhiên quý thầy khóc. Ngày xưa, ở Thường Chiếu có bảy, tám thầy nhỏ nhỏ tội lắm, mới mười một, mười hai tuổi vào tu, chiều lại là ra trước đường ngồi khóc. Hỏi sao khóc? Nói nhớ mẹ quá khóc.
Tham cầu vật báu thì thân toát mồ hôi, vướng mắc dâm dục thì hai căn nam nữ chảy ra dịch khí, tức là chảy đồ bất tịnh.
“A-nan! Vật ái tuy khác nhưng đồng cảm nước chảy xuống là tướng sa đọa, đây là nội phận của chúng sanh. Này A-nan! Khát ngưỡng phát minh lý tưởng, tưởng mãi sanh thắng khí. Tâm giữ cấm giới thì thân thể khinh an, tâm trì chú ấn thì con mắt hùng nghị.”
Mình giữ được cấm giới của Phật thân thể rất nhẹ và an ổn, rất dễ đi sâu vào thiền định. Những vị tu Mật tông con mắt rất có hùng, giống như mắt sư tử vậy.
Trong kinh Di Giáo, Phật nói:
“Dầu ta có trụ thế ở đời hoặc ta không ở đời này nữa thì mấy ông cũng lấy giới luật làm đầu.”
Phải có giới mới vào định được, có định mới phát huy được trí huệ, đừng nghĩ bản tánh mình tự tịnh, tự định. Nếu chúng ta phạm giới luật thì khi ngồi thiền, hình ảnh đó lúc nào cũng hiện ra làm cho tâm mình không được khinh an. Tâm không khinh an thì định không sanh. Định không sanh thì trí huệ không phát.
“Tâm ước sanh thiên, chiêm bao thấy bay lên, tâm tưởng cõi Phật, thắng cảnh thầm hiện, thờ thiện tri thức coi nhẹ thân mình. Này A-nan! Đối tượng tâm tưởng tuy khác nhưng thắng khí cất lên thì đồng, đây là ngoại phận của chúng sanh.”
Chúng ta tưởng sanh về cõi trời thì chiêm bao thấy mình đi lên cõi trời, thấy những cảnh giới lành, tưởng về cõi Phật thì thắng cảnh hiện ra, ứng hợp.
“Này A-nan! Thế gian sống chết tiếp nối, sống thuận tập quán, chết theo nghiệp đổi dời. Mạng chung khi chưa hết hơi nóng, thiện ác một đời cùng hiện ra. Chết nghịch, sống thuận hai tập khí giao sang với nhau.”
Phật dạy tiếp, lúc mạng chung, mình chưa hết hơi nóng thì thiện ác một đời nó hiện ra để ứng hợp với hoàn cảnh tái sanh. Hằng ngày làm thiện pháp nhiều thì hiện cảnh chư thiên, cảnh A-tu-la. Có tâm niệm tốt hay có phát nguyện lớn thì hiện cảnh giới Phật. Còn làm ác thì hiện ra cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
“Thần tưởng thì bay lên. Nếu có phước đức, trí huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm khai ngộ, thấy mười phương cõi Phật theo nguyện mà vãng sanh.”
Theo như trên, nếu chúng ta ăn đồ ngon, chất bổ thì thêm nhuận các căn. Lý ở đây rất sâu, đồ ăn uống, vị bổ không phải là táo, lê, hay món gì, mà là chúng ta nghe pháp, học hỏi chánh pháp, tu thiền định, thờ thiện tri thức thì cái tưởng bay lên. Có những người được nghe chánh pháp, bảo họ nhịn đói họ cũng chịu.
Thần tưởng bay lên tức là buông xả cái uế khí tham, sân, si. Vào nhà cầu, quý thầy quán tưởng thật sâu, từ tâm mình ứng ra mình nói, buông xả những chất uế khí này tức là chất tham, sân, si. Chẳng hạn mình khởi niệm sân hay niệm tham, niệm gì đó, mình nói thôi ráng buông bỏ những thứ này.
Còn nếu có phước đức, trí huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm mình khai ngộ. Tức khắc mười phương cõi Phật ứng hiện ra, thì thác sanh tùy theo nguyện lực của quý thầy.
“Tình ít mà tưởng nhiều thì bay lên không cao, làm Đại lực quỷ vương, Phi hành dạ-xoa đi khắp bốn cõi trời. Nếu có nguyện hộ pháp thì theo người trì giới, trì chú, thiền định, thường ở dưới pháp tòa của Như Lai.”
Nếu tình ít mà tưởng nhiều, tức là có năng lực tu tập thì làm Đại lực quỷ vương có năng lực lớn. Nếu có tâm nguyện hộ pháp thì hay theo những người trì giới, trì chú, thiền định, thường ở dưới pháp tòa của Như Lai nghe pháp, bảo vệ Phật pháp. Cho nên mình phát nguyện, nếu chưa được giác ngộ giải thoát, thì làm hộ pháp già lam cũng được vậy, chứ đừng có đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
“Tình, tưởng trong nhau không lên, không xuống, sanh về nhân gian. Nhiều tưởng thì thông minh, nặng tình thì ngu độn, tình sanh thì trí cách.”
Nhiều tưởng thì thông minh, tưởng ở đây không phải là vọng tưởng. Mình cũng thông minh, cũng có trí huệ mà trí huệ thế gian. Chẳng hạn, những vật dụng của chúng Tăng mình lấy về chia sẻ cho gia đình thì gọi là tình sanh mà trí cách. Cũng là thông minh vậy nhưng thông minh này là lo cho bản thân mình, lo cho gia đình.
“Tình nhiều, tưởng ít lạc về bàng sanh, nặng thì làm loài có lông, nhẹ thì làm giống có cánh.”
Nặng làm loài có lông tức là heo, bò, chó. Nhẹ làm những loài có cánh như chim sẻ, chim bồ câu, chim uyên ương. Quý thầy thấy những con chim đó sanh trưởng rất nhiều.
“Bảy tình, ba tưởng chìm xuống dưới thủy luân, sanh nơi mé hỏa luân, chịu khí phần của lửa, thân làm ngạ quỷ thường bị đốt cháy, trải trăm ngàn kiếp không ăn không uống. Chín tình, một tưởng xuống thấu hỏa luân vào giữa giao giới phong luân và lửa, nhẹ vào hữu gián địa ngục, nặng vào vô gián địa ngục.”
Vô gián địa ngục nghĩa là cái khổ không bao giờ gián đoạn.
“Thuần tình chìm sâu vào địa ngục A-tỳ, nếu lại có tội phỉ báng Đại thừa, phá cấm giới của Phật, giả dối nói pháp để cầu danh lợi hoặc phạm ngũ nghịch, thập trọng thì sanh về mười phương địa ngục.”
Không phải mười phương cõi Phật mà mười phương địa ngục! Thọ khổ hết địa ngục này rồi qua địa ngục khác, nếu phạm tội ngũ nghịch. Mình đừng nghĩ là Phật dọa. Con mắt Phật, Phật thấy được, thương xót mình mới nêu ra cho mình biết.
“Ở trên sào tre vắt áo trực chuyết xếp cho bằng phẳng, lấy khăn tay hoặc dây lưng buộc nó là nghĩa chi vậy? Làm cho nhớ lấy, sợ rớt xuống đất.”
“Phải thay đổi giày dép, chẳng nên giày sạch mà mang vào nhà xí. Khi đến nhà xí phải đờn chỉ ba tiếng cho người trong biết, chớ nên hối thúc người trong ra cho mau.”
“Lúc lên ngồi trên nhà xí lại phải đờn chỉ ba tiếng thầm tưởng bài kệ:
Khi đại tiểu tiện,
Nguyện cho chúng sanh,
Bỏ tham sân si,
Sạch hết các tội.”
Từ ngày dạy Oai Nghi, vào nhà cầu, bất cứ giờ phút nào tôi cũng nhớ búng ba cái và thầm đọc bài kệ. Quý thầy có búng không? Nếu không búng thì sao? Trong kinh Thí Dụ ghi, có một thầy Sa-môn vào tiểu tiện, đại tiện không đờn chỉ, xối nhầm trên mặt con quỷ trong nhà xí, quỷ cả giận muốn giết Sa-môn, nhưng Sa-môn kia nhờ giữ giới cấm nên quỷ nọ không thể hại được.
Trong kinh diễn tả cho mình thấy những cảnh giới thọ khổ của chúng sanh. Có những loài quỷ vào nằm trong nhà xí, rớt xuống bao nhiêu là nó ăn hết, nó ngửa mặt lên nó ăn. Quý thầy đờn chỉ để nó chuẩn bị hả miệng ra. Ăn những thứ như vậy mà nó thích thú. Nếu không đờn chỉ thì nó ngủ, cho nên ông Sa-môn đại tiện rớt trúng mặt nó, nó nổi sân, ý sao không báo trước.
Ở đây, mình hiểu nghĩa sâu một chút nữa là trong lúc đại, tiểu tiện, mình phải có chánh niệm. Vào nhà cầu, đờn chỉ ba cái là lúc này mình đang chánh niệm, trở về chỗ thực tại. Mọi cử chỉ hành động đều thu thúc hết thì tự nhiên con quỷ nó không sân nữa. Nếu không chánh niệm, nhiều khi mình tiểu tiện rớt nhầm vào chân, rồi mình sân lại chính mình nữa.
Cho nên nói, một người phát tâm xuất gia, chuẩn bị cạo tóc là cõi tam thiên, đại thiên thế giới chấn động. Nghe vậy lại tưởng trên đó chấn động, không phải, mà tâm mình chấn động. Thấy quý thầy chuẩn bị thọ giới pháp của Phật, tự nhiên xúc động mình khóc, đó là tam thiên, đại thiên thế giới chấn động. Những cảnh giới thiện pháp bây giờ nó rung động, nó tác động đến tự nhiên mình khóc. Rồi mình thương cảm đến các loài chúng sanh. Ráng tu học Phật pháp, giữ oai nghi phép tắc để dìu dắt người hậu học thì tam thiên, đại thiên thế giới chấn động.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Lúc đại tiểu tiện đương nguyện chúng sanh. Nghĩa là Bồ-tát lấy việc lợi sanh làm tâm niệm, phàm khởi một niệm tức nguyện độ sanh.”
Lúc đại tiểu tiện mình phải phát nguyện. Bồ-tát chỉ lấy việc lợi sanh làm tâm niệm, khởi niệm đều là niệm độ sanh. Phàm khởi một niệm tức là mình đã độ sanh rồi. Khởi một niệm tốt: “Khi đại, tiểu tiện nguyện cho chúng sanh bỏ tham sân si.” Mình và tất cả mọi người đều bỏ tham sân si thì chính là mình bước vào con đường Bồ-tát đạo, đang học hạnh Bồ-tát.
“Bỏ tham sân si sạch hết các tội, vì ba độc này làm ô uế thân tâm, như pháp trói buộc chẳng được tự tại nên dụ như là uế, là phân. Nói ta nay bỏ uế bỏ phân như trừ các tội, thanh tịnh không nhơ cũng nguyện cho chúng sanh thanh tịnh không có cấu nhiễm.”
Khi đã trong sạch rồi thì mình mong muốn tất cả huynh đệ đều trong sạch như mình. Đó là mình đang thực thi con đường Bồ-tát đạo.
Trong Tỳ Ni có ghi:
“Tham, sân, si là ba độc phiền não, nay dùng trừ bỏ món uế trược bất tận mà để đối trị ba độc cho sạch hết, ba độc này là nguyên nhân nghiệp tạo tội.”
Có nghĩa là do ba độc tham, sân, si này mà mình luân chuyển trong sanh tử. Ở đây mình phải phát nguyện làm cách gì để đoạn trừ.
“Nay quyết dùng giới phòng nó. Nhân ba độc đã không thì nghiệp quả về sau đâu còn, nên Cổ Đức nói: Hướng vào lúc mặc áo, ăn cơm, nơi xả đại, phóng tiểu mà không tạp dụng tâm tức là công phu tốt, lo gì chẳng thấu thoát.”
Muốn đoạn tham, sân, si phải dùng giới luật mà đoạn, mà phòng bị nó. Cổ Đức khuyên mình lúc mặc áo cũng chánh niệm, ăn cơm cũng chánh niệm, rồi nơi đại, tiểu tiện cũng chánh niệm. Không có tạp dụng tâm gì hết tức là công phu tốt, các ngài nói lo gì mà chẳng thấu thoát.
Trong sử ghi lại, có một vị Thiền sư công phu rất miên mật. Vào nhà cầu ngài cũng tâm niệm tu hành. Một hôm, đụng gốc cột, tự nhiên ngài phát minh tâm địa. Còn mình đụng gốc cột, chạy xuống Thầy Thông Giáo nhờ thầy băng thì khác với người công phu rất là xa.
“Nếu ngộ được bổn nguyên tịnh uế này thời có thể ngộ cõi đại thiên thế giới chẳng ở ngoài tâm. Từ đó nhơ hết, tâm sạch, liền biết ba thân ta làm ra pháp giới, pháp giới làm ra thân, thân ta và pháp giới chẳng một chẳng hai thì ba độc tự nó trừ.”
Tam giới từ do tâm thức biến hiện ra. Biết được như thế rồi thì phải phát nguyện đoạn trừ nó.
“ Chẳng được cúi đầu ngó xuống.”
Chẳng hạn quý thầy đi cầu mà bữa nay biết mình bị tiêu chảy, hay gì đó thì có quyền ngó. Còn bình thường thôi đừng ngó, ngó xuống sợ nó sanh khởi đủ thứ.
“Chẳng được cầm cỏ mà vẽ trên đất.”
Sa Di Học Sứ ghi:
“Tục lệ ở Tây Trúc dùng cỏ lau làm cỏ nhà xí, người ngu chẳng biết trên nhà xí vẽ chữ, vẽ trên tường thì không được.”
Ngày xưa, ở một ngôi chùa nọ (tôi giấu tên chùa), tôi thấy một thầy ghi trên tường nhà cầu bất cấu, bất tịnh, có nghĩa là chẳng dơ, chẳng sạch. Tôi nghĩ thầy này hay quá, tường nhà cầu mà ghi thiền trên đó. Tu một thời gian ông ra đời, nghe nói khổ lắm. Bây giờ học luật mới biết là trật pháp. Chính tôi ở chùa đó tôi biết, thầy Trụ trì không dạy oai nghi phép tắc gì hết thành ra đệ tử làm sao biết mà tránh.
“Bèn thành lỗi lớn. Nếu như trên nhà xí, ván tường làm chữ thì là chỗ tạo vật quở trách cho nên không có được.”
Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư kể câu chuyện:
Vào đời nhà Minh ở Hồ Châu có một vị đạo sĩ họ Phan đạo pháp rất cao siêu, mỗi lần ông vẽ là thần Tứ Thiên Vương hiện đến.
Một hôm ông vẽ phù chú lên tường nhà xí, Thiên tướng hiện lên hỏi:
– Ông triệu thỉnh tôi đến có việc gì?
Vị này rảnh nên vẽ để triệu thỉnh đến chơi thôi chứ đâu có việc gì.
Ông không dùng đối đáp mà vẽ bùa chú để sai khiến:
– Cây trước cửa nhà vì ta mà dời trồng sau nhà.
Vị tướng nói:
– Việc nhỏ này có ý khinh ta mà triệu thỉnh.
Bèn dùng bút lửa điểm trên đầu vị đạo sĩ mà đi. Sau khi bị điểm, đầu đạo sĩ nổi ung mủ, mủ chảy suốt mà chẳng khô. Lạ một điều, phàm người có họa bệnh nhọt xin nước ung mủ của đạo sĩ bôi xoa thảy đều công hiệu, tức là lành bệnh.
Cho nên phải cẩn thận, vào nhà xí không được vẽ. Ngày xưa Thầy tôi không cho phép viết chữ Hán lên ghế. Chính tôi chứng kiến Thầy rầy các huynh đệ, Thầy nói đây là chữ của bậc Thánh hiền, không được viết trên ghế, trên nhà, trên đồ, mình đạp, giẫm lên không tốt.
“Chẳng được ráng hơi ra tiếng.”
Có nghĩa là “bất đắc nộ khí tác thinh.” Quý thầy phải ghi nhớ chỗ này. Lỡ đau bụng mà bị ra hơi, vào nhà cầu, quý thầy mở vòi nước lên cho nó át bớt tiếng đó. Ngày xưa ở Thiền đường có một thầy ngồi ráng hơi ra tiếng ba bốn cái. Thứ nhất là rất mất oai nghi, thứ hai là động niệm đại chúng. Quả tình, đi đâu cũng nghe nói chuyện đó, hai ngày sau mới hết.
“Chẳng được cách vách cùng người nói chuyện.”
Học oai nghi rất hay. Mình học tự nhiên mình dừng lại rất nhiều.
Kinh Văn Thù nói:
“Khi đại tiểu tiện thân khẩu yên lặng như cây, như đá chớ nên ra tiếng, hộ trì thân khẩu ý thanh tịnh. Cổ Đức nói: Trên nhà xí cùng người nói chuyện tướng rất là hạ tiện.”
Nhà cầu bây giờ riêng biệt kín đáo, chứ ngày xưa nhà cầu dài một dọc chỉ ngăn cái vách thôi. Vào đó thì không được nói chuyện, cũng không được hát. Hát trong nhà cầu là tướng hạ tiện không tốt.
“Chẳng được nhổ phun trong vách.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Có hai cái lỗi: Thứ nhất là sợ đụng nhầm kẻ phi nhân, tự mình mất phước, thứ hai người thấy sanh hiềm khiến quỷ kinh sợ.”
Trong Liệt Vị Truyện có kể câu chuyện:
Đời nhà Tấn, ở Nam Dương có một vị cư sĩ tên là Kinh Bá ban đêm đi gặp quỷ mới hỏi rằng: “Quỷ ghét chỗ nào?” Đáp rằng: “Chỉ phun nhổ người bất thiện.”
Quỷ nói chỉ phun nhổ vào mặt người làm việc bất thiện. Chư Tăng mà phun nhổ nước miếng trong vách, quỷ nó ghét lắm. Nó ghét thì cái phước mình ngày càng tổn giảm.
“Gặp người không nên làm lễ, phải nghiêng mình mà lánh đi.”
“Có hai lỗi: thứ nhất mình thiếu pháp cung kính, thứ hai là không nhằm chỗ mà làm lễ.”
Đi cầu xong mình gặp Thầy trụ trì, hay bất cứ thầy nào cũng không làm lễ gì hết, làm lễ thì thiếu pháp cung kính, và cũng không nhằm chỗ mà làm lễ.
“ Chẳng được đi dọc đường mà buộc dải áo.”
Cái quần của mình có sợi dây, nếu không đứng ở trong buộc, mà mở cửa ra vừa đi vừa buộc thì rất là kỳ.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Khi khác cởi áo hoặc buộc dải cũng chẳng được đi dọc đường buộc và cởi, huống nữa vào nhà xí bày thân, lộ thể ư? Tuy là chỗ dơ uế chẳng có thể dừng lâu, song cũng phải buộc rồi mới đi.”
Tuy là chỗ nhơ uế, tức là mình phải đi cho nhanh thì cũng phải dừng một chút, buộc xong rồi mới đi.
“Đại tiện rồi phải rửa tay cho sạch, như chưa sạch chẳng được cầm vật gì. Phật dạy: Tẩy tịnh như vậy có lợi ích lớn. Phàm là người xuất gia quy y với ta, kính ta làm Thầy đều phải tẩy tịnh. Bằng chẳng y theo pháp tẩy tịnh này chẳng cho nhiễu tháp, đi kinh hành, chẳng nên lễ Phật, tụng kinh, tọa thiền.”
Có người nói, đi tụng kinh hay đi làm gì đó mà thân bất tịnh thì cũng không sao. Nhưng họ không biết, pháp oai nghi không cho phép, thân mình bất tịnh thì mình không được phước, cho nên thân phải sạch sẽ. Quý thầy mà đủ duyên vào thất, theo tôi kinh nghiệm, trước khi sám hối mình tắm rửa sạch sẽ thì sám hối có năng lực hơn là ba bốn ngày tắm một lần. Có những người ba bốn ngày tắm một lần, nói rằng sám hối do tâm, nhưng mà không phải vậy, nó ứng tác ra mười phương chư Phật chứng giám nữa. Phải học sự, học lý luôn chứ học lý không thì không được.
Phật nói rất rõ, mình không có pháp tẩy tịnh thì đừng nhiễu tháp, kinh hành, lễ Phật, tụng kinh, tọa thiền. Uổng công! Quý thầy đi cầu mà không rửa tay rửa chân cho sạch thì lên ngồi thiền không yên ổn gì.
“Mình chẳng nên lạy người cũng chẳng được chịu người lễ lạy, chẳng nên ăn uống của thường trụ, chẳng ngồi giường chúng Tăng, chẳng được vào trong chúng. Dầu có trì chú, tụng kinh, tọa thiền cũng không có hiệu nghiệm. Dẫu trai tăng cúng dường, tả kinh, tạo tượng được phước chẳng bao nhiêu. Các ông đều phải y lời ta dạy chớ nên khinh dễ, làm việc bất tịnh, biếng nhác buông lung, làm hạnh thấp hèn phải đọa trong ba đường ác.”
Phật thương Phật dạy phải y lời Phật chớ nên khinh dễ làm việc bất tịnh.
Lúc rửa tay thầm tưởng bài kệ:
Lấy nước rửa tay,
Nguyện cho chúng sanh,
Được tay trong sạch,
Thọ trì Phật pháp.
Tức là dùng nước tam muội, nước chánh định rửa tay nhơ bẩn, tham, sân, si, và dùng nước định lóng trong để gạn lọc tham sân, tật đố.
“Nên Phật dạy tay dơ mà cầm kinh dễ bị quả báo làm con trùng trong nhà xí.”
Kinh là Pháp bảo. Tổ Đạt-ma nói: Trong các thứ báu tột của thế gian, Pháp bảo là quý nhất. Mình quý Pháp bảo vì trong đó là lời chư Phật, chư Tổ nói. Chúng ta tôn trọng kinh điển, tức là Pháp bảo thì làm việc gì phải biết thu thúc sáu căn, chánh niệm. Có chánh niệm thì đi cầu ra quý thầy rửa tay rất là sạch.
Trong kinh A-hàm, bộ chín:
Một thời Đức Phật ở tại vườn Kỳ Đà, Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ, bấy giờ Đức Phật gọi các thầy Tỷ-kheo, các thầy Tỷ-kheo đều vâng dạ, Phật dạy: “Này các thầy Tỷ-kheo! Có ba pháp thiện đem lại an lạc, người có trí tuệ muốn cầu thiện pháp ấy thì phải hộ trì giới luật”.
Phật nói với các thầy Tỳ-kheo là có ba thiện pháp đem lại sự an lạc, hạnh phúc, an ổn, có chánh định, chánh niệm. Người trí huệ muốn cầu thiện pháp đó thì phải hộ trì giới luật:
1- Muốn được an vui, được tiếng khen đúng pháp thì phải hộ trì giới luật.
Muốn được an vui, an ổn, muốn được chánh định, mười phương đều khen ngợi thì phải hộ trì giới luật.
2- Muốn được an vui, có tài sản vừa ý thì phải hộ trì giới luật.
Muốn được an vui, rồi có tài sản vừa ý, cần gì tự nhiên có để cho mình làm Phật sự thì phải hộ trì giới luật.
3- Luôn nhớ nghĩ về thân thọ này, đời sau muốn sanh vào cõi trời người có trí huệ lớn thì phải hộ trì giới luật.
Người có trí huệ muốn được ba ước nguyện về tiếng khen, lợi ích hiện tại, đời sau sanh vào cõi trời người thì phải giữ giới. Người có trí huệ thực hiện những điều trên thì ngay đời này luôn được an lạc, luôn được hạnh phúc.
Tức là phải giữ giới luật cho được thanh tịnh.
Trong suốt một năm học về giới luật, quý thầy có ý kiến hay thắc mắc gì không?
Hỏi: Khi vào nhà vệ sinh đại, tiểu tiện thì phải thay đổi dép, vậy khi tắm có thay đổi dép không?
Đáp: Khi tắm càng phải thay đổi dép. Ngày xưa mình nghĩ mang dép vào nhà tắm hay vào nhà vệ sinh tiểu tiện thì cũng không có gì, tắm rồi dội thôi. Nhưng ở đây tại sao vào nhà tắm, vào nhà vệ sinh phải thay đổi dép? Mang dép vào nhà tắm, nhà cầu, những chỗ đó không được thanh tịnh, rồi mình đi lên nhà ăn hoặc chánh điện, nhà Tổ, tất cả bị dơ uế. Lý thiền sâu nữa là trước khi vào chỗ đó, mình buông xả hết mọi tư tưởng tạp niệm, không còn tạp dụng tâm nữa.
Buông xả rồi thay thế bằng đức tính từ, bi, hỉ, xả. Có nghĩa là vào cõi đó quý thầy phải quán niệm đây là cõi chúng sanh xấu ác nhất: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phải dùng năng lực để vào cõi này. Muốn dùng năng lực vào cõi này thì phải thay đổi đôi dép. Đó là thiền. Chuyển rồi thì thấy có năng lực. Kinh Bồ Tát Giới nói: “Người thọ Bồ-tát giới đã bước vào định vị của Bồ-tát”. Bước vào định vị của Bồ-tát rồi thì phải có năng lực quán tưởng là buông xả hết ba độc để vào cõi chúng sanh xấu ác này. Không buông bỏ ba độc đó, chúng ta vào không được. Bởi vì vào đó chúng sanh nghịch duyên rất nhiều, còn ba độc là không làm được.
Nghe nói vậy quý thầy hỏi thầy làm được chưa mà thầy nói. Chưa làm được mà quý thầy phát nguyện là bước vào sơ địa Bồ-tát, định vị Bồ-tát. Bước vào lộ trình Bồ-tát rồi thì đời đời kiếp kiếp quý thầy đều đi vào con đường này. Cho nên Phật nói Địa Tạng Vương Bồ-tát: “Này các Thầy Tỷ-kheo! Địa Tạng Vương Bồ-tát sau khi phát nguyện, năng lực của ngài mười phương cõi Phật không tính đếm được.” Đó là năng lực của người sau khi phát nguyện đi vào cuộc đời này để nhiếp phục chúng sanh.
Cho nên vào đó phải buông bỏ, thay thế một cái gì để hợp cơ với chúng sanh đó. Lúc buông bỏ, thêm một pháp nữa là chúng ta chánh niệm. Quán tưởng như thế rồi thì tự nhiên mình tu hành có niềm vui lớn, không bao giờ thối thoát nữa.
Ngày xưa tôi qua Canada ở một mình, có những người nghĩ tôi chắc chừng ba tháng hay sáu tháng là rớt, ở một mình là rớt liền. Thấy tôi về mọi người nói:
– Ủa, ông còn hả?
Tôi nói:
– Sao không còn?
Bởi vì đi vào cuộc đời làm Phật sự, quý thầy phải có nguyện lực thật sâu thì tự nhiên mọi hoàn cảnh, mọi chướng duyên quý thầy vượt qua hết. Luôn luôn mình nhớ cái nguyện này. Mình sanh ra đời không phải mình ăn, uống, tiểu tiện,… mà còn có một cái gì cao siêu, cao quý hơn. Người tu mà không có mục đích thì bảo đảm rớt. Nếu không có mục đích thì tu một thời gian tự nhiên không còn muốn tu nữa, mình chán pháp xuất thế gian mà lại thèm khát pháp thế gian.
Cho nên vào nhà tắm, cầu tiêu, lúc ăn cơm, lúc làm hành đường, trị nhật đều phát nguyện lực lớn, mà phát nguyện lực rồi thì tự nhiên có năng lực, có sức hút. Chính sức hút đó thì tự nhiên quý thầy ngồi thiền cũng thích, tụng kinh cũng thích, làm thiện pháp cũng thích chứ không còn muốn làm ác pháp nữa.
14. Phép Nằm Ngủ
“Nằm phải nằm nghiêng bên hông phải gọi là ngủ kiết tường. Chẳng được nằm sấp cùng nằm hông bên trái.”
Ở ngoài đời, nằm ngủ kiểu nào cũng được. Tại sao chư Phật, chư Tổ dạy, ngủ không được nằm sấp hoặc nằm ngửa, không nằm hông bên trái? Đức Phật sau khi ngộ đạo, Ngài thấu tột được pháp giới, cho nên ngài dạy điều gì đều có mục đích.
Trong ba mươi hai tướng tốt của Phật có tướng chữ Vạn, nghĩa là kiết tường. Kiết tường là sự tốt lành, ngủ theo thế kiết tường thì ít khi nào thấy mộng dữ.
Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư dạy:
“Nằm nghiêng hông bên phải là khuôn phép đặc vị của Phật, Tổ. Nghĩa là pháp nằm của Sa-môn phải nằm như sư tử vương tức là giống như sư tử chúa.”
Sư tử chúa lúc nào cũng nằm nghiêng hông bên phải, giống như người tu nằm vậy. Tổ Tuyên Luật Sư dạy, nằm nghiêng hông bên phải là khuôn phép đặc vị của Phật Tổ, chứ không phải chuyện thường. Mười phương chư Phật đều nằm theo thế kiết tường. Quý thầy nằm thế kiết tường được chưa? Nhiều người nói, nằm chừng hai tiếng giựt mình dậy thấy cũng nằm ngửa. Phải tập thường xuyên mới được. Bữa nào quý thầy ăn chiều nhiều, hoặc nói khác hơn là tâm dục mạnh, giựt mình dậy phần nhiều là nằm hông bên trái.
“Xuôi thân nghiêng bên phải sát chiếu, trần hai chân, ngậm miệng, tay phải gối đầu, duỗi tay bên trái để xuôi trên mình, chẳng bỏ niệm huệ, tư duy Tam bảo thì ác mộng chẳng khởi, tâm chẳng điên đảo nên gọi là ngủ kiết tường.”
Kinh Bảo Lương có nói:
“Nằm ngửa là cách nằm của loài A-tu-la.”
Ngày xưa ở quê tôi có một vị Hòa thượng, đợi chúng ngủ hết rồi Hòa thượng đi xuống coi từng đơn, Hòa thượng nói, nhìn thế ngủ của người nào là biết người đó từ cảnh giới nào đến. Chẳng hạn, nằm sấp là từ cảnh giới ngạ quỷ đến. Nằm hông bên trái là cách nằm của người tham dục.
“Đến cuối đêm liền dậy, ngồi ngay lo nghĩ chánh nghiệp của mình. Cũng chẳng nên nằm ngủ ngáy pho pho.”
Đến cuối đêm, ba giờ hoặc ba giờ mười lăm là phải dậy liền, ngồi ngay lại lo nghĩ chánh nghiệp của mình. Chánh nghiệp của người xuất gia là làm thế nào đoạn hoặc, chứng chơn, tức là tiêu dung vọng tưởng của mình, để đạt đến chỗ cứu kính Niết-bàn. Cũng chẳng nên nằm ngủ ngáy pho pho, có nghĩa là phải làm chủ được thân, khẩu, ý tức là làm chủ được ba nghiệp.
Thiền sư Bạch Ẩn nói:
“Nếu bạn là tớ gái, là người lái thuyền, là người nghèo cùng nhất trong xã hội mà làm chủ được thân, khẩu, ý thì bạn cũng là một người giàu có vô song, đạo hạnh và trí huệ. Nếu chưa làm chủ được thân thì dầu bạn là vua, là đại thần, chức tước bổng lộc thật cao thì bạn cũng là một người nghèo nàn, thấp kém và ngu dốt nhất.”
Ba giờ mười lăm, đại chúng dậy hết mà mình còn ngủ là chưa làm chủ được thân. Lên ngồi thiền, mình tiếp tục ngủ nữa thì càng chưa làm chủ được thân.
Thiền sư Bạch Ẩn khẳng định, dầu là người thất học, nghèo nàn mà làm chủ được thân, khẩu, ý thì cũng là người giàu có, đạo hạnh và trí huệ. Còn biện luận siêu phàm cỡ như Lâm Tế, Đức Sơn mà không làm chủ được thân, khẩu, ý, thì cũng là người ngu dốt, thấp kém nhất.
Thiền sư Tông Mật dạy:
Tác hữu nghĩa sự,
Thị tỉnh ngộ tâm.
Tác vô nghĩa sự,
Thị cuồng loạn tâm.
Cuồng loạn tùy tình niệm,
Lâm chung bị nghiệp khiên.
Tỉnh ngộ bất do tình,
Lâm chung năng chuyển nghiệp.
Có nghĩa là:
Làm việc có nghĩa,
Là tâm tỉnh ngộ.
Sáng đại chúng đều dậy hết thì mình dậy, tức là tâm tỉnh ngộ. Tâm tỉnh ngộ để gia công tu tập thiền định. Nếu không chịu dậy mà tiếp tục ngủ là:
Làm việc vô nghĩa,
Là tâm cuồng loạn.
Bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ hết tất cả vào Thiền viện tu tập, mà không lo suy nghĩ chánh nghiệp của mình, thì Thiền sư Tông Mật nói mình làm việc vô nghĩa.
Cuồng loạn theo tình nghiệp,
Lâm chung bị nghiệp lôi.
Mình không tỉnh thức, cuồng loạn, không chuyển hóa những vọng tưởng điên đảo, thì khi chết chắc chắn bị nghiệp lôi. Thiền sư Bạch Ẩn nói cọp, sói, sư tử cho dù hung dữ cũng không sợ, bởi nó giết mình chỉ một đời thôi, nhưng vọng tưởng thì giết mình vô số kiếp.
Tỉnh ngộ không theo tình,
Lâm chung hay chuyển nghiệp.
Trong lúc tỉnh ngộ, không chạy theo vọng tình điên đảo thì lúc chết, người này có năng lực chuyển được nghiệp khổ thành nghiệp vui, nghiệp thanh tịnh.
Lục Thiện Kiếm nói:
“Khi gần sắp ngủ, trước phải niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên.”
Ở đây không phải lục niệm của Phật A-di-đà. Theo tinh thần Kinh Tạp A Hàm, lục niệm là:
1- Niệm Phật có nghĩa là nghĩ nhớ công đức vô lượng đại từ đại bi của chư Phật.
Nằm nghiêng hông bên phải rồi nghĩ nhớ đến công đức vô lượng, đại từ đại bi của chư Phật. Nếu Đức Phật không bỏ hết gia sản, vợ đẹp con thơ để xuất gia tầm đạo thì ngày hôm nay, mình không biết được chánh pháp của chư Phật. Nghĩ nhớ đến công đức vô lượng đại từ đại bi của chư Phật, thì có một năng lực sung mãn tác động đến. Chẳng hạn, người nào đi qua Ấn Độ lễ tứ động tâm, nếu trong giờ phút thực tại đó đang lễ Phật, hay đang nhiễu tháp mà chết thì tức khắc được sanh thiên. Nghe thế tưởng đạo Phật mê tín, nhưng không phải, động tâm là rung cảm tâm thức của mình. Lúc này không còn nhớ nghĩ niệm ác nữa, nên vừa chết là có một năng lực lớn đưa thẳng mình về cảnh giới lành.
2- Niệm Pháp tức là nghĩ nhớ ba tạng, mười hai loại kinh của Đức Phật đã dạy để làm lợi ích cho khắp tất cả chúng sanh.
Mục đích chính của người tu là làm lợi ích cho khắp tất cả chúng sanh. Trước khi ngủ, mình nghĩ nhớ ba tạng kinh chứ không phải nằm lại nhớ chuyện gia đình, chuyện xã hội. Những người còn trẻ đi xuất gia thì dễ. Người lỡ lập gia đình rồi, đi tu mà nhớ nghĩ chuyện gia đình thì phải tìm cách chuyển hóa những hạt giống này liền, nếu không những hạt giống này sẽ lôi mình ra, không còn được tiếp tục tu hành trong chánh pháp của Phật. Cho nên phải nhớ đến pháp, là nghĩ nhớ đến những lời kinh chư Phật, chư Tổ dạy để mình thâm nhập, làm lợi ích cho chúng sanh.
3- Niệm Tăng là nghĩ nhớ chư Tăng đầy đủ giới – định – tuệ, làm ruộng phước cho chúng sanh.
Tức là nghĩ nhớ tới đại chúng. Không nghĩ chuyện hơn thua, hận thù hay tật đố mà chỉ nhớ đến công hạnh lớn của chư Tăng, đã vì đại chúng vừa làm việc vừa tu giới, tu định, tu tuệ. Nhờ những vị này mà chúng sanh làm ruộng phước được. Nghĩ như vậy quý thầy rất an ổn, lỡ chết cũng được sanh về nhàn cảnh.
4- Niệm giới là nghĩ nhớ giới hạnh có một năng lực lớn hay trừ phiền não xấu của chúng sanh.
Nhờ nghĩ nhớ về giới hạnh, giữ giới nên phiền não ngày càng vơi bớt.
5- Niệm thí là nghĩ nhớ bố thí, có công đức lớn hay trừ tham lam, keo kiệt của chúng sanh.
Nhờ công đức nghĩ nhớ đến việc bố thí, tâm tham lam, bỏn xẻn ngày càng vơi bớt.
6- Niệm thiên là nghĩ nhớ chư thiên ở ba cõi đều nhờ căn lành đời xưa đã tu tịnh giới, bố thí văn huệ mà được quả báo an vui này.
Nghĩ như thế chúng ta tu rất an ổn, nhẹ nhàng. Đó là những phương pháp lúc nằm ngủ, để chúng ta buông hết tâm nghĩ nhớ về tật đố, ích kỷ, bỏn xẻn, tham lam.
Trong Hoa Nghiêm Nghĩa Hải, Đại sư Pháp Tạng phân tích phương pháp tu Tứ Oai Nghi theo tinh thần Hoa Nghiêm, có nghĩa là trong bốn oai nghi đều phải tu tập:
1- Ở trên trần cảnh khai hiển pháp môn pháp giới, khai thị cho tất cả chúng sanh, ấy gọi là hành. Kinh nói Bồ-tát có hai loại hành, nghĩa là nghe pháp rồi hành. Vui thích nghe pháp, nói pháp lợi ích cho chúng sanh.
Hành tức là đi, trong lúc đi mình cũng công phu, tức là hành. Trong lúc đi mình không nghĩ nhớ, vọng tưởng, mà trên trần cảnh khai hiển pháp môn pháp giới, có nghĩa là trong lúc chẻ củi, hành đường, làm tất cả mọi việc mình đều tu. Ở đâu có giảng pháp, giảng dạy về giới luật, về định, về tuệ thì mình rất vui thích được nghe. Nghe để hành rồi làm lợi ích chúng sanh.
2- Ở trên trần đại trí bình đẳng, tùy thuận quán sát trần từ duyên mà khởi. Vô sanh, vô tướng ấy gọi là trụ. Kinh nói tùy thuận mà trụ. Trụ ở đâu? Trụ trong chánh pháp.
Trụ tức là đứng. Vào công phu, ngài bắt buộc mình phải thấy điểm này. Mình tu tập muốn giữ giới được thanh tịnh, trọn vẹn, chẳng hạn xuống kho, thấy cái gì đó định lấy thì mình quán chiếu: trần cảnh này từ duyên mà khởi. Duyên ở đâu? Duyên vọng tưởng của mình. Chuẩn bị lấy là thấy rõ từng hạt giống vọng tưởng điên đảo. Thấy được như thế, tức khắc mình chuyển hóa liền. Ngay trong giờ phút thực tại đó là vô sanh, vô tướng, ấy gọi là trụ, tức là đứng. Đứng trong chánh pháp chứ không phải đứng trong dục huyễn thế gian.
3- Ở trên trần cảnh thấu tột nghĩa không tịch thậm thâm ấy là tọa. Kinh nói, nghĩa là ngồi trên tòa sư tử diễn thuyết chánh pháp thậm thâm của chư Phật.
Trong lúc ngồi thiền, trong lúc ngồi chơi mình quán chiếu thật sâu, ngồi ở đâu? Ngồi trên tòa sư tử diễn thuyết chánh pháp của mười phương chư Phật.
4- Ở trên trần cảnh danh tướng diệt tận, quán tâm tịch diệt vắng lặng vô vi, ấy gọi là nằm. Kinh nói nghĩa là nằm tịch diệt, thân tâm vắng lặng. Lại nằm ở trong thiền định, chánh niệm tư duy quán chiếu.
Trong bốn oai nghi, ngài đều chỉ cho mình phương pháp tu.
“Chớ nên cùng thầy đồng nhà, đồng giường. Hoặc đặng đồng nhà chẳng được đồng giường. Cũng chớ nên cùng Sa-di đồng sự ngủ chung một giường.”
Ở nhà mình giường rộng ngủ chung, còn tất cả người tu chỉ ngủ một mình một đơn. Nếu hai người ngủ chung đơn là phạm giới.
Trong Tăng Hộ Tỳ-kheo có ghi, một hôm ngài tu chứng quả rồi ngài thấy trong địa ngục có hai ông Sa-di ôm nhau nằm, lửa dữ đốt thân chịu khổ không dứt. Ngài về bạch Phật, Phật nói vào thời Đức Phật Đại Ca-diếp, hai ông Sa-di này chung một mền nệm ôm nhau mà ngủ. Do nhân duyên như vậy, vào trong địa ngục lửa đốt mền nệm, trong đó ôm nhau chịu khổ đến nay chưa dứt.
Từ Phật Ca-diếp đến Phật Thích-ca là không biết bao nhiêu đời, mà hai ông Sa-di này vẫn chịu khổ địa ngục. Quý thầy nhớ đừng ngủ chung. Tôi thấy có người nằm một đơn giỡn cười, nếu chúng ta không biết cách chuyển hóa thì bị nghiệp khổ sau này.
Kinh Công Đức Viên Mãn nói:
“Tỳ-kheo đời mạt pháp dâm dục lẫy lừng ngày đêm đến nỗi phạm đến trẻ nhỏ. Bên ngoài tương tự như Tăng, nội tâm như ngoại đạo. Tuy nam nữ riêng có khác mà nghiệp nhân sở niệm cũng chỉ là một.”
Nếu người nào phạm giới này, Hòa thượng Trúc Lâm đuổi đi liền mà không cho lên chào, ngài dặn Thủ Bổn cũng không cho tiền về. Thiền viện mình cũng khá, là không ai phạm giới này.
Thiền sư Văn Thủ nói:
“Cận cổ đến nay, đệ tử Thiền môn cho việc phạm nam sắc (tức là đồng tính luyến ái) là thường. Thói quen theo thế tục lâu ngày thành tệ, không còn biết đó là quấy, thậm chí có người đã nhận danh tri thức mà cũng không kiêng sợ. Sao họ lại lầm lẫn điên cuồng như thế?”
Vào đời tượng pháp, Thiền sư Văn Thủ chứng kiến trong tùng lâm đã có như thế nên ngài mới dạy. Tưởng chuyện đó không có gì nhưng đều bị phạm giới.
“Phải máng giày dép cùng áo nhỏ chớ nên khỏi đầu, mặt người.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Phàm là y mặc dưới thân, máng khỏi đầu, mặt người tổn phước mà chiêu lấy quả khổ nên chẳng được máng cao.”
Hồi còn ở nhà khách, tôi phải dọn hàng ngày. Cư sĩ chưa học về giới luật cho nên máng quần ngắn, quần đùi, đủ thứ quần ở trên cao mà bên dưới thì quý thầy đi qua đi lại. Tôi nói suốt mà họ không nhớ. Cư sĩ không học giới luật, không học oai nghi phép tắc nhưng dạy họ không tin. Trên đầu người chỉ được máng áo, không được máng quần. Học oai nghi phép tắc rất hay, rất vi diệu, mỗi pháp đều trong cảnh giới thanh tịnh của mười phương chư Phật.
“Chẳng được mặc áo trong mà nằm. Chẳng được nằm trên giường cười nói lớn tiếng.”
Không được cởi áo ngoài chỉ mặc áo thun. Nếu quý thầy về nhà ở Sài gòn, hay ở đâu mà mặc áo thun thì cũng không cho phép, mất oai nghi. Lên thành phố, tôi thấy có những vị thầy mặc áo thun, quần short, nhìn giống như người đời chứ không phải người tu nữa. Bây giờ mọi người cũng cạo đầu, mặc áo thun, quần short. Không khéo người ta tưởng mình ở đâu đến chứ không biết mình là người xuất gia.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Ý chí nơi đạo giả thì ngủ nghỉ rất ít mà kinh hành thì nhiều, hoặc lao tâm cực nhọc, tạm ngủ chút ít. Cho nên người xưa tự lấy gỗ tròn làm gối mà tự thệ nguyện.”
Thiền Quan Sách Tấn có ghi, thị giả Triết khi ngủ lấy gối tròn bằng gỗ kê đầu. Vừa trở mình thì đầu rớt xuống chiếu ngài giựt mình thức dậy tu tập. Ngài lấy đó làm qui tắc nhất định hàng ngày trong việc tu hành. Có người bảo: “Dụng tâm như thế là thái quá.” Ngài nói: “Tôi duyên trong đạo Bát-nhã rất mỏng manh, nếu không cố gắng như vậy sợ vọng tập lôi kéo cho nên phải làm như thế.”
Hồi xưa sau khi học Thiền sử, chúng tôi bắt chước, ai cũng kê khúc gỗ làm gối. Ngủ như vậy một thời gian bị Hòa thượng và Thầy quản chúng phát hiện, xuống rầy. Bởi vì nằm như vậy rất khó ngủ, rồi nửa đêm thức giấc ngồi thiền, như thế thì ba giờ rưỡi lên ngồi thiền chung với chúng sẽ bị hôn trầm. Vào thất thì được, chứ ở trong chúng các ngài không cho phép.
Đọc bốn bộ kinh A Hàm thấy Đức Phật ngủ rất ít. Nói là ngủ chứ thật ra không ngủ. Ngài nằm nghiêng bên hông phải, tư duy quán niệm thật sâu. Chừng một tiếng ngài dậy bắt đầu ngồi thiền định. Đầu hôm ngài giáo giới cho chư thiên, cuối hôm ngài thiền định chứ ngài ngủ rất ít.
Ngài Xá-lợi-phất cũng ngủ rất ít mà chuyên đi kinh hành. Ông Cấp Cô Độc ngạc nhiên hỏi, ngài nói những người chứng quả vị A-la-hán rồi thì vọng tưởng không còn nên ít ngủ. Ăn, mặc cũng ít. Ăn, mặc, ngủ ít thì đúng là bậc vô vị chân nhân. Còn mình ăn nhiều, ngủ nhiều, mặc nhiều thì là phàm tăng.
Thiền sư Lai Quả khai thị:
“Ba điều thường không đủ là: Mặc không đủ, ăn không đủ, ngủ không đủ. Ba điều này thường sung túc thì trái với đạo, ba điều này thường không đủ thì tương ưng với đạo.”
Nghe như thế quý thầy về mặc áo rách, áo hở thì không được. Hòa thượng, Thầy Trụ trì thường nói, thầy dạy giới luật nói mặc không đủ, rồi tụi con mặc không đủ ấm coi chừng bị cảm. Ngày xưa khác, bây giờ lạnh thì áo quần phải mặc đủ ấm.
Vào thời Đức Phật có một thầy Tỳ-kheo mặc một y thấy lạnh, Phật bảo đắp thêm y thứ hai, thầy cũng còn thấy lạnh, Phật dạy đắp y thứ ba, thầy nói dạ đủ ấm. Từ đó Phật chế ba y.
Nếu nhập thất, ở riêng một mình thì tối, quý thầy mặc vừa vừa đừng ấm quá để mình thức giấc mười hai giờ, hay một giờ ngồi thiền cũng tốt. Nhưng ở trong đại chúng thì đừng làm vậy, mặc cho ấm, ngủ một giấc cho ngon để ba giờ rưỡi mình ngồi thiền với đại chúng.
Có một số Phật tử đến Thiền viện thấy dọn cơm chỉ có rau luộc, nước tương với vài miếng tàu hủ, họ nói sao quý thầy ăn khổ vậy. Tôi nói hằng ngày ăn như thế, lâu lâu có đám thì thức ăn mới nhiều hơn. Họ xúc động nên cúng dường chúng.
“Nếu đúng lúc ngủ mà chẳng ngủ thì thân thể lao nhọc, chẳng phải lúc ngủ mà ngủ là chướng đạo pháp.”
Ngủ không đúng, ngủ phi thời là chướng đạo. Đại chúng làm việc hết mà mình đắp mền ngủ là chướng đạo rồi, mà chướng đường duyên phước của mình nữa. Trên bước đường tu học, nếu không đủ phước bảo đảm tu không được. Tu một thời gian cũng bị hoàn cảnh, ngoại duyên đẩy lùi. Phải có đủ phước, đủ đức, đủ lực thì tu mới được.
“Cho nên ngủ phải đúng giờ mới hợp với qui củ. Nếu trái phạm thì một giấc ngủ một ngàn năm cũng chẳng nghe được danh hiệu Phật. Khổ thay! Khổ thay!”
Đó là lời ngài dạy.
“Chẳng được trước Thánh tượng và chốn Pháp đường xách đồ nhơ đi qua.”
Chẳng hạn trước Chánh điện quý thầy không được xách đồ nhơ, uế đi qua.
Bồ-tát Long Thọ nói:
“Khiếp sợ sanh tử, người ta thường nỗ lực thường trực để giác ngộ, không phí mất ngày cũng như đêm. Người ta cần sử dụng tất cả thời gian của mình để thực hành con đường dẫn đến giải thoát. Hơn nữa người ta phải ngủ khoảng giữa đêm với ý nghĩ ngủ không quá lâu và dùng giấc ngủ đó như một phần của con đường hướng đến giải thoát. Hãy ngủ như bậc Bảo vệ (tức là Đức Phật) đã ngủ vào lúc ngài Niết-bàn theo hướng nào mình muốn. Trước khi ngủ hãy in vào trí mình một cách có ý thức và cương quyết mình sẽ dậy thật sớm.”
Bồ-tát Long Thọ dạy chúng ta ngủ ít, ráng công phu tu tập là vì khiếp sợ sanh tử. Tỳ-kheo Khema soi vô số kiếp về trước, khi bà thấy trong một kiếp bà là con chuột cống, ăn đồ nhơ thì bà không dám quán chiếu nữa, bà sợ quá kiếp sanh tử của bà. Người chứng quả A-la-hán soi được tám mươi bốn ngàn kiếp quá khứ, thấy từng kiếp đi qua. Bây giờ mắt Thánh chưa mở cho nên mình thấy sự sanh tử, chết sống không dính dáng gì.
Phật pháp có ba căn cứ lý luận: Hiện lượng, Tỷ lượng, Phật ngôn lượng:
– Hiện lượng: Đích thân mình thấy, cảm nhận, chứng nghiệm được, tức là dùng sự thật để chứng minh.
– Tỷ lượng: Là so sánh, chẳng hạn thấy khói biết đằng kia có lửa, tức là dùng so sánh mà chứng minh.
– Phật ngôn lượng: Y nơi kinh Phật dạy mà biết. Nghe Phật nói sanh tử mình biết sợ, cố gắng tu.
Hãy ngủ như bậc Bảo vệ (Đức Phật) đã ngủ vào lúc ngài Niết-bàn theo hướng nào mình muốn. Tức là mình mong muốn tu tập như thế nào đó, để giác ngộ giải thoát. Trước khi ngủ hãy in vào trí mình một cách có ý thức và cương quyết mình sẽ dậy thật sớm. Ở trong đại chúng thì không cần, nhưng trong lúc nhập thất, thì quý thầy phải nhớ dậy sớm để tu tập.
15. Phép Quanh Lò Hơ Lửa
Vào thời chư Tổ bên Trung Hoa, khí hậu rất lạnh, chư tăng phải hơ lửa mới chịu nổi.
“Chẳng được giao đầu kề tai nói bậy, chẳng được khảy mồ hôi nhơ trong lửa.”
Sa-Di Học Xứ ghi:
“Nếu giao đầu kề tai nói bậy thì mất oai nghi, nói bậy thì phế bỏ chánh nghiệp, cũng là cái gốc thị phi.”
Ngồi một mình thì không sao, hai người cũng không đến nỗi, nhưng ba bốn người ngồi với nhau tự nhiên chuyện thị phi nó đến.
Hòa thượng Ngũ Tổ nói:
Thiền sư Tú (tức là Pháp Tú) ở Viên Thông nhân khi tuyết rơi nói: Tuyết rơi có ba hạng Tăng:
1- Người bậc thượng thì ở trong Tăng đường tọa thiền.
Bữa nào khí hậu lạnh mà ba, bốn giờ sáng mình vào thiền đường tọa thiền thì đó là bậc thượng.
2- Người bậc trung mài mực chấm bút làm thơ.
Thấy tuyết rơi chấm bút làm thơ về tuyết thì là người bậc trung.
3- Người bậc hạ thì ngồi quanh lò lửa.
Bậc hạ thì ngồi quanh lò lửa uống trà, nói về chuyện ăn uống rồi cười giỡn.
Ngũ Tổ vào mùa đông năm Đinh Mùi ở tại Hổ Khâu, đích thân thấy ba hạng Tăng này, bất chợt nực cười. Mới biết rõ lời người xưa chẳng có hư dối vậy.
“Chẳng được hong phơi giày, vớ. Chẳng được hơ lửa quá lâu, sợ mích lòng người sau nên vừa ấm liền phải về chỗ.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Lục hòa đồng trụ, lạnh nóng tương đồng, muốn trong lửa hơ lâu ấy là chẳng vì chúng, nên phải biết đủ.”
16. Phép Ở Trong Liêu Phòng
Bài răn nhắc Phép Ở Trong Liêu Phòng của Thiền sư Đạo Nguyên ở chùa Vĩnh Bình:
“Phép ở trong liêu phải kính tuân theo giới luật của Phật Tổ, đồng thời nương theo oai nghi của Đại thừa, Tiểu thừa đúng như thanh qui của Tổ Bá Trượng. Thanh qui nói: Không kể việc lớn hay nhỏ đều phải hợp với phép tắc đã răn nhắc.”
Thanh Qui Tổ Bá Trượng gồm bốn quyển bằng chữ Hán, nói về những lễ nghi, phép tắc mà Thiền môn ứng dụng trong bốn oai nghi. Trong đó nói rất rõ đường hướng tu tập ngày xưa như thế nào.
Ở đây ngài nói phép ở trong liêu phải kính tuân theo giới luật của Phật Tổ, đồng thời nương theo oai nghi của Đại thừa, Tiểu thừa, tức là nương theo cả hai.
“Trong liêu nên xem kinh Đại thừa cùng lời của chư Tổ, tự phải khế hợp với lời khuyên dạy trong nhà nơi Cổ giáo đã sơ tâm. Tiên sư dạy chúng: Ông đã từng xem kinh Di Giáo chăng? Chúng thanh tịnh trong toàn cả liêu, mỗi người đều phải trụ với niệm: Là cha mẹ, là anh em ruột thịt.”
Theo như Kinh Di Giáo dạy, chúng thanh tịnh trong toàn cả liêu, mỗi người đều phải trụ với niệm người ở cùng liêu với mình trong thời quá khứ là cha mẹ, anh em ruột thịt, cho nên mình phải kính, dù cho người đó nổi nóng với mình. Gặp những hoàn cảnh nghịch duyên trong đại chúng, gặp người làm dữ với mình, tôi quán chiếu tức thì: biết đâu người này từng là cha hoặc mẹ mình. Quán chiếu như thế, xong phải đi liền đừng đứng ở đó. Vì nếu niệm quán chiếu yếu, một hồi sợ xảy ra chuyện khác, biết sóng lớn thì thuyền đừng ra khơi. Trong chúng nhiều người thì nhiều hạnh, mà cũng nhiều nghịch cảnh, nghịch duyên, cho nên ở trong chúng rất khó.
Trong bài “Tham Thiền Phổ Thuyết” của Thiền sư Lai Quả trang thứ mười, ngài nói người ở trong chúng đúng mười năm đừng đi đâu hết, dù chưa ngộ đạo, cha mẹ nếu chết tức khắc được sanh thiên. Là một bậc chứng đạo, ngài nói: lời của ta không hư dối. Ngài còn nói, người ở trong tùng lâm dù không ngộ đạo, chết cũng được xây tháp. Cho nên đừng sợ không ngộ đạo, chỉ sợ mình ở không được. Phải nhiều đời nhiều kiếp gieo hạt giống Phật mới ở được trong tùng lâm chớ không phải dễ, phải có năng lực lớn mới ở trong liêu được.
Anh em ruột thịt ở chung với nhau chừng mười bảy năm, rồi cũng mỗi người một ngã. Khi ở chung cũng ít khi mà ăn chung nữa. Còn bây giờ, quý thầy làm việc thì làm việc chung, sáng ra đã có tri sự lo việc làm cho mình, không sợ thất nghiệp. Ăn thì lên quả đường ăn chung, tu thì tu chung, cùng chung chí hướng, ngủ trong tăng đường chung, chẳng khác nào anh em ruột thịt. Đừng nghĩ xa xôi, đừng nghĩ ngộ đạo gì hết. Ngồi nghiệm lại mình thấy con đường tu của mình thật là hạnh phúc, an ổn. Phật nói đây là bậc tối thượng giữa loài người, túc duyên sâu dày lắm mới được xuất gia, được đầu tròn áo vuông.
Hồi làm nhà khách, tôi gặp một ông tướng mạo tốt lắm nhưng lại đi ăn xin, tôi nói ông chịu tu tôi dắt vô giới thiệu Thầy Trụ trì, y áo mọi chuyện tôi lo hết, vậy mà không chịu. Đi tu không phải chuyện đơn giản, cho nên quý thầy phải biết kết duyên, phải biết quán chiếu là cha mẹ, anh em ruột thịt thì mới ở trong tùng lâm lâu mà không chán. Chứ gặp nhau không ưa (oán tắng hội khổ), thì chắc chắn tìm cách ra đi.
“Là bậc thầy, là thiện tri thức thương yêu lẫn nhau, xót nghĩ đến mình và người thầm tưởng là khó gặp, hẳn thấy vẻ hòa hợp vui thuận. Nếu như có ai lỡ lời thì phải can ngăn, ai có lời khuyên dạy thì phải thuận nghe theo.
Ngài dạy rất cảm động. Người lớn khuyên thì phải lắng tai, thuận tâm mà nghe, để gieo nhân tốt. Mai kia lớn lên, quý thầy khuyên người khác người ta nghe mình. Thuận nghe lời khuyên là trồng sâu gốc Phật, chớ người lớn nói mà cãi lại thì trật. Hồi xưa ở đây có một thầy bất kính với thầy giáo thọ, sau này ông dạy người khác thì có người bất kính lại ông. Ông nói, lời của thiền sinh chửi mắng cũng giống như những lời ngày xưa ông chửi mắng vị giáo thọ.
“Đây là điều hữu ích to tát của sự thấy nghe, được lợi lớn của sự gần gũi, hẹn cho mình được kết giao với bạn tốt đã trồng sâu căn lành, may được kính lễ cảnh giới trụ trì Tam bảo.”
Nghĩa là mình hổ thẹn, khiêm cung nên hôm nay mình được kết giao với bạn tốt, là người đã trồng sâu căn lành nhiều đời nhiều kiếp, bây giờ gặp được lại.
“Thật sung sướng thay! Huynh đệ ngoài đời còn chẳng so tính khác họ, huynh đệ trong đạo thực được đáng gần gũi hơn chính mình. Hòa thượng Huệ Nam ở Hoàng Long từng nói: Thuyền lẻ cùng qua sông còn có nhân đời trước, ba tháng hạ đồng ở, đâu không duyên nhiều đời.”
Quý thầy ra đường gặp mặt người nào, hoặc cùng ai đi trên một chiếc xe đò, một chuyến máy bay là biết người này đã có túc duyên với mình. Hòa thượng Tuyên Hóa nói, năm trăm đời đã từng làm quyến thuộc của mình, ngày hôm nay mới đi chung một đường. Huống chi ba tháng hạ đồng ở thì đâu không duyên nhiều đời nhiều kiếp.
“Nên biết một ngày tạm làm khách chủ với nhau, trọn đời liền là Phật, Tổ.”
Sau này quý thầy có túc duyên giữ giới thanh tịnh, Hòa thượng tu là Bồ-tát thì quý thầy cũng là A-la-hán, hay Hòa thượng là Phật thì quý thầy tệ lắm cũng là Bồ-tát. Không phải tôi ức thuyết mà trong kinh nói rất rõ, một ngày mình tạm làm khách chủ với nhau thôi, là trọn đời có nhân duyên khắng khít. Cho nên phải phát nguyện ở thật lâu trong chúng, lâu chừng nào tốt chừng nấy, có gì bức xúc lắm mình cũng phải ráng ở.
Trong Kinh A Hàm, một hôm Phật đi ngang qua một khu rừng có ba mươi thầy Tỳ-kheo cùng tu. Tâm tu của các thầy rất tốt nhưng bên trong còn một cái gì đó, nên chưa được kiến hoặc, chứng chơn. Phật biết, nên khai thị một bài pháp:
– Các ông đã luân hồi trong vô số kiếp, hoặc làm dê, hoặc làm heo, làm bò… Bây giờ có túc duyên, nên ba chục vị Tỳ-kheo các ông mới ở với nhau trong một khu rừng. Vì thế các ông phải thương yêu, phải khắng khít với nhau.
Sau đó, Phật nói một bài kệ, sau khi nghe bài kệ xong, ba mươi thầy Tỳ-kheo đều chứng quả vị A-la-hán:
Ôi! Luân hồi dài dài,
Bao lần máu tuôn chảy,
Bao lần giáo gươm đâm,
Khi ta làm giặc cướp.
Bao lần máu tuôn chảy,
Bao lần giáo gươm đâm,
Khi ta làm heo, dê.
Trong Kinh Tạp A Hàm Phật nói, giả như xương cốt của mình chất đống mà không tiêu mòn, thì giống như một hòn núi lớn. Phật nói, chúng ta luân hồi sanh tử nhiều kiếp, chống cây gậy xuống chỗ nào cũng đều là cái xác của mình. Đã từng là giặc cướp thì bị giáo gươm đâm; làm heo, dê, bò, chó thì bị người mổ, cắt, xẻ. Cho nên luân hồi rất là khổ.
Và đây tìm khắp chốn,
Không một chúng sanh nào,
Chẳng phải cha mẹ ta.
Không một chúng sanh nào,
Chẳng phải con em ta.
Thấy được như thế thì tâm rung động sung mãn, thấy ai cũng là cha mẹ mình thì còn khởi niệm dục nữa không?
Bộ A-hàm Phật dạy rất thiết thực, dạy chúng ta quán chiếu thật sâu, tất cả mọi người trên cuộc đời này đều là cha là mẹ, là con em, bạn bè mình, mình tìm cách giúp đỡ, hướng dẫn họ vào con đường Phật pháp, huống chi những người cùng tu với mình trong Thiền viện. Quán chiếu như thế thì trong giờ phút đó, quý thầy không bao giờ khởi niệm dục với người khác phái.
Không một chúng sanh nào,
Chẳng phải bạn bè ta.
Huống chi là những người tu trong Thiền viện, đều là cha mẹ, đều là bạn bè, là người thân của mình.
Này hỡi các hiền hữu,
Chừng ấy đủ cho ta,
Cảm niệm bao thống khổ.
Chừng ấy đủ cho ta,
Giải thoát tất cả hành.
Những hành niệm, những vọng tưởng điên đảo tức khắc tiêu dung hết.
Thì:
Chừng ấy đủ cho ta,
Thương xót hết mọi loài.
Tức là có năng lực, có bi nguyện vào cuộc đời này để dìu dắt tất cả chúng sanh.
“Thứ nhất, trong liêu chẳng được to tiếng đọc kinh, ngâm vịnh làm ồn náo, động đến chúng thanh tịnh. Cũng chẳng được lớn giọng tụng chú, lại cầm chuỗi mà đi qua trước người, đó là vô lễ, mọi việc cần phải ổn thỏa.”
Ngâm vịnh cũng không cho, hát lại càng không được. Đứng, ngồi hát nhịp chân, nhìn thấy chướng người ta tu không được thì mình tổn phước.
Trong đại chúng biết đâu có những người tu mật hạnh, tức là tu về Giới – Định – Tuệ. Người tu mật hạnh thì không ai biết, gọi là đại trí mà nhược ngu, tức là có trí tuệ lớn nhưng giả giống như ngu ngơ vậy. Ở đây tôi không dám nêu ra, nhưng có những bậc lãnh chúng lớn ở trong Thiền viện, các ngài đã đạt đến chỗ bất khả tư nghì rồi nhưng các ngài ứng hiện ra cuộc đời này giống như người ngu, người ngơ vậy. Quý thầy không khéo bị các ngài quở thì mình tổn phước, cho nên phải cẩn thận.
“Thứ hai, trong liêu chẳng được tiếp khách đi vào gặp nhau cười nói. Chẳng được hỏi đáp với khách buôn, thầy thuốc, thầy tướng và mọi người thuộc đạo khác. Nếu hỏi đáp với khách buôn phải tránh qua một bên liêu.”
Tức là ra nhà khách hay xuống dưới rẫy nói chuyện, chứ không được ở trong liêu. Ở trong liêu mà tiếp khách rồi cười nói, hỏi người này đi buôn ở đâu, bán ở đâu thì không được. Cũng không được dẫn thầy thuốc vào Tăng đường hỏi việc này, việc nọ. Thầy tướng, thầy số lại càng không.
“Thứ ba, trong liêu chẳng được dụm đầu nói chuyện, cười giỡn không biết hổ thẹn, dẫu gặp duyên đáng cười thì trụ nơi bốn niệm trụ.”
Luận Câu Xá quyển Hai mươi ba có ghi:
1- Thân niệm trụ:
Quán tự tướng của thân là bất tịnh, đồng thời quán cộng tướng vô thường, vô ngã, khổ, không của thân để đối trị lại sự điên đảo đó.
Quán như thế thì không dám giỡn cười nữa. Gặp duyên mà đáng cười lắm mình phải trụ vào cái niệm đó liền.
2- Thọ niệm trụ
3- Tâm niệm trụ
4- Pháp niệm trụ:
Là quán tất cả pháp đều nương nơi nhân duyên mà sanh, không có tự tính. Nương dừng ba chỗ nương về, cũng như cá gặp nước cạn có gì đáng vui. Nói chung chẳng được sánh vai trước sau cười nói, đã hay được như thế thì ở trong chúng vững như núi.
Ngài dạy rất rõ, những chuyện đáng cười mình liền dừng. Nương về Phật, Pháp, Tăng thì tự nhiên hết giỡn, hết cười. Được như thế thì vững như núi Thái Sơn, không có gì làm lay chuyển được.
“Thứ tư, trong liêu chẳng được đi đến đầu bàn người khác, ngó nhìn người khác xem đọc, chính làm ngăn ngại đạo nghiệp giữa mình và người, là điều rất đau đớn của kẻ đi tham học.”
Có một số quý thầy xuất gia ở chùa khác, rồi lên Thiền viện thì gọi là những người đi tham học.
Chúng đang xem kinh quý thầy đến ngó qua, ngó lại, người ta không xem được nữa. Chúng phiền lắm, nhưng người ta không dám nói. Sau giờ tụng kinh thì mỗi người trong Tăng đường phải ở yên, để xem kinh, đọc giáo lý.
Mưa lâu thấm đất, xem kinh thời gian lâu thì mới thấm vào trong tàng thức của mình. Sau này ra làm việc, người ta hỏi là quý thầy biết nằm ở đâu, do mình xem lâu rồi nó thấm. Những người không chịu đọc kinh, xem giáo lý, đùng một cái ra làm trụ trì, người ta hỏi làm sao giải thích? Cũng không chịu học chữ Hán, hỏi tam-muội là gì? Giải thích tam là ba, muội là lửa, ba ngọn lửa tham, sân, si! Chết người ta luôn! Người ta không biết người ta học theo mình, mình là thầy mà, mình nói cái gì ở dưới cũng nghe. Họ về người này hỏi, người kia hỏi, họ nói theo mình, tam là ba, muội là lửa, trật hết luôn!
Mà tam-muội là gì? Là chánh định, chánh thọ. Thuật ngữ đó không được dịch. Chánh định, chánh thọ là tự thân thọ dụng thân. Người vào chánh định có sức tam-muội rồi thì tự nhiên có năng lực lớn, năng lực này phổ xuống đại chúng như thế nào đó. Giải thích như vậy thì đúng, chiết tự ra thì trật. Được như thế thì quý thầy phải xem kinh, đọc giáo lý. Xem kinh, đọc giáo lý không có lỗi. Lỗi ở chỗ xem hiểu rồi, mình khinh thường người khác.
“Thứ năm, trong liêu việc chẳng đúng phép tắc, nếu việc nhỏ thì Thủ tọa và bậc tuổi cao đức lớn trong liêu phải can ngăn, nếu việc lớn nên báo cho Duy-na can ngăn. Người tu sau mới vào đạo phải tùy thuận với lời dạy, chính là do khi can ngăn đó mà xem nhận hay chẳng nhận thì biết rõ là người có đạo tâm hay không.”
Bây giờ trưởng liêu, trưởng chúng hay là trưởng gì thấy cũng bình thường, nhiều khi mình coi thường nữa, nhưng đúng thanh qui Bách Trượng ngày xưa, trưởng chúng, trưởng liêu rất có uy quyền. Quý thầy sai, họ có quyền đánh, nếu không thì một ngàn mấy trăm chúng loạn hết.
Trưởng liêu dạy phải nghe, chống lại thì mình sai. Quý thầy mới xuất gia vào đạo, mà tự hạ thấp mình thì đạo rất gần, còn ai nói gì cũng không nghe là tổn phước. Trưởng chúng nói gì mình tùy thuận là biết người này có đạo tâm, còn cãi lại, tức là hạt giống Phật sắp bị khô rồi, phải tranh thủ tưới nước Giới – Định – Tuệ liền. Một người tu được thanh tịnh chút ít rồi, họ nhìn họ biết quý thầy có đạo tâm hay không, nhìn cách cư xử, cách làm việc, cách thuận với chúng hay không. Cho nên các ngài dạy, mình phải biết lắng nghe để sửa.
Hòa thượng dạy việc gì đó mà đôi khi mình bị oan, nhưng vẫn phải sám hối, quý thầy nhớ kỹ điểm đó. Hoặc Thầy trụ trì dạy, mình biết những chuyện đó oan ức nhưng mình cũng phải xin sám hối trước, rồi từ từ mình bộc bạch ra chứ không được cãi. Quý thầy nhỏ mới xuất gia, đối với Hòa thượng, Thầy trụ trì là phải nghe lời rồi nhưng đối với trưởng chúng, quý thầy cũng phải nghe luôn, thì đạo tâm quý thầy mới vững chắc, và có phước lực rất lớn.
“Thanh qui nói: Lời nói, việc làm, cử chỉ oai nghi phải theo qui củ ở trong chúng, đồng thời phải chiều uốn, thúc đẩy, nghĩ tưởng đến người sau giống như con đỏ, đó là tâm hạnh của bậc trên trước.”
Đối với người xuất gia sau, mình coi họ như con đỏ, nghĩa là phải dùng thân giáo uốn nắn họ. Mình dạy họ không nghe vì đức mình còn nhỏ, năng lực, công phu mình còn yếu thì phải dùng thân giáo. Thân giáo là làm gương mẫu cho họ làm theo.
“Thứ sáu, trong liêu chẳng được bàn chuyện thế gian, danh lợi, chuyện trị loạn trong nước, chuyện xấu tốt cùng cho chúng. Đó gọi là lời vô nghĩa, lời vô ích, lời nhơ nhớp, lời không hổ thẹn, quyết phải ngăn dừng. Huống nữa đã cách xa thời của bậc Thánh, đạo nghiệp mình chưa thành, thân mạng thì vô thường, thời giờ khó níu lại. Vậy thì các bậc đi tham học ở khắp nơi phải một bề quý tiếc thời giờ mà tinh tấn như cứu lửa cháy đầu. Hãy gắng sức, chớ bàn chuyện đâu đâu mà để thời tiết luống qua. Hòa thượng Thạch Đầu nói: Kính bạch bậc tham huyền, thời giờ chớ luống qua.”
Trong liêu mình chẳng được bàn chuyện thế gian, chính trị, xấu tốt của chúng. Chẳng hạn, định bốn giờ nghỉ nhưng thầy tri khố bắt lặt rau tới sáu giờ. Quý thầy về chúng dụm lại bàn tán, ông thầy tri khố làm việc kỳ quá, ưa không được… Bàn trong chúng như vậy là chuyện thị phi, loạn chúng. Đó gọi là lời vô nghĩa, lời vô ích, lời nhơ nhớp, lời không hổ thẹn, quyết phải ngăn dừng.
“Thứ bảy, trong liêu chẳng được mất oai nghi. Chắp tay thưa hỏi phải đúng pháp chớ cẩu thả. Nói chung tất cả thời chẳng được khinh thường phép tắc.”
“Thứ tám, trong liêu đại chúng thanh tịnh như biển cả, là phàm là Thánh ai đo lường được? Thế thì thấy mặt mà lường người là quá si vậy. Thế Tôn tại thế còn có Tỳ-kheo Manh Mục, Tỳ-kheo Ngưu Thi vẫn kết giao với chúng, huống nữa thời tượng mạt đã mỏng manh chỉ quý kết duyên đâu nên khinh người. Y phục chắp vá rách rưới, đạo cụ cũ hư, chớ lấy mắt phàm mà xem, chẳng được xem thường họ. Từ xưa đến nay người có đạo vốn chẳng trau chuốt y phục bề ngoài, chỉ cần đạo cụ có sao dùng vậy. Chẳng được khinh dòng họ thấp hèn, chẳng được cười người mới học.”
Vào thời Đức Phật, chúng thanh tịnh như biển cả. Người phạm giới điều của Phật thì tự nhiên bị năng lực của biển này đẩy ra, giống như biển cả không chứa tử thi vậy.
Quý thầy phải cẩn thận! Trong liêu đại chúng thanh tịnh như biển cả, là phàm hay Thánh khó mà đo lường. Một người đến trước tượng của Đức Phật Bổn Sư mà phát thệ nguyện lớn như bốn lời nguyện, mười lời nguyện hay là hai chục lời thệ nguyện nào đó; chỉ cần một phút giây tịnh tâm phát nguyện thôi, thì người này bước vào sơ học Bồ-tát, vào con đường Bồ-tát rồi. Ai mà có tâm khinh thường là bị tổn phước.
Nghe nói vậy, chiều tụng kinh xong quý thầy phát nguyện. Rồi ai nói gì quý thầy, quý thầy nói: “Tôi phát nguyện rồi đó, ông mà chọc tôi là chết đó nha!” Nói vậy là trật. Phát nguyện là mật hạnh, mình nói ra là có cái ngã rồi. Ở trong chúng, có ai bị khinh dễ mà không nóng giận thì đúng là Bồ-tát. Kết duyên với huynh đệ là quý, không được khinh người. Chẳng hạn mình được túc duyên sanh làm con nhà bộ trưởng, thị trưởng hay thủ tướng gì đó, hoặc mình sanh vào dòng họ giàu có, còn huynh đệ sanh trong gia đình thấp hèn rồi mình khinh thường thì không đúng.
“Dẫu bị người cười cũng chớ có nóng giận, huống chi người bậc hạ mà có cái chí thượng thượng, người bậc thượng thượng lại bặt ý giải. Chỉ nghĩ nhớ lời Phật dạy, sông chảy vào biển thì không có tên cũ, bốn dòng đi xuất gia đồng gọi là họ Thích.”
Ngài dạy rất là cảm động. Lục Tổ Huệ Năng sau khi nghe Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ngài ngộ đạo liền. Sau khi ngộ đạo ngài tìm đến Huỳnh Mai, thấy bài kệ của ngài Thần Tú, ngài nói tôi cũng có một bài kệ. Quan biệt giá thấy ngài không biết chữ nên hỏi gằn:
– Ông mà cũng làm kệ? Việc này thật là ít có.
Ngài Huệ Năng nói:
– Muốn học đạo Vô thượng Bồ-đề, không được khinh người mới học. Kẻ hạ hạ cũng có cái chí thượng thượng, còn người thượng thượng cũng không có ý chí, nếu khinh người thì có vô lượng vô biên tội.
Nghe vậy ông giựt mình nói:
– Thôi tôi viết cho ông, nếu ông được pháp thì trước là phải độ tôi, chớ quên lời này.
Chỉ nhớ lời Phật dạy, sông chảy vào biển thì không có tên cũ, bốn dòng đi xuất gia đồng gọi là họ Thích. Bốn dòng là gì? Thứ nhất là Bà-la-môn, thứ hai là Sát-đế-lợi, thứ ba là Phệ-xá, thứ tư là Thủ-đà-la. Người trong bốn dòng đó xuất gia rồi thì đồng một họ Thích, không phân biệt nghèo, giàu, như sông chảy vào biển thì không còn tên cũ nữa.
Trong Cao Tăng Dị Truyện có ghi:
Có vị Thượng tọa Huệ Viên họ Vu quê ở Toan Tảo Khai Phong, vốn làm nghề nông, sau xuất gia ở chùa Kiến Phúc, bản tánh rất chậm chạp, trì độn nhưng làm việc rất là chăm chỉ, cẩn thận. Sư nghe Thiền đạo phương nam rất hưng thạnh bèn xuất du đến chùa Đông Lâm ở Giang Châu, bị Tăng chúng trong chùa coi thường. Một hôm Sư hỏi huynh đệ:
– Thế nào là thiền?
Họ nói giỡn với sư:
– Đi hỏi xem cái gì kêu được là thiền.
Trong tiếng Hán thiền cũng có nghĩa là con ve sầu.
Sư tưởng thật bèn ngồi quay mặt vào tường suy nghĩ mãi cứng cả lưng, sau vài tháng đi ra sân chùa bỗng trợt chân té nhào bèn khai ngộ. Sư nhờ một hành giả:
– Tôi không quen bút mực (tức là không biết chữ) muốn làm một bài tụng nhờ ông viết dùm lên vách.
Mới đầu ai cũng khinh thường ngài, ngài cố gắng tu học thì ngộ đạo, kiến tánh. Sau khi ngộ đạo ngài nhờ người viết lên vách như thế này:
Giá nhất giao, giá nhất giao,
Vạn lượng hoàng kim dã hợp tiêu.
Đầu thượng lạp, yêu hạ bao
Thanh phong minh nguyệt trượng đầu thiêu.
Tạm dịch:
Gặp lần này, gặp lần này,
Muôn lượng vàng ròng cũng tiêu ngay.
Người kiến tánh, thấy được chân thật của chư Phật, chư Tổ dạy rồi thì một ngày muôn lượng vàng cũng tiêu. Còn mình chưa kiến tánh, chưa ngộ đạo, một giọt nước cũng là nợ của tín thí. Một niệm tiêu dung trong tam giới rồi, thì một ngày tiêu bao nhiêu cũng không mắc nợ, bởi các pháp đều là huyễn, là mộng. Phải thấy tột được huyễn mộng thì mới tiêu dung được, còn chưa thấy được thì cũng vẫn là nợ cơm cháo. Mắc nợ thì mình ráng tu, chừng nào ngộ đạo mới tiêu hết.
Nón đội đầu, bao cột lưng
Gió mát, trăng thanh đầu gậy quảy.
Ngay chỗ này ngài khế nhập trong kinh Hoa Nghiêm, gọi là “sự sự vô ngại pháp giới.” Tức là trong cái sự sự vô ngại pháp giới này, ngài ung dung tự tại cho nên gió mát trăng thanh, đầu gậy quảy.
Ngay ngày đó Sư rời Đông Lâm. Đến khi Thiền sư Tổng thấy được bài kệ giật mình nói: “Có nạp tử chân tham đến đây, kệ hay quá không thể thêm gì vào nữa.” Rồi cho người đi tìm nhưng không ai biết Sư đã đi đâu.
Sau khi ngộ đạo rồi, ngài bỏ chúng đi liền, sợ chúng thủ tiêu. Người thông minh mà lại ngộ đạo thì chúng nể, bầu lên làm trụ trì hay gì đó. Còn người chậm lụt thì chúng xem thường, nên ngộ đạo là phải đi liền. Lục Tổ Huệ Năng sau khi ngộ đạo cũng phải đi lánh nạn. Đi không phải là bỏ phế đạo nghiệp, mà đi nơi khác rồi dựng tông phong của mình lên giáo hóa đồ chúng. Có những vị Thiền sư chẳng hạn như Sa-di Cao, sau khi ngộ đạo ngài cất một quán nước bên đường để tiếp Tăng độ chúng.
Tôi đã tiếp một Phật tử, bà học rất nhiều. Học Phật, bà học hàm thụ từ xa, bà nói con học bốn năm có chứng chỉ đàng hoàng. Những vị Hòa thượng, những vị thầy nổi tiếng bà đều nghe hết. Tôi nói:
– Bà học hàm thụ rồi phải không?
Nói:
– Dạ, học rồi.
– Về pháp môn thiền bà chưa từng bao giờ ngồi kiết già năm phút, đúng không?
Bà suy nghĩ một hồi rồi nói:
– Dạ đúng!
– Bà cũng chưa từng lần chuỗi đúng không?
Bà nói:
– Đúng! Ủa, sao thầy biết hay vậy?
Tôi nói:
– Nhìn khuôn mặt bà tôi biết bà chưa tu, hiểu mà chưa có hành.
Rồi bà nói tiếp:
– Con hiểu, con học vậy chứ con chưa quy y ai hết, con thấy những người quy y rồi họ phạm giới tùm lum, con khỏi cần quy y mà con giữ giới chắc hơn họ.
Biết là đại ngã rồi phải không? Tôi nói một hồi thì bà mới thấy cái lỗi của bà, lỗi gì? Học mà không có hành.
Tôi làm nhà khách tiếp rất nhiều người. Có những cư sĩ học nhiều họ rất coi thường chư Tăng. Còn những vị thầy có bằng cấp cao thì không ai coi thường, nhưng những vị này đến nhà khách không thèm chào hỏi ai hết. Tuy nhiên, tiếp chuyện chúng tôi một hồi thì tự nhiên họ xuống nước. Nói về công phu là biết liền, tôi nói thầy học cho nhiều, bằng cấp cho cao, học vấn thật giỏi, nhưng về phần công phu, thầy không biết đường hướng tu để chuyển hóa thì cũng vô ích, nhà Phật không chấp nhận điều đó.
“Thứ chín, trong liêu ở mỗi đầu bàn nếu để tượng Phật, Bồ-tát đó là vô lễ. Lại chẳng được treo tranh ảnh của Phật, của Bồ-tát.”
Tại sao không được? Nhiều khi quý thầy đánh rắm tổn phước. Quý thầy ở thất một mình thì được, nhưng ở trong liêu thì không được. Đi ra đi vào đông người nó cũng nhơ nhớp, cho nên nói là vô lễ.
Hình Phật mình thờ để tưởng công hạnh của ngài. Tôi thấy hình Phật quý thầy kẹp trong quyển kinh, quyển sách gì đó, thấy đơn giản nhưng mà nó chiêu cảm quả khổ. Vì mình không kính Phật, không kính Phật thì không trọng Tăng.
“Thứ mười, trong liêu ở ngay đầu bàn chẳng được cứ nằm ngửa ra dựa đầu bàn để lộ chân, lộ thân là vô lễ với chúng. Phải nghĩ nhớ dấu tích của bậc tiên đức, thánh xưa ngồi dưới gốc cây nơi khoảng đất trống.”
Một người ở trong liêu mà nằm ngửa thì mất oai nghi, mất oai nghi thì vô lễ với chúng.
“Mười một, trong liêu chúng thanh tịnh chẳng được chứa những của bất tịnh như vàng, bạc, tiền, lụa. Đó là lời răn dạy của Phật xưa để lại. Ở Tây thiên, Đức Sơ Tổ là Tôn giả Ca-diếp lúc còn ở nhà, gia đình giàu có gấp mấy ngàn lần vua Bình Sa Vương, mười sáu nước lớn cũng không sánh bằng. Song khi bỏ nhà đi tu thì để tóc tai ra dài, y phục xấu xí, lấy giẻ rách kết làm y, khất thực nuôi sống, đến sắp ẩn chưa từng thay đổi. Ai là bậc có đạo tâm phải biết rõ Đức Cao Tổ Ca-diếp còn như thế huống kẻ phàm phu hậu học há chẳng tự giữ gìn ư?”
“Mười hai, trong liêu có nói chuyện thường nên nói thấp giọng, mang giày dép chẳng được khua thành tiếng, khạc nhổ ho hen đều chẳng được làm ồn. Chẳng được đắm mê lời trau chuốt dua nịnh, phải tập theo lời chân thật của Phật Tổ. Dẫu khi luận bàn lời của Phật Tổ, cũng chẳng được lớn giọng to tiếng bởi lẽ vô lễ với chúng.”
Trong liêu có nói chuyện thường nên nói thấp giọng. Ở trong liêu mình không được nói chuyện lớn tiếng, lớn tiếng thì động chúng. Mang giày dép chẳng được khua thành tiếng. Phần này nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn chánh niệm. Khạc nhổ ho hen đều chẳng được làm ồn. Tôi làm nhà khách, hôm nào quý thầy hay cư sĩ mà khạc nhổ lớn tiếng thì Hòa thượng sai thị giả xuống hỏi. Biết được, Hòa thượng rầy, Hòa thượng nói vào chùa mà không học oai nghi phép tắc thì không khác gì người thế tục.
Chẳng được đắm mê lời trau chuốt dua nịnh, phải tập theo lời chân thật của Phật Tổ. Lời chư Phật dạy rất rõ, trong thân mình tứ đại, ngũ uẩn có chín lỗ bất tịnh. Mắt, tai, mũi, thân, đại tiện, tiểu tiện đều bất tịnh. Nhưng gặp huynh đệ hay những thầy lớn, mình nói lời trau chuốt dua nịnh là thân tướng trang nghiêm đẹp đẽ gì đó, rồi ca tụng thì không đúng. Phải luôn luôn dùng lời chân thật của Phật, Tổ. Dẫu khi luận bàn lời của Phật Tổ, cũng chẳng được lớn giọng to tiếng bởi lẽ vô lễ với chúng. Trong khi luận bàn về Phật pháp, về thiền cũng chẳng được nói những lời to tiếng.
“Mười ba, trong liêu dẫu bậc tuổi cao, đức lớn cũng chẳng được vô lễ với đại chúng, nếu như có trái với phép của chúng, Duy-na phải chỉ cho hiểu.”
Tỳ-kheo được năm, mười tuổi hạ, ỷ lớn, cười, giỡn, rồi ăn uống không kiêng sợ gì hết thì đó là vô lễ với đại chúng.
Vào thời Đức Phật, bà Di mẫu cúng dường Đức Phật một cái y, Đức Phật không nhận và sai bà cúng dường cho đại chúng. Bà không hiểu nên hơi buồn. Đức Thế Tôn giải thích cho ngài A-nan hiểu là phước chúng như hải, dầu cho Đức Phật là bậc toàn giác, vô lượng phước đức mà cũng không bằng phước của đại chúng.
Chúng ở trong liêu giống như biển lớn, nên phải kiêng dè. Đừng ỷ mình là bậc tuổi cao, đức lớn rồi cười, giỡn không kiêng sợ gì hết thì vô lễ đại chúng, lâu ngày mình bị tổn phước. Tổn phước thì nghịch cảnh, nghịch duyên nó dồn đến rất khó tu.
“Mười bốn, trong liêu chẳng được để những sách vở thế tục, thiên văn, địa lý và các thứ kinh, luận của ngoại đạo, các quyển thi phú, ca, họa, v.v…”
“Mười lăm, trong liêu chẳng được để những thứ cung tên, binh trượng, đao kiếm, áo giáp, nói chung là mọi thứ võ cụ đều chẳng được để. Nếu ai cất chứa, đeo trên lưng ngay trong ngày phải đuổi ra khỏi viện. Tất cả những đồ thuộc ác luật nghi đều chẳng được đem vào liêu.”
“Mười sáu, trong liêu chẳng được để đồ âm nhạc đờn, sáo, ca múa.
“Mười bảy, trong liêu khi cùng ngồi với nhau nếu có việc nên làm, việc khó nhọc thì bậc hạ tọa làm trước, đó là phép của chúng Tăng…
… Người tuổi nhỏ mới học chẳng được ngồi yên mà nhìn bậc thượng tọa làm việc khó nhọc, bởi lẽ đó là vô lễ…
Chẳng hạn, mình có tên trên bảng trị nhật, hành đường nhưng mình báo bệnh. Quý thầy lớn xuống làm cho mình ăn thì tổn phước mình. Mới xuất gia, mình thấy chuyện gì khó khổ mình làm. Ngày xưa ở Thường Chiếu còn làm ruộng, chín giờ đêm chúng tôi vẫn còn ở ngoài ruộng làm.
… Nếu là việc tốt cần nhường cho bậc thượng tọa. Đó là phép chơn chánh của chư Phật.”
Những việc nặng nhọc như đổ bê tông, hoặc sơn sửa gì đó thì những người xuất gia nhỏ tuổi phải gánh vác cho bậc thượng tọa. Nhường việc tốt cho các ngài, đó là phép chơn chánh của chư Phật.
“Mười tám, trong liêu huynh đệ có may vá áo quần nên đến chỗ may vá. Khi may vá chẳng được dụm đầu nói chuyện tạp to tiếng nhiều lời, cần nhớ nghĩ đến phẩm hạnh của Phật Tổ.”
Có nghĩa là luôn luôn chánh niệm trong lúc may. Trong kinh A Hàm có kể:
Vào thời Đức Phật, có một thầy Tỳ-kheo chuyên may vá áo quần cho chúng. Trong lúc may, thầy Tỳ-kheo này luôn luôn có chánh niệm, thu thúc sáu căn, công phu thuần nhất. Một hôm, có vị Thượng tọa đến nhờ thầy Tỳ-kheo này vá cái y thượng. Trong lúc may chánh niệm, mũi kim thứ nhất ngài chứng thiên nhãn thông, mũi kim thứ hai với tâm thuần nhất, ngài chứng thiên nhĩ thông, mũi kim thứ ba xỏ qua ngài chứng tha tâm thông, với mũi kim thứ tư ngài chứng thần túc thông, đến mũi kim thứ sáu ngài chứng lậu tận thông. Với sáu mũi kim, ngài hoàn tất chương trình vô sanh, tức là chứng quả vị A-la-hán. Cho nên ở đây nói mình may vá áo quần cũng là một pháp tu, cũng là chánh niệm.
Tôi làm nhà khách có một người ở bên Anh về, cô nói:
– Bạch thầy! Ngày xưa con may vá áo quần rất đẹp, nhưng qua bên Anh làm một thời gian, con thấy con không lên tay nghề.
Tìm hiểu ra mới biết, cô vừa may vừa nghe băng cassette của các vị Hòa thượng giảng kinh. Đố quý thầy, may như vậy có công phu chưa? Một tâm thì may vá áo quần, còn một tâm nữa mình nghe Phật pháp thì nó không vô. Tôi khuyên cô làm chuyện gì phải chuyên nhất, lúc may chánh niệm, thực hành phương pháp thiền tập, biết trong giờ phút thực tại này mình đang may. Ba tháng sau cô viết thư về nói, nghe lời tôi dạy cô thực hành rất có kết quả.
Tu tập Thiền tông một thời gian tôi thấy không có chuyện gì lạ hết, chỉ là phải luôn luôn chánh niệm, luôn luôn tỉnh thức.
Có lần tôi dẫn hai người bên báo Giác Ngộ lên phỏng vấn Hòa thượng, đây tôi nhắc lại câu cuối cùng. Họ nói, nghe Hòa thượng chứng ngộ thiền rất cao. Gặp mình, mình sẽ nói tôi chứng cái này, chứng cái kia… Nhưng Hòa thượng trả lời một câu bất hủ:
– Tôi giống như phàm tăng không có chứng ngộ gì hết. Ngày xưa mới biết tu thiền tôi ngồi nửa tiếng, năm bốn mươi tuổi tôi ngồi một tiếng, bây giờ tám mươi mấy tuổi rồi thì tôi ngồi được hai tiếng. Ngày xưa tôi mới tập thiền thì vọng tưởng một trăm phần trăm. Bây giờ còn lại mười phần trăm, đó là tu thiền được tiến chút ít, chứ thật ra không có chứng ngộ.
Câu nói bất hủ của người có công phu thiền tập, rất chí lý trong đời sống tu tập. Mình làm như thế nào đó gạn lọc tham, sân, si. Muốn được như thế thì làm việc gì phải luôn luôn có chánh niệm tỉnh thức, chứ không có chứng ngộ gì hết. Thiền mà nói chứng ngộ tức là bệnh. Bệnh thiền!
“Mười chín, liêu này là đạo tràng chung, dẫu rằng cạo râu tóc mà hạng Tăng chẳng có phép tắc chẳng được cho đi qua lại ra vào trong liêu, chẳng được cho nghỉ đêm trong liêu…
Làm nhà khách, nhiều khi tôi nhận lệnh Hòa thượng, nhận lệnh thầy Trụ trì mà một số quý thầy ở đây không biết, có những vị thầy dẫu xuất gia ở đây mà đi lang bang rồi lên trình Hòa thượng, Hòa thượng không bao giờ cho vào trong liêu, chỉ ở nhà khách thôi. Vào đây mình mời họ ăn cơm, mình tưởng tâm từ bi hơn quý thầy lớn nhưng mình làm trật rất là xa.
Liêu này là đạo tràng chung, dẫu rằng cạo râu tóc mà hạng Tăng chẳng có phép tắc, có nghĩa là oai nghi phép tắc, giới luật không giữ tròn, mà vào đây thì động niệm đại chúng, quý thầy tu không thanh tịnh được.
Cho nên những thiền đường lớn thời này của Trung Quốc, không bao giờ cho người nữ hoặc những người giữ giới luật không được thanh tịnh bước vào. Bởi vì bước vào thiền đường, năng lực của người đó phóng ra toàn là khí trược, quý thầy ngồi thiền không được yên tịnh.
… Dẫu rằng Tăng có phép tắc mà thuộc loại trôi nổi đó đây cũng chẳng được cho nghỉ đêm trong liêu, chẳng cho quanh quẩn trong liêu bởi lẽ làm ngại chúng thanh tịnh.”
Phần sau nữa ngài nói, dẫu cho người này giữ giới hạnh thanh tịnh, có oai nghi phép tắc, nhưng thuộc loại trôi nổi đó đây, ví dụ nay người này ở Thiền viện Trúc Lâm, mai xuống Thường Chiếu rồi mốt ra Yên Tử, đó là loại Tăng trôi nổi. Vào Tăng đường thì nói chuyện thị phi, chẳng hạn nói thiền viện này tu thế này, chùa kia phạm giới hay là tu học ra sao, rồi khuyên quý thầy đừng tu ở đây nữa, đi nhập thất tu hoặc đi học trường gì đó. Tâm quý thầy đang thanh tịnh, bị những ngọn gió đó vào thì mất thanh tịnh.
Chuyện này là nhà khách chịu trách nhiệm hết. Hạng Tăng này vào là tôi nhất định không bao giờ cho vào trong liêu. Không bao giờ cho gặp đại chúng. Muốn gặp người nào thì đến nhà khách ngồi, tôi thỉnh quý thầy ra, mà tụi tôi chịu trách nhiệm hết. Chịu trách nhiệm đây không phải là tự động làm, mà do Hòa thượng, do Tăng sai.
Họp bầu tôi làm việc, đó là Tăng sai. Tăng sai thì mình phải nắm hết luật và nội qui phép tắc của Thiền viện. Những điều này tôi học qua hết rồi, nên tôi làm mà không bao giờ sợ nhân quả. Trong nhà thiền thường nói, “trảm nhất miêu cứu vạn thử”, nghĩa là giết một con mèo mà cứu một ngàn con chuột. Ở đây cũng vậy, thà chịu mất lòng một người mà cứu vô số chư tăng tu hành được thanh tịnh, được giác ngộ, giải thoát. Đó là mục đích chính của thiền viện mà Hòa thượng lập ra. Nhưng với tinh thần này, mình cũng đừng thấy người ta trôi nổi rồi, rồi mình tự cho là mình tu hành nghiêm chỉnh thì cái đó cũng không phải.
Thiền sư Tori nhấn mạnh:
“Đừng tự cao tự đại khi so sánh với người tầm thường. Những người tầm thường chỉ biết lên xuống trên đường danh lợi, không hành đạo hay theo đạo.”
Ý ngài nói tất cả mọi người đều có tính Phật nhưng một người thì mê, một người thì giác. Phúc duyên là mình luôn luôn chánh niệm, tỉnh thức, thu thúc lục căn, ở yên trong đại chúng là mình cũng có từng phần giác. Đừng chê những người lên xuống trên đường danh lợi, không hành đạo hay theo đạo, có nghĩa là không có oai nghi phép tắc, phạm trai phá giới.
“Họ chỉ đáng thương, không nên coi khinh hay bực bội. Đừng để khởi lên những tư tưởng phán xét, so sánh mình với họ. Đừng để ý cao hơn hay thấp kém hơn, đây là thái độ cần thiết để vào con đường đạo của bậc Hiền Thánh Phật và Bồ-tát. Do đó, chúng ta nên đặt mình vào vị trí của người dân thường, hòa mình vào sự tầm thường mặc dù nguyện lực của ta là đi trên con đường Thánh đạo và tham cứu những kỳ diệu của đạo.”
Tuy tâm mình vút cao, hướng thượng, nhưng đối với những người này, cũng đừng tỏ vẻ khinh thường bực bội, mà mình làm cách gì đó uyển chuyển. Nguyện lực của mình là đi trên con đường Thánh đạo và tham cứu những điều kỳ diệu trong đạo chứ không được khinh thường. Tuy lên xuống trên đường danh lợi, nhưng ai cũng có Phật tính, có thiện pháp. Vì phúc duyên kém nên họ không gặp được thầy lành, bạn tốt mà gặp phải con đường không hành đạo.
“Trong liêu hỏi thăm với nhau phải biết kẻ lớn, người nhỏ.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nếu có lỡ lời nói liền xin hoan hỉ đừng để cách đêm, và lúc nào cũng khen ngợi lẫn nhau, chớ nên sau lưng chê đối với nhau.”
Phật dạy:
Tăng hận bất cách túc,
Sanh tử nhất mộng trường.
Sở dĩ, Phật dạy Tăng hận chẳng được quá một đêm, vì sanh tử là một trường đại mộng. Mộng thì phải vui, chứ đâu ai thích mộng buồn, mộng bị cọp rượt, chó sói cắn hay bị người đánh đập.
Thiền thoại có ghi:
Có một vị Thiền sư suốt ngày cười nói vui vẻ, đại chúng chịu không nổi nên bạch Hòa thượng đường đầu. Hòa thượng kêu lên hỏi:
– Sao ông cười suốt vậy?
– Con thấy cuộc đời này như giấc mộng. Mộng thì phải vui.
Thấy được như thế thì mình thương, mình dìu dắt lẫn nhau.
Cổ Đức nói:
“Một lời nhu nhuyến, lấy mắt nhìn nhau đều là kết nhân duyên lành đời này và đời sau.”
Một lời nói nhu nhuyến thanh tịnh mà lấy mắt nhìn nhau, đều là kết nhân duyên lành đời này và đời sau. Đời này chắc gì mình tu được trọn vẹn, chắc gì mình tu được giác ngộ giải thoát, cho nên mình phải kết duyên lành với nhau.
Trong kinh Tạp Bảo Tạng, Phật dạy có bảy pháp bố thí không hao tổn tài vật mà được quả báo thù thắng:
1 – Bố thí mắt:
Bố thí mắt là thường đem con mắt cung kính để nhìn Cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, Tăng chúng. Như vậy khi xả thân thọ thân được con mắt thanh tịnh, vị lai được thành Phật, được thiên nhãn, Phật nhãn. Đó gọi là quả báo thứ nhất.
Nhìn bằng con mắt cung kính thì gọi là bố thí mắt, chứ không phải liếc xéo qua lại, hoặc con mắt giận dữ độc ác. Sống trong đại chúng, mình luôn luôn dùng con mắt cung kính để nhìn những bậc Sư trưởng, Sa-môn. Nếu không chiêm nghiệm, ở trong liêu, trong chúng, có những lúc chúng nói gì không vừa ý, mình trợn mắt lên cãi lại, đó là dùng con mắt độc ác. Dùng con mắt độc ác thì kiếp sau sinh ra đời, con mắt mình như thế nào quý thầy tự nghiệm.
2 – Bố thí nhan sắc:
Hòa thuận vui vẻ đối với Cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, không dùng gương mặt buồn rầu, sắc mặt hung ác tiếp họ. Nhờ vậy khi xả thân thọ thân được sắc mặt đoan chánh, đời vị lai thành Phật được sắc thân vàng ròng. Đó gọi là quả báo thứ hai.
Dễ làm chứ không tốn tiền. Nếu như có chuyện gì đó mà quý thầy nhăn mặt, tâm sân hận hiện lên khuôn mặt, kiếp sau sinh ra đời sắc thân của mình không được đoan chánh, trang nghiêm, thanh tịnh mà nó xù xì xấu xí giống như sắc mặt nhăn nhó hung ác trong hiện tại. Trong kinh diễn tả, Phật được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp và sắc thân vàng ròng là nhờ phước báo thù thắng, mà vô lượng kiếp Phật đã từng tu tập và hòa thuận vui vẻ đối với Cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn.
3 – Bố thí lời nói:
Đối với Cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn nói lời êm dịu, không nói lời thô ác. Nhờ vậy khi xả báo thân được ngôn ngữ biện tài, nói ra điều gì mọi người đều tín thọ, lúc vị lai thành Phật được bốn biện tài. Đó gọi là quả báo thứ ba.
Ở trong liêu, mình dùng những lời từ tốn êm dịu, không nói những lời thô ác với huynh đệ. Nhờ vậy, khi xả báo thân được ngôn ngữ biện tài. Không phải mình xuất gia, học kinh kệ nhiều rồi ra giảng pháp cho người khác nghe. Nếu trong đời quá khứ, chúng ta không tu tập pháp ngôn ngữ nhu nhuyến, thanh tịnh thì những lời mình nói ra người ta không thích, vì nó cộc lốc, nó không được nhu nhuyến thanh tịnh thuần nhất.
Trong kinh A Hàm Phật thường nói:
“Này các thầy Tỷ-kheo! Các thầy dùng lời nói như thế nào đó được nhu nhuyến, thanh tịnh, thuần nhất thì đó mới gọi là Tỳ-kheo chân chánh.”
Nhiều khi nói: Tôi nói vậy nhưng trong tâm tôi không có. Thật ra, trong tâm mình có mà mình không thấy, bởi vì mắt biếc Hồ Tăng chưa vỡ. Cặp mắt của Tổ Bồ-đề Đạt-ma là cặp mắt Bát-nhã, nhìn tới đâu ngài thấy từng vọng niệm điên đảo, đó gọi là mắt biếc Hồ Tăng. Thấy từng vọng niệm điên đảo, nên các ngài dùng phương pháp chuyển hóa. Còn mình, bởi vì vọng niệm nhiều quá mình không thấy được. Không thấy nên không chuyển hóa được, giống như chiếc xe đang xuống dốc mà không có phương tiện để thắng lại. Không dừng lại được, thốt lên những lời thô ác đến huynh đệ, mà mà người khác buồn khổ là mình bị nhân quả. Sau này, có đủ điều kiện ra giáo hóa chúng sanh mà quý thầy nói lời cộc lốc thô thiển, không được thuần nhất thanh tịnh thì người ngồi ở dưới người ta nhàm chán, không muốn nghe.
Tu tập lời nói êm dịu, nhu nhuyến, thanh tịnh thì được bốn biện tài vô ngại của bậc Bồ-tát trong lúc thuyết pháp. Ai ra hoằng pháp lợi sanh cũng đều cần tứ vô ngại trí, tức là bốn biện tài vô ngại. Nếu không có thì quý thầy rất khó thuyết pháp sau này:
– Thứ nhất, Pháp vô ngại biện: Đối với pháp thông suốt tường tận về danh cú văn không bao giờ bị bế tắc.
Người đi thuyết pháp, hoằng pháp phổ độ chúng sanh phải cần cái trí này.
– Thứ hai, Nghĩa vô ngại biện: Đối với nghĩa lý thâm diệu của giáo pháp giảng giải thấu suốt và tận tường không bao giờ bị bế tắc.
– Thứ ba, Từ vô ngại biện: Ngôn từ được tự tại.
Đến địa phương nào, quý thầy biết địa phương đó muốn cái gì, có điều trăn trở gì, hoặc có chướng ngại gì, để chúng ta tìm cách dùng cái ngôn từ đó chuyển hóa, chuyển tải.
– Thứ tư, Lạc thuyết vô ngại biện: Là do ba trí vô ngại của Bồ-tát vì chúng sanh vui vẻ mà thuyết pháp tự tại, không bao giờ bị bế tắc.
Tức là vui thích nói pháp phổ độ chúng sanh.
Bốn trí này sở dĩ được, là trong đời này chúng ta phải dùng lời nói êm dịu, không nói lời thô ác, nhờ vậy khi xả báo thân mình được cái tự tại này. Đó là quả báo thứ ba.
4 – Bố thí thân
Đối với Cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn phải đứng dậy nghênh tiếp, lễ bái gọi là bố thí thân. Nhờ vậy khi xả báo thân hay thọ thân được thân hình đoan chánh to lớn, mọi người đều cung kính, thời vị lai được thành Phật, thân như cây Ni-câu-đà, có được tướng vô kiến đỉnh. Đó gọi là quả báo thứ tư.
Thấy Hòa thượng, Thầy trụ trì, quý thầy lớn đi qua mình phải đứng dậy nghênh tiếp, lễ bái. Đó gọi là bố thí thân, không tốn tiền tốn bạc, chỉ đứng dậy xá thôi, chứ không phải mình dùng thân này bố thí cho cọp, cho sói gì hết.
5 – Bố thí tâm
Tuy đem những vật trên để cúng dường mà tâm không có nhu hòa tốt đẹp thì không gọi là bố thí. Phải dùng thiện tâm nhu hòa tốt đẹp, tâm thường sinh những điều tốt đẹp để cúng dường, đó gọi là bố thí tâm. Nhờ vậy khi xả thân thọ thân được tâm tinh minh sáng suốt, không có tâm si mê điên loạn, đời vị lai thành Phật được nhất thiết chủng trí. Đó gọi là quả báo thứ năm.
Dùng tâm nhu hòa, thanh tịnh để bố thí để cúng dường cho những bậc Sư trưởng, Sa-môn. Quả báo thứ năm là do dùng tâm cung kính cúng dường.
6 – Bố thí sàn tòa.
Hoặc thấy Cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn thì trải tòa mời ngồi cho đến tự lấy tòa của mình đang ngồi mời các vị ấy ngồi. Nhờ vậy khi xả thân thọ thân thường được sàn tòa thất bảo tôn quý, thời vị lai thành Phật được ngồi pháp tòa sư tử. Đó là quả báo thứ sáu.
Gặp những bậc Sư trưởng, những người có tuổi hạ cao hơn thì mình mời họ ngồi, nhường lại chỗ ngồi thì đó gọi là bố thí sàn tòa. Được như thế, thì thời vị lai thành Phật, được ngồi pháp tòa sư tử nói pháp. Đó là quả báo thứ sáu, rất dễ làm chứ không khó.
7 – Bố thí nhà ở.
Ở trước Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn mời họ vào nhà tự do đi lại nằm ngồi, đó là bố thí nhà ở. Nhờ vậy khi xả thân thọ thân tự nhiên được cung điện, nhà cửa, thời vị lai thành Phật được các thiền thất. Đó gọi là quả báo thứ bảy.
Bảy quả báo thù thắng vi diệu này là nhờ chúng ta tu tập, biết cách chuyển hóa, thu thúc sáu căn về thân về miệng và về ý. Được đời vị lai thành Phật, có những quả báo thù thắng vi diệu.
“Muốn cầm đèn lửa vào, trước thưa người trong liêu biết, nói đèn vào. Khi muốn tắt đèn, trước cũng hỏi người đồng liêu còn dùng đèn nữa không. Tắt đèn đừng lấy miệng thổi. Niệm tụng chớ nên lớn tiếng.”
Sa Di Học Xứ ghi có hai nghĩa:
“Trên đèn có trùng nhỏ nhít bay tụ ở trên ánh lửa, dùng lửa làm cảnh giới, chúng ta mắt thịt chẳng thấy, nếu lấy miệng mà thổi thì rớt trong ánh lửa mà chết, đánh mất tâm từ bi.”
Làm gì cũng đều lấy tâm từ bi, luôn luôn có tâm từ bi đối với chúng sanh.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 trong lần diễn giảng tại Pháp, có một vị đứng lên hỏi:
– Giáo lý nhà Phật dạy những điều gì?
Ngài trả lời:
– Giáo lý của chúng tôi chỉ đơn giản thôi, đó là lòng yêu thương, lòng thông cảm với mọi loài chúng sanh.
Đó là giáo lý thuần nhất và nhu nhuyến.
“Hoặc có người bệnh phải sanh lòng thương, trước sau thăm viếng.”
Bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ anh em đi tu mà bệnh nằm một chỗ thì rất tủi, cho nên phải có cái tâm đến thăm.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Bệnh nghĩa là bốn đại chẳng điều hòa, hơi thở bức bách, thân là gốc khổ, ai có thể thoát khỏi? Năm chúng xuất gia không có chỗ thân cận, nên Đức Như Lai dặn đi dặn lại nếu ai muốn cúng dường cho ta nên cúng dường cho người bệnh.”
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di Ni gọi là năm chúng xuất gia.
Vào thời Đức Phật có một thầy Tỳ-kheo tên là Ty Sa, thầy bệnh ghẻ lở mà không ai săn sóc. Phật biết được Phật đến tắm rửa cho thầy. Sau đó Phật dạy: “Người xuất gia không có chỗ thân cận, cha mẹ chính là huynh đệ là Thầy Tổ, ai muốn cúng dường cho ta thì nên cúng dường cho người bệnh.”
Trong kinh A Hàm, Phật dạy có năm trường hợp cần nên cúng dường:
1- Người từ xa đến.
Người từ xa đến thiền viện tá túc, mình cúng dường áo lạnh, hay vật dụng gì cần thiết thì phước đó rất là thù thắng.
2- Người đi xa.
3- Người bệnh.
4- Người đói khát.
5- Người có pháp trí huệ.
Phật lại bảo các thầy Tỳ-kheo rằng:
Xem bệnh phải đủ năm đức:
1- Biết người bệnh có thể ăn, chẳng có thể ăn.
Nghĩa là người bệnh thích ăn gì đó thì mình nấu, còn không thích cũng nấu thì người ta phiền não.
- Chẳng nhờm gớm đồ đại tiện, tiểu tiện và đàm dãi.
Không thấy nhơ, không thấy nhớp thì chúng ta nuôi bệnh được. Phải có tâm thương xót người bệnh thì mới nuôi bệnh được. Nếu có nội kết với người bệnh thì không nên nuôi, người bệnh càng bệnh nặng hơn. Đừng nghĩ là người tu cái gì cũng buông xả được. Cái gì cũng có nhân có duyên, cho nên sau này quý thầy làm trụ trì phải biết.
- Có lòng từ thương xót chẳng vì danh lợi.
Có khi nuôi bệnh, người bệnh thì ốm mà người nuôi lại mập. Ai cúng cái gì mình ăn hết mà quên nuôi luôn, tôi có chứng kiến rồi. Chúng nhỏ đi bệnh viện thì không muốn nuôi, mà cỡ như Thượng tọa, Thầy Trụ trì, Thầy Phó mà bệnh thì ai cũng đùng đùng muốn đi nuôi hết. Đó là vì danh lợi chớ không phát xuất từ tâm thương xót huynh đệ. Ngày xưa tôi nuôi bệnh Thầy Giáo thọ ở Thường Chiếu tôi biết, quý thầy lớn bệnh, người ta cúng dường rất nhiều, phải đem cho bớt. Chúng nhỏ bệnh tôi cũng đi nuôi, nhiều khi phải xuất tiền mua thêm vì quý thầy còn nhỏ chưa đủ đức nên ít ai cúng.
Có túc duyên ở trong đại chúng, nuôi bệnh là phải cắt người trong chúng, quý thầy cắt các cô Phật tử đi nuôi là chết!
Ngày xưa ở quê tôi có một ngôi chùa, vị thầy ở đó rất nghiêm mật đối với người nữ, Phật tử nữ vào chùa ngồi ghế rồi là ông đem ghế ra rửa, chà thật kỹ. Một hôm, ông bị té xe gẫy xương, có cô Phật tử đi nuôi, ba tháng sau, chính ông nắm tay cô đó nói ông sẽ xin hoàn tục để cưới cô. Chính vị thầy đó nói chứ không phải cô Phật tử nói. Bởi vì ba tháng là tiêm nhiễm rồi, tình sanh thì trí cách!
4- Hay lo liệu thuốc thang cho đến ngày lành mạnh hoặc đến giờ phút lâm chung.
5- Hay vì người bệnh mà thuyết pháp, khiến người sanh tâm hoan hỉ.
Thường bệnh nặng dễ nổi sân, mà nổi sân sau khi chết tức khắc sa đọa ba đường ác. Trong kinh Tiểu Tạp Thí Dụ có ghi:
Vua A-kỳ-đạt rất có tín tâm với Tam bảo, ông bố thí, cúng dường Đức Phật và chư Tăng rất nhiều. Sau khi ông mất, một hôm có một Thầy Tỳ-kheo đi vào rừng thấy một con rắn rất lớn đang phùng mang trợn mắt. Vị Tỳ-kheo này đã chứng quả vị A-la-hán nên nghe được tiếng của loài thú, ông hỏi con rắn:
– Tại sao ngươi sân hận như thế?
Con rắn này nói:
Con là vua A-kỳ-đạt, sau khi chết, cận tử nghiệp con thác sanh vào thân rắn này.
Vị Tỳ-kheo nói:
– Ta nhớ ông bố thí cúng dường rất nhiều, sao bây giờ đọa vào thân rắn?
Ông kể trong lúc ông bệnh nặng, có người hầu đứng quạt làm rớt cây quạt lên mặt ông, ông nổi sân lên bứt tim chết luôn. Vừa chết liền thành rắn mãng xà.
Vị Tỳ-kheo dùng tài biện luận vô ngại thuyết một bài pháp ngắn, vua được thoát thân rắn, sanh về cung trời Đao Lợi.
Qua câu chuyện này chúng ta thấy cận tử nghiệp và tích lũy nghiệp đều quan trọng. Do cận tử nghiệp nổi sân nên vua bị đọa vào thân rắn, nhưng nhờ tích lũy nghiệp, tích là chứa nhóm, ngày xưa vua biết bố thí, cúng dường, làm các việc thiện pháp nên mới gặp được thầy Tỳ-kheo khai thị, thoát khỏi thân rắn. Nếu không có tích lũy nghiệp dồn những hạt giống thiện pháp này, thì dù cho mười thầy Tỳ-kheo nói pháp cũng không chuyển được.
Ý Phật dạy ở đây là người nuôi bệnh phải dùng tâm nhu nhuyến thanh tịnh, thương xót và hay nói pháp cho người bệnh nghe, chẳng hạn nói: “Thôi! Sư huynh đừng sợ gì hết, thân này vô thường”, đại khái như thế. Người bệnh nhờ việc gì là phải làm liền, đừng chần chờ, chần chờ cũng làm người bệnh nổi sân, biết được như thế thì nuôi bệnh rất có phước. Phật nói trong các phước điền, phước điền thứ tám là nuôi bệnh, nuôi bệnh cũng giống như cúng dường Chư Phật.
Kinh Thiện Sanh Phật nói kệ:
Người nên nuôi kẻ bệnh,
Hỏi thăm các tai ách,
Thiện ác có báo ứng,
Như trồng trái được trái.
Thiện ác luôn luôn đi theo như bóng với hình. Phải thương xót, giúp đỡ lẫn nhau, có giận chỉ là giận một ngày thôi, chớ không được giận qua ngày thứ hai, bởi vì sao? Thế Tôn là cha, mà Kinh, Pháp tức là mẹ. Thế Tôn nhập Niết-bàn rồi, chỉ còn lại người mẹ đó là Phật pháp, là chánh pháp, là những bài pháp mà Đức Phật nói, ghi lại thành Kinh và những bộ Luận nổi tiếng của chư Tổ để lại. Người đồng học là anh em, tu mà nói không cần huynh đệ là trật. Nếu không nhờ thầy lành, bạn tốt thì không bao giờ được đắc đạo.
Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi:
Một hôm Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi Phật:
– Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, do năng lực của Phật tánh họ sẽ được quả Vô thượng Bồ-đề, đâu cần phải tu hành.
Phật dạy:
– Có ba hạng người vì sợ giặc phiền não mà lội qua sông sanh tử.
1- Hạng người thứ nhất vừa lội đã chìm.
Đó là hạng xuất gia gần gũi bạn ác, thọ tà pháp ác, hạng nhất xiển đề, đã dứt hết các căn lành, nghiệp ác quá nặng, không có đức tin, hạng người này chìm trong dòng sông sanh tử.
Vừa lội đã chìm có nghĩa là mình được phúc duyên sâu nên được cạo tóc xuất gia, nhưng vào chùa, vào thiền viện rồi thì gần gũi bạn ác cho nên chìm luôn. Gần gũi bạn ác thì làm việc gì cũng là ác pháp. Chẳng hạn, có người rủ quý thầy xuống kho trộm trái cây của Tăng chúng ăn, như vậy là chìm. Thọ tà pháp ác, là không gặp được chánh pháp. Dứt hết căn lành, nghiệp ác quá nặng, không có đức tin, hạng người này chìm trong dòng sông sanh tử, tức là không tin con đường giới, định, tuệ.
2- Hạng người thứ hai dù chìm lại nổi lên để rồi chìm luôn.
Đó là hạng người gần gũi bạn lành, được tín tâm tu tập tịnh giới, trì tụng giải thoát Mười Hai Bộ Kinh, thường bố thí, khéo tu trí huệ. Nhưng vì độn căn nên gặp bạn ác, không tu tập thân giới, tâm huệ trở lại thọ lấy ác pháp.
3- Hạng người thứ ba là chìm rồi liền nổi lên không bị chìm nữa.
Đó là hạng người đã mất căn lành nhưng được gần gũi bạn lành, tin Như Lai là bậc nhất thiết trí thường hằng bất biến, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Như Lai không diệt độ, Pháp và Tăng cũng không hoại diệt. Do tín tâm nên họ tu tịnh giới, thọ trì đọc tụng giải thích Mười Hai Bộ Kinh, vì độ sanh mà nói pháp, thường bố thí tu tập trí huệ, an trụ nơi trí huệ không thoái chuyển.
Đó là hạng người đã mất căn lành, nhưng được phúc duyên gần gũi bạn lành, rồi tu tập con đường Thánh pháp. Tuy có Phật tánh, nhưng chúng ta vào đạo không gặp được thầy lành bạn tốt mà gặp tà pháp thì tu cũng không được.
– Này Sư Tử Hống! Những người ở bờ sông bên này đều có đủ tay chân nhưng không thể lội qua sông được. Tất cả chúng sanh cũng vậy, đều có đủ Phật tánh. Như Lai còn dạy cho họ biết các pháp như Bát thánh đạo để họ chứng đắc quả Niết-bàn, nhưng họ không tu tập được. Đây không phải là lỗi của Như Lai, của Thánh đạo và của họ, nên biết rằng đó là lỗi của phiền não và vô minh.
Tức là mình bị nghiệp chi phối, chứ mình đừng đổ thừa là pháp Hòa thượng không linh, hoặc không hay. Hay hay không là do mình tu tập, do mình chuyển hóa. Tu tập không được là do phiền não và vô minh quá dày. Có những người mới xuất gia mà tu tập nhiều khi tiến, bởi vì phiền não và vô minh họ mỏng, ít. Còn tu lâu rồi mà không biết cách chuyển hóa, không có chánh niệm tỉnh thức thì cũng bị phiền não và vô minh, đây là bị nghiệp nó chi phối.
Bà Bimala nữ một hôm đến hỏi Bồ-tát Văn-thù:
– Chúng sanh biết sanh tử là khổ mà tại sao vẫn nhào vô?
Bồ-tát Văn-thù nói:
– Biết nhưng còn yếu.
Cái biết (cái giác) của mình nó còn yếu quá. Chẳng hạn mình biết làm chuyện này chắc chắn sẽ bị sám hối nhưng tại sao vẫn làm? Thứ nhất là vô minh, phiền não quá sâu dày, thứ hai là bị nghiệp chi phối.
Tất cả mọi người vào chùa xuất gia đều có tâm thiện, nhưng tu lâu ngày chầy tháng, tự nhiên tâm ác ở đâu sống dậy. Là do trong thời quá khứ, phiền não, xấu ác mình quá nhiều, phúc duyên lại quá mỏng, không được gặp thầy lành bạn tốt mà gặp bạn ác. Chẳng hạn, không chịu đi ngồi thiền mà rủ nhau đi uống trà, hoặc xuống kho lấy đồ ăn, thì dẫu cho có Phật tánh cũng bị chìm trong dòng sông sanh tử.
Nếu được túc duyên gặp những vị thiện tri thức chỉ dạy thì tự nhiên hạt giống ác pháp dần dần chết đi, mà thiện pháp được tăng trưởng. Trong Qui Sơn Cảnh Sách, Tổ Qui Sơn nói, thà uống một ly thuốc độc chết một đời, còn hơn chơi với bạn ác sa đọa trong vô lượng kiếp. Cho nên vào trong chúng mình cũng phải lựa bạn mà chơi. Người nào tu không đúng thanh qui, không đúng môn qui, không đúng con đường giới, định, tuệ là phải cắt liền.
“Có người ngủ chớ nên khua vật vang động và lớn tiếng nói cười.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Khua vật vang động và lớn tiếng nói cười sợ loạn yên giấc ngủ của người, mất đi cái tế hạnh của mình. Cổ Đức nói: Lúc kia mới ngủ phải giữ ái kính, phàm cử động tâm ắt phải yên tịnh.”
“Cười nói lớn tiếng, khua vật vang động khiến kia chẳng ngủ, động bệnh sân kia, sợ chướng vô minh, xa lìa chơn tánh.”
Khi người ngủ mà quý thầy khua động hay nói chuyện cười lớn làm họ nổi sân thì chướng vô minh, xa lìa Phật tánh của họ, cho nên mình phải thương xót.
“Chẳng được không cớ xông vào am phòng của người khác.”
Phải gõ cửa, không được tự ý vào.
17. Đến Chùa Cô Ni
Đến chùa Ni, phải đi hai người, đừng tự do xông xáo, tình sanh rồi trí cách.
“Có chỗ ngồi riêng mới ngồi, không chỗ ngồi riêng thì không nên ngồi.”
Có những vị thầy, nhiều khi cũng xộc vào phòng riêng của Ni nhìn ngó, khiến các vị Ni khó nói.
“Ni là gì? Trong Luật Thiện Kiến ghi: Là nữ chẳng xưng là nữ mà xưng là Ni để khác với người tục, lại khiến người đời kính tín tôn trọng. Nếu trở lại đồng người thế tục, xưng nữ thì người tục khinh mỏng, chẳng có thể sanh tín kính.”
Người xuất gia không được gọi người nam, người nữ. Phải gọi là Tăng, là Ni để cho người đời tín kính.
Trong Hội Chánh Ký có ghi:
“Như Lai thành đạo, mười bốn năm sau Di Mẫu Đại Ái Đạo cùng năm trăm dòng họ Thích cầu độ xuất gia, Phật chẳng hứa nhận vì diệt chánh pháp năm trăm năm.”
Phật thành đạo, mười bốn năm sau vua Tịnh Phạn băng hà. Lúc này Di mẫu Đại Ái Đạo cùng năm trăm dòng họ Thích chân không mang dép, đầu không đội nón để cầu Phật xuất gia. Với Phật nhãn, Phật thấy nếu cho những người nữ này xuất gia thì chánh pháp diệt năm trăm năm. Di mẫu bèn nhờ Tôn giả A-nan cầu xin Phật cho được xuất gia.
“Tôn giả A-nan ba lần thưa thỉnh, Như Lai thương xót vì kia chế Bát Kỉnh Pháp, nếu hay hành trì ưng độ xuất gia. A-nan y giáo truyền lại, Di mẫu Đại Ái Đạo ba lần đáp “có thể giữ” nên hứa cho xuất gia.”
Bát Kỉnh Pháp:
1- Tỳ-kheo Ni dầu cho một trăm tuổi hạ, khi thấy vị Tỳ-kheo mới thọ giới cũng phải đứng lên tiếp đón lễ bái và trải tọa sạch mời ngồi.
Không phải đối với Sa-di, mà đối với thầy Tỳ-kheo dù mới thọ giới, Tỳ-kheo Ni một trăm tuổi hạ cũng phải mời ngồi.
Mới thọ giới Tỳ-kheo gọi là tân Tỳ-kheo, được người một trăm tuổi hạ mà lại chứng quả vị A-la-hán lễ, có bị tổn phước không? Ngày xưa tôi rất e ngại chuyện này, nhưng khi soạn đến đoạn này, tình cờ tôi thấy trong kinh Trung Bổn Khởi quyển Hạ, trang 811 có ghi:
Sau khi Di mẫu Ni Đại Ái Đạo nghe dạy là Tỳ-kheo Ni dầu cho một trăm tuổi hạ khi thấy vị Tỳ-kheo mới thọ giới cũng phải đứng lên tiếp đón lễ bái và trải tọa sạch mời ngồi, bà về dạy năm trăm Tỳ-kheo Ni ráng tu để chứng quả rồi thì khỏi cần lễ lạy. Năm trăm Tỳ-kheo Ni và bà Đại Ái Đạo về tu đúng ba tháng thì chứng quả vị. Chứng quả vị xong bà đến nói với Tôn giả A-nan:
– Thưa Tôn giả A-nan! Các thầy, các Tỳ-kheo Ni, trưởng lão đều tu tập phạm hạnh đã lâu và đều đã thấy chân lý, tức là chứng quả vị A-la-hán rồi thì tại sao lại phải đảnh lễ các vị Tỳ-kheo Tăng nhỏ tuổi mới thọ đại giới?
Tôn giả A-nan nói:
– Chuyện này tôi không dám quyết định, để tôi trình Đức Thế Tôn có nên lễ lạy nữa hay không?
Ngài A-nan đến bạch Phật, Phật nói:
– Này Tôn giả A-nan! Hãy thôi đi, ông đừng nói như thế. Này A-nan! Hãy thận trọng, ông không được nói lời ấy, chỉ vì hiểu biết của ông không như tri kiến của Như Lai. Nếu ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của ta, tất cả Phạm chí, dị học, ngoại đạo và cư sĩ sẽ lấy y trải trên mặt đất và khẩn cầu các Sa-môn như thế này: “Này hiền giả! Hiền giả là bậc giới hạnh thanh tịnh cao tột, xin ngài hãy bước lên trên tấm y này để cho chúng con được phước báu lâu dài về sau.”
Nhưng mà có Ni xuất gia thì điều này không xảy ra.
Đức Phật lại bảo Tôn giả A-nan:
– Nếu ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của ta, mọi người trong đời đều trải tóc xuống đất cầu xin các Sa-môn: “Này hiền giả! Hiền giả là bậc có đầy đủ giới, văn, tuệ, hành. Xin ngài hãy bước lên trên tóc này để chúng con được phước báu lâu dài về sau.”
– Nếu ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của ta, người trong thiên hạ đều chuẩn bị đầy đủ y phục, trai phẩm, giường nằm, thuốc men chữa bệnh và mời thỉnh xin các vị Sa-môn nhận lấy tùy ý đem về mà dùng.
– Nếu ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của ta thì nhân dân ở khắp nơi sẽ kính thờ Sa-môn như thờ mặt trời, mặt trăng, như thờ thiên thần, còn hơn cả bậc tối cao của các vị dị học ngoại đạo
Tức là Phạm thiên.
– Nếu ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của ta, thì chánh pháp của Như Lai sẽ được hưng thịnh cả ngàn năm.
Đức Phật lại dạy Tôn giả A-nan:
– Vì người nữ xuất gia làm Sa-môn nên làm cho giáo pháp của ta suy vi hết năm trăm năm, là vì sao vậy? Này A-nan! Vì người nữ có năm ngôi vị không thể đạt được, năm ngôi vị ấy là gì?
– Thứ nhất, người nữ không thể đạt được quả vị Như Lai tối chân Chánh đẳng, Chánh giác.
Muốn thành Phật thì phải chuyển thành nam tử. Giống như Long nữ, sau khi dâng hạt châu cho Phật thì tức khắc sanh về nước Vô Cấu ở Phương Nam. Chuyển qua thân nam thành bậc Chánh Giác.
Lý này là lý thiền, trao hạt ngọc là tất cả mọi người ngay tức khắc nhận được, nhận được là phải trở về phương Nam. Phương Nam tượng trưng cho cung Ly, Ly tượng trưng cho hỏa, hỏa chỉ cho tâm. Nhận ra tâm chân thật rồi nhưng phải một phen chuyển hóa, sanh về nước Vô cấu, nước đó bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, không phàm không Thánh. Còn phải một phen chuyển từ thức mà thành trí thì mới thành được. Cho nên, mười phương Đức Như Lai ra đời có khi nào thị hiện nữ nhơn không? Không có! Phật phải thị hiện nam tử, đó là bậc đại trượng phu.
– Thứ hai, người nữ không đạt được ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương.
– Thứ ba, người nữ không thể đạt được ngôi vị Đế Thích, vua tầng trời Đao Lợi thứ hai.
– Thứ tư, người nữ không thể đạt được ngôi vị vua cõi Thiên ma thứ sáu.
– Thứ năm, người nữ không thể đạt được ngôi vị Phạm thiên vương ở cõi trời thứ bảy.
Năm ngôi vị ấy trên chỉ có bậc trượng phu mới đạt được. Bậc trượng phu ở trong đời thành tựu Phật quả được làm Chuyển Luân Thánh Vương, được làm trời Đế Thích, được làm vua cõi Thiên Ma, được làm Phạm Thiên Vương, này Tôn giả A-nan!
Ở đây nói, bậc trượng phu mới đạt được. Là thân nam tử mà không phải bậc trượng phu cũng không được thành tựu năm ngôi vị này. Một người Ni mà có tâm trượng phu họ cũng thành tựu quả vị A-la-hán trong đời này. Nghĩa là họ tu hành cũng đắc đạo, không phải là Tăng tu hành mới đắc đạo.
Câu chuyện Thiền sư Triệu Châu:
Có bà già đến gặp Thiền sư nói:
– Con bây giờ chán thân nữ, nhờ Hòa thượng khai thị cho con để con chuyển hóa kiếp sau thành người nam.
Thiền sư nói:
– Bà lên chánh điện tôi khai thị cho, tức khắc bà thành thân nam chứ không cần đợi kiếp sau.
Ngài dạy bà lão:
– Bà phải phát nguyện như thế này: Con nguyện thân hèn mọn của con trầm luân trong ba đường ác, còn tất cả chúng sanh được sanh về cung trời Đâu Suất.
Bà lão ngạc nhiên:
– Sao chuyển kỳ vậy? Ý con muốn là chuyển thân người nữ thành người nam.
Thiền sư nói:
– Bà chịu trầm luân, tức là cái thân trượng phu vào cuộc đời này nhiếp hóa chúng sanh. Còn phát nguyện tùy hỉ cho tất cả ai tu tập đều sanh lên cảnh giới cao hơn, hướng thượng hơn, thì tức khắc bà thành thân nam.
Tôi có quen một Ni sư, vị này phát nguyện, đời đời kiếp kiếp hiện làm thân Ni để độ cho những người Ni. Đó là tâm Bồ-tát rồi, đâu phải là nữ nữa. Bậc đại trượng phu mới dám phát nguyện vào cuộc đời này.
2- Tỳ-kheo Ni không được chê bai, mắng nhiếc Tỳ-kheo.
Thời này hiếm lắm. Tôi có quen một thầy, bây giờ thầy ở Chân Không. Ngày xưa thầy đến một ngôi chùa Ni, thầy gõ mõ sai hay sao đó, bị cô Ni cầm cái dùi mõ đánh, xịt máu! Bây giờ Bát Kỉnh Pháp mất rồi. Báo Giác Ngộ đăng, bên Đài Loan bây giờ họ nói Tăng, Ni đều bình đẳng, bỏ Bát Kỉnh Pháp luôn.
Tỳ-kheo Ni mà giữ đúng Bát Kỉnh Pháp thì lợi ích rất nhiều, cái ngã hạ xuống. Sư bà Hải Triều Âm giữ Bát Kỉnh Pháp rất nghiêm, mà giữ chừng nào thì Tăng cúng dường nhiều chừng nấy.
3- Tỳ-kheo Ni không được cử tội, nói lỗi của Tỳ-kheo, ngược lại Tỳ-kheo được quyền nói lỗi của Tỳ-kheo Ni.
Có nghĩa là nội bộ Tăng thì Ni không được xen vô.
4- Thức-xoa-ma-na học giới xong, đương sự nên theo Chúng Tăng cầu thọ đại giới.
5- Tỳ-kheo Ni mà phạm tội Tăng tàn thì phải trong mỗi nửa tháng ở trong hai bộ Tăng hành pháp ma-na-đỏa.
6- Tỳ-kheo Ni nên trong mỗi nửa tháng theo Tỳ-kheo cầu thụ học.
7- Tỳ-kheo Ni không được an cư ở nơi không có Tỳ-kheo.
8- Tỳ-kheo Ni an cư kiết hạ xong nên ở trong chúng Tỳ-kheo cầu xin ba việc để tự tứ sám hối.
Luật Tứ Phần Tỳ-kheo Ni ghi:
“Như vậy đó, này A-nan! Ta nay đã nói Tám Kỉnh Pháp, suốt đời tôn trọng không được tái phạm, nếu người nữ nào thực hành được thì tức là đã thọ giới, cũng ví như có người muốn qua dòng nước lớn phải bắc cầu mà đi qua.”
Chư Ni muốn qua dòng sông sanh tử này là phải bắc cầu Bát Kỉnh Pháp, nếu không bắc cầu thì thuyền chìm trong dòng sông sanh tử luôn.
Hồi tôi ở Thường Chiếu, các vị Ni có người nói thiền, nói đạo rất hay, nhưng mà đêm tối ăn trộm nó đến là phải cầu tụi tôi qua. Các cô hoảng chạy vô phòng núp, đóng cửa lại hết không dám ra! Còn tụi tôi thì chưa biết đạo gì nhưng cũng xông xáo, không biết sợ gì hết. Cái tâm trượng phu, cái tâm muốn che chở người khác của mình nó sống dậy, có cái tâm đó mới gọi là Tăng.
“Chiếc cầu lợi ích qua dòng sông sanh tử đó ai muốn bỏ vì thấy ràng buộc thì tùy, nhưng hãy nên nhớ một điều, nếu không có tám pháp cung kính đó thì không có giáo hội Tỳ-kheo Ni và cũng không có ai là Tỳ-kheo Ni.”
Nếu bỏ tám pháp cung kính thì không có Tỳ-kheo Ni. Tu cho vui vậy thôi chứ cũng không được lợi ích gì. Quý thầy nào có em hay chị xuất gia, nhớ nhắc dùm. Nói rằng Bát Kỉnh Pháp rất lợi ích, phải giữ mới được chứng đạo. Bởi vì cống cao ngã mạn thì làm sao chứng đạo. Cho nên thấp mình thì tự nhiên tâm hướng thượng đi lên. Muốn được như thế thì phải giữ Bát Kỉnh Pháp.
“Chẳng được vì thuyết pháp phi thời, hoặc lúc về chùa chẳng được nói hình sắc cô Ni này đẹp, cô Ni này xấu. Chẳng được thư từ qua lại hoặc cậy mượn cắt may cùng giặt nhuộm. Chẳng được tay vì cạo tóc.”
Chẳng hạn, quý thầy qua bên viện Ni lấy đồ, về nói cô đó tôi thấy mập quá, mập mà thấp người nữa! Rồi thầy khác nói không phải, tôi thấy cô đó đen quá, cô kia mới đẹp, thì nó trật! Tổ biết nên Tổ dạy mình.
Chẳng được vì thuyết pháp phi thời. Như gặp cô Ni nào xá quý thầy, quý thầy nói: “Cô xá vậy không đúng, oai nghi phép tắc là phải xá như thế này.” Đó là thuyết pháp phi thời. Quý thầy nói chuyện dễ thương, nhu nhuyến thanh tịnh thì tội người ta, tu không được, tối về người ta nhớ, thành ra tránh giùm. Thọ giới Tỳ-kheo rồi, nếu nắm tay người nữ mà có cảm thọ thì phạm giới Tăng tàn, còn Ni mà nắm tay người nam có cảm thọ thì phạm Ba-la-di. Bởi vì Ni không làm chủ được cảnh giới đó, chỉ có Tăng mới làm chủ, mới dừng được.
Lúc về chùa chẳng được nói hình sắc cô Ni này đẹp xấu, chẳng được thư từ qua lại. Hòa thượng Trúc Lâm rất sợ chuyện này. Ngày xưa, lúc dạy ở Huệ Nghiêm, Ngài nói Tăng, Ni hay thư từ qua lại. Một thời gian Hòa thượng bắt được, trong thư toàn nói chuyện tình cảm.
Chẳng được cậy mượn cắt may cùng giặt nhuộm. Tại sao không cho nhờ Ni giặt nhuộm? Vào thời Đức Phật, ông Ca-lưu-đà-di gặp cô Ni Thâu-lan-đà, hai người nhìn qua nhìn lại ông xuất bất tịnh. Y hạ ông đem nhờ cô đó giặt, trong luật nói rất rõ, cô đó về lấy cái bất tịnh của ông, bỏ vô chỗ kín rồi thụ thai. Nên Phật chế ra oai nghi phép tắc là không được cậy nhờ giặt nhuộm áo quần. Học luật phải học cho kỹ. Ở trong chúng thì không lo, nhưng sợ sau này quý thầy trụ trì một chùa, hoặc cốc nhỏ, có cô Ni bên cạnh xa xa rồi quý thầy đến nhờ.
Hồi xưa, tôi có một sư đệ, xuất gia một lượt với tôi. Ông không chịu tu ở Thường Chiếu mà ra ngoài đảo tu. Có cô Ni đang học trường cao cấp, cái duyên sao không biết mà cũng ra đó tu. Cô tu ở trên, ông tu ở dưới. Tu được ba tháng, một hôm ông bị trúng gió nên nhờ cô Ni đó cạo gió. Cạo lần thứ nhất không sao, lần thứ hai, lần thứ ba cả hai ra đời. Lấy nhau có đứa con, hai người rất là khổ, đánh lộn rồi uống rượu suốt luôn.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghĩa là lìa trần thoát tục, phẩm cách cao xa. Trong pháp xuất thế Tăng thể phải trọng, nếu thân cận tay vì Ni cạo tóc thì Ni ngồi mà Tăng đứng thì bại hoại pháp môn, trọn thành kẻ tục.”
Hòa thượng Minh Thông, nói học luật nhiều khi phải nói trắng ra để mình tránh, Ni thì ngồi mà Tăng thì đứng giống như người tục vậy, kỳ lắm, cho nên ở đây cấm luôn không cho phép.
Thiên Thành Phạm nói:
“Cũng chẳng được cầm đồ dạy thức cạo.”
Không cạo mà mình dạy cách thức cạo cũng không được.
“Chẳng được xuống nhà bếp dạy cách làm đồ ăn ngon.”
Có một thầy tôi quen tên cũng dạy kiểu như vậy, dạy một thời gian hoàn tục luôn! Quý thầy nấu ăn ngon thấy ai nấu ăn dở mình hay xuống nhà bếp chỉ, bỏ tiêu, bỏ hành, bỏ thứ gì đó, rồi bỏ mình luôn! Cho nên đây dạy mình không được làm những chuyện đó.
“Bằng không phải thầy sai, dù đi ngang qua trước cửa chùa cô Ni cũng chẳng có nên ghé.”
“Chẳng được chỗ khuất mà ngồi chung nói chuyện.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Có hai nghĩa, dần dần thì sanh tâm nhiễm trước, thứ hai là khiến người khác ngờ vực và nhạo báng.”
Tức là phá kiến chúng sanh.
“Không được đi cùng xe, không được đi cùng đò mà hẹn với nhau.”
Dầu cho xe đò hay xe taxi gì cũng bị phạm giới, chứ không phải xe 2 bánh mới phạm, nghĩa là không được đi cùng đường.
Tình cờ, quý thầy bước lên xe đò mà có cô Ni ngồi đằng sau thì quý thầy không có lỗi, vì họ đi mình không biết. Còn hẹn hò, nhắn tin, hoặc điện thoại: “Hôm nay thầy đi xuống Sài gòn, cô có đi không? Đi xe Thành Bưởi.” là quý thầy bị phạm giới, dầu cho đi xe lớn cũng vậy. Hẹn qua cùng một chiếc đò cũng là phạm giới, cho nên cấm hết.
Đại sư Liên Trì kể, Pháp sư Linh Dụ ở chùa Diễn Không triều nhà Tùy, người Định Châu. Sư tu hành rất miên mật, Sư từng phát thệ là không độ Ni. Chỉ khi giảng kinh thuyết pháp mới cho Ni vào giảng đường mà nghe. Khi bắt đầu giảng mới cho Ni vào sau, kết thúc buổi giảng cho Ni ra trước. Phòng Sư ở tuyệt đối không có cho Ni vào.
Cái này mình học phép người xưa. Đủ năng lực, đủ pháp thù thắng, pháp tối thượng của Phật Tổ rồi mới được độ Ni, còn không thôi đừng có độ.
“Không hai người, một mình không nên tới, và cũng đừng kia đây sắm lễ đưa qua lại. Chẳng được cậy mượn mấy cô đi tới nhà giàu xin và thỉnh tụng kinh bái sám. Chẳng được cùng mấy cô kết nguyền làm cha, làm mẹ, làm chị, làm em, đạo bạn.”
Tu nhờ đại chúng, nhờ Hòa thượng thì thấy không có gì, nhưng ra ngoài làm việc sẽ có những trường hợp này, chính chúng tôi ra làm việc tôi biết. Ni đến cúng dường quý thầy, cúng một thời gian nói: “Con thấy con có duyên với thầy, chắc nhiều đời nhiều kiếp làm cha, làm mẹ.” Họ nói lần đến, quý thầy phải chặt liền! Đừng có kết nguyền gì hết.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Có hai nghĩa: Thứ nhất là bị người đời nghi báng, thứ hai là kết thêm khổ đường sanh tử, thật trái hành vi của trang Thích tử ra khỏi đời vậy.”
Cổ Đức nói:
“Cha mẹ chẳng thân lại thân ai? Chơn tâm mê tối bái cha người.”
Hàn Sơn nói:
“Lìa thân làm xuất gia, xuất gia lại kết bái.”
Mình lìa cha, lìa mẹ, lìa hết tất cả đi xuất gia. Vào đây lại kết bái cha, mẹ, anh chị em thì không đúng.
Qua bài “Đến Chùa Cô Ni”, chúng ta phải rất cẩn thận, nếu không khéo tu tập, không khéo chánh niệm thúc liễm thân tâm thì mình tránh vỏ dưa gặp cái gì? Mình sợ người nữ ở ngoài đời mình tránh rồi, không khéo rồi cũng gặp. Có những người đi trước đã từng vấp phải điều này.
18. Phép Đến Nhà Người
Tức là đến nhà cư sĩ.
Chư Phật, chư Tổ dạy cho người hậu học tinh thần của đạo Phật là đi theo lộ trình Giới, Định, Tuệ. Dầu tu theo pháp môn nào, Tịnh Độ Tông, Mật Tông hay là Thiền Tông chúng ta đều đi theo lộ trình này.
Khi đến nhà người, tức là đến nhà cư sĩ, nếu trước đó chúng ta không học oai nghi phép tắc thì người cư sĩ họ khinh dễ người Tăng sĩ, tức là phá kiến chúng sanh. Hôm trước thầy Trụ trì Trúc Lâm dạy người mới xuất gia cần nhất là học về giới luật, oai nghi phép tắc. Lúc nhỏ, chịu khó học thì nó thấm vào tàng thức, lâu ngày chầy tháng mình nhớ, gặp việc mình ứng xử được. Nếu không học, khi đến nhà cư sĩ hoặc đến chùa cô Ni, người ta nhìn là biết mình không học qua giới luật, oai nghi phép tắc.
Tôi thấy một số quý thầy nhỏ chỉ lo làm, những giờ học cơ bản không chịu đi học. Quý thầy chỉ sợ vắng mặt giờ của thầy Trụ trì. Thầy Trụ trì dạy cao cấp Phật học, quý thầy phải luôn có mặt. Những điều nhỏ, cơ bản như oai nghi, giới luật mình không nghiên cứu kỹ thì sau này rất khó. Chỉ có mình thương mình thôi, không ai thương mình hết.
Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư dạy rất là rõ:
“Không được cùng người thế tục ngồi chung lang chạ, mình phải riêng chỗ mà ngồi.”
Chẳng hạn như có một cái ghế, mình ngồi chung với cư sĩ thì họ coi thường. Ra làm Phật sự sẽ thấy, mới đầu cư sĩ rất kính mình nhưng mà sống chung với một thời gian thì họ chán. Bởi chúng ta chưa chứng Thánh, oai nghi phép tắc không chuẩn thì chắc chắn bị sơ hở.
“Và đừng ngồi chồm hỗm, ngồi chàng hãng, ngồi tréo giò, lắc mình, rung chân, đứng dậy ngồi xuống, ngồi xuống đứng dậy liền liền”.
Tức là không đúng oai nghi phép tắc của Tăng sĩ. Trong Bát Chánh Đạo, chi phần thứ nhất là Chánh tri kiến. Theo tinh thần bên Nam Tông, Chánh tri kiến có nghĩa là phải thấu thoát được Tứ Diệu Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nói khác hơn là phải thấu thoát mười hai nhân duyên. Nhưng theo tinh thần của giới luật, Chánh tri kiến ở đây là mình phải trang bị cái thấy biết chơn chánh, có nghĩa là oai nghi, phép tắc đi đứng, nằm ngồi.
Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói:
“Ta ra đời nhằm mục đích là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến.”
Tức là cái thấy biết giác ngộ. Thấy biết giác ngộ rồi thì quý thầy đến nhà cư sĩ hay đến chùa cô Ni, tự nhiên có chuẩn mực oai nghi phép tắc đầy đủ.
Nhưng theo chúng tôi thấy, ra làm Phật sự, nếu quý thầy thường đến nhà cư sĩ thì nó mất đi tính chất thiền của mình. Mới đầu họ rất cung kính, từ cái cung kính đó tự nhiên mình rớt vào lợi đắc và danh vọng. Nhiều khi huynh đệ mình còn nhỏ thì chơi rất thân nhưng lúc ra làm Phật sự thì tự nhiên không còn thân như ngày xưa nữa. Chẳng hạn quý thầy có một số Phật tử, cư sĩ, quý thầy giới thiệu với huynh đệ, huynh đệ mình thường lui tới với những vị cư sĩ đó thì tự nhiên có những hạt giống tật đố, ích kỷ nó chen vào. Cho nên chư Phật, chư Tổ dạy mình phép đến nhà cư sĩ, càng ít đến càng tốt, có chuyện gì quan trọng lắm thì mới đến, còn không thì thôi. Đến liền liền thì họ coi thường.
“Trong kinh Tương Ưng Bộ II, chương VI, Phẩm I, Phần Con Rùa, Đức Phật dạy:
Một thời Thế Tôn trú ở Sa-va-thi dạy các Tỷ-kheo khổ lụy:
– Này các Tỷ-kheo! Lợi đắc, danh vọng, cung kính là chướng ngại pháp để chứng đắc vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách.
Được cư sĩ cung kính, từ đó danh vọng, lợi dưỡng tăng trưởng thì nó che mất đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác.
– Này các Tỷ-kheo! Thuở xưa trong một hồ nước có những con rùa sinh sống, rồi một con rùa nói với con rùa khác: “Chớ có đi đến chỗ ấy.” Con rùa kia không nghe lời đi đến chỗ ấy liền bị người thợ săn phóng trúng nó một cây lao có sợi dây.
Chớ có đi đến chỗ ấy, nghĩa là đừng lân la đến nhà cư sĩ nhiều.
Thì khi ấy, con rùa kia đi đến, con rùa này hỏi: “Này bạn! Bạn có bị thương, bị bắn trúng không?” “Không! Tôi không bị thương, không bị bắn trúng nhưng có ngọn lao và sợi dây dính theo lưng tôi.” “Này bạn! Bạn bị thương thật rồi, bạn bị bắn trúng thật rồi. Chính vì những vật này của người thợ săn mà cha ông của bạn rơi vào bất hạnh, rơi vào tai họa.”
Phật đưa ra ví dụ này, ý là, được người cư sĩ cung kính, được lợi dưỡng, được danh vọng thì mình thấy đâu có gì, bởi vì nó vô hình, vô tướng, nhưng mình bị nhiễm, bị thấm hồi nào không hay. Từ đó về sau mất đi tính chất thiền hay nói khác hơn, mình không vào được con đường thiền định, không được giới thanh tịnh. Định không có, không có định thì tuệ cũng không. Không có tuệ có nghĩa là bị bắn trúng bởi danh vọng, lợi dưỡng, cung kính.
Khổng Tử nói rất rõ: Bậc hạ là đọc trong sách mà kinh nghiệm, bậc trung là được thầy, bạn truyền trao lại kinh nghiệm, còn bậc thượng là tự mình lặn sâu, thể nhập trong cuộc sống mà chứng nghiệm. Những điều Phật nói ra là do Phật đã trải qua vô lượng kiếp kinh nghiệm trong cuộc sống, Phật truyền trao lại cho mình.
– Này các Tỷ-kheo! Người thợ săn là chỉ cho ác ma; cái lao chỉ cho lợi đắc, danh vọng và cung kính; sợi dây chỉ cho hỷ tham. Tỷ-kheo nào đối với lợi đắc, danh vọng, cung kính mà thọ hưởng và luyến ái thì vị ấy đã bị lao đâm trúng, đã rơi vào tai họa, bị ác ma muốn làm gì thì làm.
Tức là họ muốn gì thì quý thầy phải chiều thôi! Mình đến nhà cư sĩ nhiều, một thời gian họ cúng dường, họ cung kính, mình dính mắc, luyến ái rồi thì họ sai bảo gì mình cũng làm theo hết, có khi làm trong tinh thần ác pháp. Có những người nói làm Phật sự nhưng thật ra là ma sự, tức là giới không được thanh tịnh, định không được định tĩnh, và tuệ thì không có.
Theo kinh A-hàm, Phật dạy:
Vào nhà cư sĩ, nếu cư sĩ không đủ năm pháp thì Chư Tăng không được vào:
– Thứ nhất, họ có chỗ ngồi mà không mời, không thỉnh.
– Thứ hai, mình vào nhà họ nhưng cặp mắt họ không cung kính, không tôn trọng thì đừng nên vào.
– Thứ ba, họ có thức ăn uống thượng vị họ không cúng dường mà cúng dường thức ăn không thượng vị thì cũng không nên vào.
Theo chúng tôi kinh nghiệm, những người cư sĩ họ cung kính những vị lớn chẳng hạn như Hòa thượng, thầy Trụ trì, còn đối với mình thì họ không cung kính bao nhiêu. Khi có công việc lên thành phố, thường chúng tôi xin ngủ ở chùa. Quen chùa nào thì xin thầy Trụ trì ngủ chùa đó chứ đừng nên đến nhà cư sĩ ngủ. Cũng có người có chùa quen nhưng không chịu ngủ mà lại thích ngủ ở nhà cư sĩ. Có những cư sĩ họ mở ti vi lên cho quý thầy coi, quý thầy xuống coi là mắc bẫy rồi. Cho nên đến nhà cư sĩ là phải có học oai nghi phép tắc.
Cư sĩ thân tín mời quý thầy đi dự đám cưới quý thầy đi không? Đi là bị dính bẫy. Hồi xưa có hai thầy, bây giờ đã ra thất ở, có một cư sĩ (tôi giấu tên) mời hai thầy đi dự đám cưới con gái, hai thầy đi dự. Sau khi hai thầy ngồi trên bàn dự đám cưới thì ông lấy điện thoại ra gọi cho thầy cố vấn, đề nghị thầy cố vấn lên trình Hòa thượng để khai trừ hai thầy này. Họ mời người ta đi ăn đám cưới, rồi họ nói ai đời chư Tăng mà đi ăn đám cưới, không đúng oai nghi phép tắc! Câu chuyện này có thật, tôi nêu ra cho quý thầy thấy. Họ khinh dễ, họ coi thường mà họ nhử mình đó.
Quý thầy khi đủ duyên đi thọ giới Tỳ-kheo rồi thì cũng không được quyền làm mai mối. Chẳng hạn quý thầy có em gái, gặp người nào đó quý thầy nói: “Tôi thấy ông cũng hiền lành, ông muốn lấy em gái tôi không?” Nghe vậy là biết vị này chưa từng học qua giới luật, chưa từng học qua oai nghi phép tắc. Mình là người tu, không khuyến khích người ta đi xuất gia thì thôi, chứ không được quyền khuyến khích người ta lấy nhau, làm cho người ta dính vào trong luân hồi sanh tử, trong luật ghi rất rõ. Đi ăn đám cưới cũng là khuyến khích người ta đi vào luân hồi sanh tử.
Tổ Trừng Quán, Tứ Tổ trong Hoa Nghiêm phát mười lời nguyện lớn.
Bồ-tát Long Thọ nói nếu trên bước đường hành đạo mà quý thầy chưa từng bao giờ phát một lời nguyện nào thì bảo đảm quý thầy tu một thời gian sẽ hoàn tục. Tại sao? Bởi vì nguyện lực là sức mạnh, có những lúc mình làm cái gì đó, mình nhớ lời nguyện của mình, nguyện lực của mình quá mạnh thì tự nhiên mình giữ giới được thanh tịnh, được định tĩnh và có trí tuệ.
1- Tôi sẽ luôn luôn sống trong chùa và chỉ giữ ba y của Tỳ-kheo.
2- Tôi sẽ từ bỏ tất cả danh lợi thế gian và xem chúng như là rác rưởi.
Ngài từ bỏ tất cả danh lợi thế gian, ở đây mình làm chưa được. Thấy có một số người họ dính mắc về danh lợi, quý thầy khởi niệm coi thường là bị nhân quả. Theo tinh thần của thiền, chừng nào chúng ta sống trên danh lợi mà nhàm chán danh lợi thì đúng. Chưa có thì hãy khoan, ở đây mình nhớ lời nguyện của ngài để mình thu thúc, tu tập. Chẳng hạn như quý thầy làm trụ trì, rồi có tiền, có của, có danh vọng, có lợi dưỡng mà quý thầy nhàm chán, coi như rác, như rơm thì đúng. Còn mình là chúng thì mình phải thực tập. Muốn thực tập được thì phải học giới luật, oai nghi.
3- Tôi sẽ không bao giờ ngắm nhìn người nữ.
Lời phát nguyện thứ ba này chúng ta phải cần lưu ý.
Trong kinh Bồ Tát Quát Mắng Sắc Dục có nói rất rõ, chư Phật, chư Tổ luôn luôn căn dặn mình xa lánh sắc đẹp người nữ. Nếu không chịu tu, không chịu giữ giới luật, không thu thúc sáu căn thì rất dễ dính mắc. Ở đây nói:
“Sắc đẹp người nữ là gông cùm của thế gian, phàm phu say mê chẳng thể tự thoát ra được”.
Đến như Ngô Phù Sai, vua Trụ, Đường Huyền Tông cũng đều dính mắc, dầu cho vua chúa cũng khó mà thoát ra được. Tuy vô hình vô tướng nhưng mà nó trói buộc.
Chúng ta có túc duyên là trong vô lượng kiếp đã từng tu tập, đã từng phát nguyện lớn, nên ngày hôm nay mới được đầu tròn áo vuông, chớ khó mà thoát ra được lắm. Thoát ra được rồi thì mình phải phát nguyện “Tôi sẽ không bao giờ ngắm nhìn người nữ.” Nghe như thế đi ra đường gặp người nữ quý thầy đi thụt lùi là trật nữa! Như câu chuyện cô lái đò và vị tu sĩ:
Cô lái đò đưa khách sang sông, đò cập bến, cô thu mỗi người một đồng nhưng vị tu sĩ thì cô thu hai đồng. Hỏi tại sao, cô nói vì thầy nhìn cô nên cô tính thêm tiền. Lượt về vị tu sĩ không nhìn cô mà nhìn xuống sông, nhưng cô thu tám đồng. Vị tu sĩ nói tôi nhìn xuống sông đâu có nhìn cô. Cô nói thầy không nhìn mặt tôi nhưng tâm thầy nhìn!
Tôi kinh nghiệm bản thân, nếu nói không nhìn người nữ thì ra làm nhà khách bảo đảm không được. Quý thầy làm việc phải phát nguyện lực lớn, làm vì Thầy Tổ, vì đại chúng tu hành được an ổn. Một điều nữa là nhớ không bao giờ được bỏ ngồi thiền. Mình phải gia công tu tập, gia công thiền định và có nguyện lực lớn thì tuy đối diện trước người nữ, nhưng chúng ta không dấy niệm về sắc, thinh, hương, vị và xúc.
“Phàm phu khốn khổ đến chết chẳng thể thoát khỏi.”
Quý thầy có gia đình mà ra đi được không phải là chuyện đơn giản, nguyện lực đời xưa còn sót lại cho nên bây giờ mới thoát ra, giống như cá mắc lưới mà thoát ra được mới hay.
“Sắc đẹp người nữ là họa suy của thế gian, phàm phu bị nó mê hoặc thì mọi tai ách thường đưa đến. Người tu hành đã được xả bỏ nó, nếu tâm còn nhớ tưởng lại thì đó là từ trong ngục tù được thoát ra lại muốn trở vào nữa”.
Đây là kinh nghiệm cho những người có gia đình, thoát được rồi nhưng ở trong chùa, phiền não huynh đệ, chiều lại quý thầy xuống rừng thông ngồi tơ tưởng nhớ ngày xưa sống như thế nào. Đó là muốn vào ngục tù lại nữa! Đã thoát khỏi ngục tù rồi mà tơ tưởng về quá khứ, gọi là sống mộng tưởng, bị những cái dục điên cuồng của thời quá khứ nó quay cuồng trong mình. Lúc này quý thầy phải đến trước Phật thành tâm sám hối tha thiết thì lần lần nó hết và khô kiệt.
“Lại muốn trở vào nữa, từ điên cuồng được tỉnh táo sau đó ý mong cầu bị điên cuồng lại, từ bệnh hoạn được khỏe mạnh lại muốn bị bệnh trở lại. Người trí phẫn nộ về sự ngu si ấy, biết rõ tai hại của sự điên cuồng kia đã làm cho mình nhiều lần bị ngã gục”.
Sư huynh tôi tên là Đạo Nghi, trước khi xuất gia ông đã có gia đình. Xuất gia rồi ông ra vào hết thảy sáu lần, lần nào cũng do cô bạn dụ về. Lần tôi làm nhà khách, người con điện lên nói cô bạn ông bị xe tông đang hấp hối trong bệnh viện Chợ Rẫy nên kêu ông về gấp. Chính tôi dắt ông vào xin Thầy tôi. Thầy tôi thật là hay, Thầy nói:
– Chú bị lừa rồi đó, tôi bảo đảm là chú bị lừa, kỳ này chú về là chú chết!
– Dạ không đâu, cô bạn con bị tai nạn sắp mất rồi mà, con phải về!
Quả tình ông đón xe về rồi ở nhà luôn, khoảng hai năm sau ông lại lên xin xuất gia lần nữa (lần thứ tư). Tôi hỏi:
– Ngày xưa lúc ông đi về thì chuyện gì xảy ra?
Ông nói:
– Con về nó núp đâu trong cửa nó nhào vô một cái nên con tiêu đời luôn!
Cứ ra vào suốt, ông cũng chịu hết nổi nên lên xin Hòa thượng đổi tên, ông nói:
– Con là Đạo Nghi, mà nghi thì nó không có ngộ, xin Hòa thượng đổi tên.
Hòa thượng đổi tên cho ông (Đạo Nghi là do Thầy trụ trì Thường Chiếu đặt), đổi tên rồi ông còn ra hai lần nữa!
Thêm một kinh nghiệm nữa, ngày xưa ở Chơn Không có một thầy lớn tuổi, tu được ba năm thì cô bạn nói thầy sao lâu không về thăm nhà. Thầy quyết định tu chứ không về, thầy nói tôi tu cho đến chừng nào xong việc tôi mới về. Bữa nọ cô này viết một lá thư gửi lên nói thôi ông đừng về nhà nữa, tôi có người lo rồi, ông ở luôn lo tu đi. Sáng lại ông lên ông trình Hòa thượng xin về, nói là để độ cho cô!
Bởi vì chúng ta còn những hạt giống tham ái nên rất dễ bị rớt. Trong vô lượng kiếp chúng ta đã từng ngã gục. Ngày hôm nay chúng ta thức tỉnh nên vào chùa được túc duyên là chưa có gia đình, mà chưa có gia đình thì chúng ta phải thẳng bước. Là phải phát nguyện lớn: “Tôi sẽ không bao giờ ngắm nhìn người nữ.”
“Nhiều lần bị ngã gục đến chết mà không có ngày để thoát ra, phàm phu đắm chìm trong sắc dục cam chịu làm kẻ tôi tớ, cả đời rong ruổi theo sắc dục bị nó làm khổ lụy. Tuy bị dao bén chém vào thân, mũi tên ghim vào ngực, mà cam tâm nhận chịu chẳng cho đó là tai họa! Người điên cuồng chẳng cho rằng sự điên đảo của mình là điều lầm lỗi.”
Đừng nghĩ mình có gia đình rồi về nhà họ lấy dao chém mình. Mà là dao gì?
Ở Tịnh xá quê tôi có một thầy rất hảo tướng, tu cũng gần hai chục năm. Có một cô thương thầy, cô này nói năng rất ngọt ngào. Một thời gian thầy chịu không nổi nên hoàn tục. Thầy ở trong chùa từ nhỏ, ra đời không biết làm gì nên lên rừng đốn củi về hầm than bán. Hôm nào không có tiền thì người vợ, không phải lấy dao bén chém vào thân hay lấy mũi tên ghim vào ngực ông, dao đây là những lời chửi bới từ sáng tới tối. Ông chịu không nổi, chạy ra đường cố tình cho xe đụng. Xe đụng không chết mà bây giờ bị tàn tật! Đó là nỗi khổ của chúng sanh.
Cư sĩ nữ rất thích các vị Tăng, họ cung kính cúng dường. Bởi vì quý thầy có năng lực thù thắng, từ trường của quý thầy thanh tịnh. Cho nên phải rất cẩn thận, lời nói của người nữ mới đầu rất ngọt, rất cung kính. Nhưng mình tham đắm sắc dục rồi thì phải chịu những lời mắng nhiếc.
“Người tu hành nếu xa lìa được sắc đẹp và không còn tâm luyến ái nữa, chính là người đã phá tan gông cùm, thoát khỏi còng khóa, chán chê bệnh cuồng ác, lìa hẳn nơi họa si, đã được an ổn, lại thêm tốt lành, được ra khỏi lao ngục mãi mãi không còn bị hoạn nạn nữa.”
Thoát ra được rồi thì rất an ổn, thảnh thơi, tốt đẹp và hạnh phúc. Chịu khó ráng tu, chịu khó ở trong đạo năm mười năm, mình không thấy ra gì nhưng chừng ba chục tuổi đạo thì lời quý thầy nói ra phổ xuống đại chúng đều nghe, đều hấp thu được hết, vì quý thầy có năng lực lớn. Mình đi tu làm lợi ích rất nhiều, còn không đi tu được thì mưa cũng lo, gió bão gì cũng lo hết. Túc duyên mình lớn lắm nên mới được xuất gia học đạo.
4- Tôi sẽ luôn luôn trì tụng kinh Pháp Hoa cho đến khi tẩy sạch hết tất cả mọi chấp thủ.
5- Tôi sẽ luôn luôn đọc kinh điển Đại thừa để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Tức là luôn luôn coi những bộ kinh lớn, kinh Đại thừa. Đó là con thuyền lớn đưa chúng sanh qua biển khổ.
6- Tôi sẽ giảng kinh Hoa Nghiêm trên khắp nẻo đường đời.
7- Tôi sẽ không bao giờ nằm suốt cả cuộc đời bất kể ngày đêm.
Ngài phát nguyện ngồi suốt, không nằm.
8- Tôi sẽ không bao giờ não loạn người khác vì tự tôn vinh mình hay bị kiêu mạn.
Không bao giờ làm não loạn người khác, không bao giờ làm não loạn huynh đệ của mình.
9- Tôi sẽ không bao giờ thối tâm đại từ bi hướng về tất cả chúng sanh trong pháp giới mà sẽ nỗ lực phấn đấu vì sự cứu độ và lợi ích của tất cả chúng sanh.
Những lời phát nguyện trên, đọc qua cho biết để chúng ta phấn phát trên con đường tu.
“Người hỏi kinh phải biết thời, dè dặt vì nói phi thời.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghĩa là phải quán sát căn khí người trước, nên nghe pháp gì, nên học pháp gì.”
Chẳng hạn, đến nhà cư sĩ, họ nói pháp vô thường, quý thầy lại nói pháp vô ngã thì trật.
Trong kinh A-hàm, Tôn giả A-nan chỉ cho hai đệ tử, người làm thợ rèn thì tôn giả chỉ pháp quán bất tịnh, còn người giữ nghĩa địa thì chỉ pháp quán sổ tức. Tu một thời gian không có kết quả. Đến hỏi Phật, Phật dạy: “Người làm thợ rèn, suốt ngày thổi phì phụt, ông chỉ sổ tức thì mới đúng, còn người giữ nghĩa địa ông chỉ pháp quán bất tịnh mới phù hợp.” Ngài A-nan dạy lại, chỉ ba tháng họ chứng quả vị Tu-đà-hoàn.
Cho nên trước phải quán sát căn khí người, nên nghe pháp gì, học pháp gì. Những người sơ cơ mà bảo buông vọng tưởng, người ta buông sao được. Chẳng hạn, như người đó thích về con đường phước thiện thì mình nêu con đường phước thiện trước, cuối cùng thì chỉ phương pháp bố thí trong tinh thần ba-la-mật. Mới đầu, mình nói bố thí thì được sanh thiên người ta mới ham. Chứ mới học đạo mà nói bố thí phải ba-la-mật: không có người thí, không có người nhận thí và không có vật thí, cả ba đều tam luân không tịch; nghe vậy người ta hoảng. Đó là không biết căn cơ của người, chỉ như vậy người ta tu không được.
“Hoặc nhiều, chẳng được nói quá.”
Nói quá sức tưởng tượng, mình chưa đến mà nói quá sức của mình.
Thiền thoại có ghi:
Một năm, vào mùa nhập hạ an cư, Lưu Vương nhà Hậu Hán đời Ngũ Đại thỉnh một số vị Hòa thượng, trong đó có một vị Thiền sư nổi tiếng là Thiền sư Vân Môn đến Viện Linh Thọ trong cung vua để nhập hạ. Ai cũng thi nhau nói pháp cho cung tần mỹ nữ nghe, riêng Thiền sư Vân Môn im lặng tọa thiền suốt ngày. Quan trực điện thưa thỉnh pháp yếu nhưng Thiền sư vẫn im lặng. Vị quan đó chẳng những không giận lại càng thêm kính trọng Thiền sư. Ông ghi một bài thơ ở điện Bích Ngọc rằng:
Đại trí tu hành mới là thiền,
Thiền môn im lặng chẳng nên kiền.
Nói khéo muôn lời đâu bằng học,
Thua hẳn thiền môn chẳng lời huyền.
Nghĩa là dùng thân giáo. Một người đi vào cuộc đời này nếu dùng được thân giáo, chẳng hạn đến nhà Phật tử mình ngồi mà có chừng mực, có oai nghi, phép tắc thì lúc này quý thầy im lặng họ cũng cung kính. Còn ngồi tréo giò, rung chân mà nói pháp thì nó trật. Nếu không học thì rất dễ phạm.
Ở Thường Chiếu có một thầy ngồi tréo giò, Hòa thượng nói không được ngồi vậy. Hòa thượng đi xuống thầy đó quên, cũng lại ngồi tréo chân. Hòa thượng nhìn lần nữa thì vị thầy đó sáng hôm sau xuất chúng đi. Hồi xưa ở Thường Chiếu Hòa thượng khó lắm, chỉ hai lần mà không sửa là tự động xuất chúng.
Quý thầy có ngồi tréo giò rung đùi không? Nhiều khi ngày xưa, trong nhiều kiếp mình làm quan hoặc làm tướng quen rồi, hạt giống đó vẫn còn.
“Nếu bạch y chẳng tin Tam bảo, chẳng hướng lễ dưới chân, chẳng vui vẻ thấy chư Tăng, chẳng nguyện tạo phước, người phải quấy chớ vọng tuyên nói, phải tôn trọng pháp.”
Có những cư sĩ không tin Tam bảo, quý thầy bảo: “Vô đây tôi nói chuyện, nói Phật pháp cho nghe” thì họ càng khinh dễ Tam bảo.
Kinh Nghi Tắc dạy:
“Thuyết pháp không nhằm cơ, người nghe tâm chẳng tôn trọng, khi chết chịu khổ to.”
Người ta khinh dễ Tam bảo, khinh thường chư Tăng, chết đọa địa ngục là tại ông thầy không sáng mắt.
Kinh Đại Thừa nói:
“Hoặc có người thọ trì, đọc tụng, biên tả, diễn nói chẳng phải thời, chẳng phải chỗ, không ai thỉnh mà nói.”
Chẳng hạn quý thầy về một ngôi chùa vùng quê, người ta tha thiết cung thỉnh: “Bạch Thầy, con nhóm chúng lại, xin thầy nói nửa tiếng thôi.” Mới đầu quý thầy cứ từ chối đi. Trong luật có ghi, cư sĩ muốn nghe pháp phải ba lần thưa, bảy lần thỉnh, lúc này người ta tha thiết rồi thì mới nói, giống như nắng lâu ngày, mưa phổ xuống thì thấm hết.
Còn người ta không thỉnh gì hết, Quý thầy bảo: “Nhóm chúng lại, sắp bàn ghế lên tôi giảng.” Đó là ham thuyết pháp. Như vậy, người nghe không thâm nhập mà người thuyết pháp lại tổn, không được phước.
“Tức khinh tâm, khinh người, khen mình, đụng đâu nói đó, có hại cho Phật pháp, nhẫn đến khiến đa số người chết đọa trong địa ngục. Như thế là ông ác tri thức của chúng sanh vậy.”
Thuyết pháp mà người ta khinh thường Tam bảo, là ác tri thức chứ không phải thiện tri thức.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Bát-nhã, Lục Tổ dạy:
“Này thiện tri thức! Đời sau người được pháp của ta, đem pháp môn đốn giáo này đối với người đồng kiến, đồng hành, phát nguyện thọ trì như là thờ Phật, cố gắng tu thân không dám lui sụt thì quyết định vào quả vị Thánh. Nhưng phải truyền trao từ trước đến giờ, thành truyền trao phó, chớ không được giấu kín chánh pháp. Nếu không phải là hàng đồng kiến đồng hành, ở trong pháp môn khác thì không được truyền trao, e tổn người trước kia, cứu cánh vô ích, sợ người ngu không hiểu chê bai pháp môn này rồi trăm kiếp ngàn đời đoạn cái chủng tánh Phật.”
Nghe như thế, quý thầy nghĩ mình phải truyền trao chánh pháp không thôi kiếp sau mình dốt như Bàn-đặc nữa, hiểu như vậy là trật. Tổ nói người đồng kiến, đồng hành ở trong chánh pháp họ tha thiết về pháp môn đốn giáo, thì lúc này phải truyền trao chứ không được giấu kín. Phải là người đồng kiến, đồng hành, người ta hiểu được, thâm nhập được thì mới truyền.
Trong Đại Luật có ghi:
“Có năm hạng người hỏi pháp không nên nói.
1- Hỏi thử.
Tôi làm nhà khách, có những người đến họ nghinh nghinh nói: “Bạch thầy! Sắc tức thị không là gì?” Mình biết người này hỏi thử chứ không phải hỏi để tu học nên không trả lời.
2- Không nghi mà hỏi.
Không có nghi vấn gì mà hỏi là biết họ coi thử sức tu, sức học của mình như thế nào, thì phải im lặng không trả lời.
- Không vì mình dạy bảo chỗ phạm mà cố hỏi.
- Không phục lời nói của mình mà cố hỏi.
- Cật nạn cố hỏi đều chẳng có nên đáp.
Trong kinh A-hàm có ghi:
Một hôm có một Bà-la-môn đến hỏi Phật: “Thân này có ngã hay vô ngã?” Phật im lặng không đáp. Sau khi Bà-la-môn này đi rồi, Tôn giả A-nan hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn, Tại sao ngày xưa có những người đến hỏi Thế Tôn thân này có ngã hay vô ngã, Thế Tôn giải thích rất cặn kẽ rõ ràng, nay ông Bà-la-môn này cũng hỏi câu đó Thế Tôn lại im lặng?
Phật nói:
– Người này hỏi mà không có chiêm nghiệm, không có chiếu kiến, không có tu tập. Nếu Như Lai nói có ngã hoặc vô ngã họ đều chấp thủ, chính cái chấp thủ đó đánh mất đi tri kiến của họ, cho nên Như Lai không nói.
Cho nên nhiều trường hợp có người hỏi mà Phật không nói.
“Nếu người đó thật tình hảo tâm hỏi cho biết để làm lành lánh dữ, không có năm ý như trên, ta sẽ tùy cơ phương tiện sẵn lòng nói cho mà nghe. Hoặc mình chưa hiểu hay đối với pháp có chỗ nghi thì đừng có nói, sợ khiến cho người có cái hại lầm truyền, cả hai đều mắc tội.”
Những người đến hỏi để làm lành lánh dữ mà không có năm ý trên thì mình nói. Nhưng mình mới tu có năm, sáu năm gì đó, có những trường hợp họ hỏi mà mình nghi, chẳng hạn như: “Bạch thầy! Tại sao có những lúc Đức Phật bác nhân quả?” Tức là trên phương tiện Phật tánh thì vô nhân, vô quả. Nhiều khi mình chưa học qua hay chưa chứng nghiệm, thì mình nói thôi để tôi về tôi hỏi Hòa thượng, hỏi Thầy Trụ trì, chớ không phải đụng đâu nói đó. Mình nghi, chưa biết điều đó đúng hay sai mà cứ nói thì cả hai đều mắc tội.
Trong Thiền sư Trung Hoa Tập Một ghi:
Tổ Bá Trượng thuyết pháp xong, chúng giải tán hết rồi có ông già không chịu đi. Tổ hỏi:
– Tại sao không đi?
Ông nói:
– Con không phải là người thường. Ngày xưa ở chỗ này con làm trụ trì, có người đến hỏi: “Bậc đại tu hành có còn rơi vào nhân quả không? Con trả lời không, nên đọa làm chồn năm trăm kiếp.”
Có những con hồ ly sống rất lâu, mấy trăm, mấy ngàn năm, mà ở đây đọa năm trăm kiếp. Mình dịch bậc đại tu hành là bậc thầy lớn, không phải. Bậc đại tu hành là đã triệt chứng, tức là đã thấu thoát bản tâm, sống trong đó, chứng nghiệm trong đó rồi.
Lúc này Tổ Bá Trượng nói:
– Bây giờ ông hỏi ta đi, ta trả lời cho.
– Bạch Hòa thượng! Bậc đại tu hành có còn rơi vào nhân quả không?
Tổ nói:
– Bất muội nhân quả.
Vừa nghe xong ông được thoát kiếp chồn, tức là ngay thức mà chuyển thành trí huệ. Chuyển thành trí rồi thì siêu tam giới, thoát kiếp hồ ly, tức là chẳng có lầm.
Có chức có quyền mà chửi mắng người, hết chức quyền rồi người đến chửi mình. Vậy mình thấu thoát được nên mình lầm. Nghĩa là biết trong thời quá khứ mình tạo như thế nào, bây giờ phải chịu cái quả thế đấy. Quả đến mà không dấy niệm về tham, sân, si, tức là không lầm nhân quả. Thấu thoát được thì siêu thoát tam giới, ngay tức khắc là hồ ly thoát kiếp.
Thiền thoại có kể:
Thiền sư Thế Kỳ nghe tiếng ếch kêu ngộ đạo. Sau khi ngộ đạo được Hòa thượng đàng đầu, tức là Ngài Phật Nhãn chia phân nửa tòa giảng. Ngài nói: “Con không dám giảng, vì con thấy giảng pháp giống như lấy kim lể tròng con mắt vậy.”
Lể mà chệch đi một chút thì đui mắt người ta. Cho nên phải rất cẩn thận điều này.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Người mà đầy đủ tín tâm nói pháp thế gian tức là Phật pháp. Người chẳng tin mà nói Phật pháp tức thành pháp thế gian.”
Người đầy đủ tín tâm thì nghe thầy nói pháp gì cũng thành Phật pháp, nói pháp thế gian cũng thành Phật pháp.
Có người đến hỏi Thiền sư Động Sơn:
– Thế nào là Phật?
Ngài nói:
– Ba cân gai.
Ba cân gai là pháp thế gian, nhưng có đủ tín tâm thì tự nhiên người ta phát minh được tâm địa, là pháp xuất thế gian. Cho nên hỏi: “Thế nào là thiền?” hay “Thế nào là Phật?” Ngài nói “Ba cân gai” thì ngay tức khắc người ta ngộ. Ba cân gai là pháp thế gian, như vậy rõ ràng pháp thế gian tức là Phật pháp.
Còn người không tin thì nói Phật pháp đối với họ cũng thành pháp thế gian. Họ đã dồn nén cái nghi rồi thì quý thầy nói pháp hay cách mấy, vi diệu cách mấy họ cũng không ngộ.
Có một bà Ni đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
– Thế nào là ý thầm kín?
Thiền sư nhéo bà một cái, bà nói:
– Hòa thượng mà cũng còn cái ấy nữa.
Rõ ràng không? Pháp thế gian rồi! Bà Ni này không tin Phật pháp nhiều, nhéo bà một cái bà khởi niệm bậy liền. Ngay trong giờ phút đó, tôi nhéo bà một cái thì ai biết? Chính bà biết thì đó là ý thầm kín, tôi đâu có rõ được.
“Chẳng được cười nhiều.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Cười nhiều đều là do tán tâm phóng dật. Người xuất gia khi đến chỗ đàn việt cần phải hộ trì Tăng thể. Dẫu cho đàm luận về Phật pháp đến chỗ phấn khích phát cười cũng chẳng được có tiếng. Chẳng được cười nhiều, chẳng được cười si, cười cuồng và cười vô duyên.”
“Giả như việc làm vui nên tự trân trọng chớ khiến người khác chê bai. Như Lai vui cười mỉm ắt có phát khởi nhân duyên.”
Phật ngày xưa không mấy khi cười, mỗi lần ngài mỉm cười, hào quang phóng ra thì Tôn giả A-nan liền đứng lên hỏi nhân duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười, bởi vì bình thường Phật không cười.
Có mười nguyên nhân Đức Phật mỉm cười. kinh Hưng Khởi Hạnh quyển thượng có ghi:
* Nguyên nhân lần mỉm cười thứ nhất:
Trong thời Đức Phật có nạn Chiên-già (CinCa Manavika) vu khống Đức Phật. Một hôm, Phật đến kinh thành Savathi thuyết pháp, dân chúng theo tu học rất đông nên nhóm ngoại đạo Bà-la-môn tìm cách vu khống Đức Phật. Trong nhóm Bà-la-môn này có một cô gái rất đẹp tên Chiên-già, hằng ngày cô đến Tinh xá nghe pháp. Một thời gian sau, cô độn bụng to lên, khi Thế Tôn đang thuyết pháp, cô ta ra chửi:
– Cồ Đàm thuyết pháp rất hay, nói rất giỏi nhưng làm cái bụng tôi to như vầy mà không lo gì hết.
Đức Phật nói:
– Tôi biết, cô biết.
Đức Phật nói chỉ có tôi biết, cô biết thôi. Cái gì biết nữa? Nhân quả biết.
Do năng lực của Đức Phật, cái ghế của Trời Đế Thích ở cung trời thứ ba mươi ba tự nhiên nóng lên, ông biết ở thế gian có chuyện. Nhìn xuống biết chuyện gì rồi, ông quyết định can thiệp. Ông giả làm con chuột leo lên mình Chiên-già cắn sợi dây, một khúc gỗ tròn từ trong người cô rớt xuống. Trong lúc tăng chúng và cư sĩ nhốn nháo thì Phật mỉm cười. Tôn giả A-nan hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn, tại sao Thế Tôn cười?
Đức Phật nói:
– Không có cái gì mà không có nhân, không có quả. Vào thời quá khứ xa xưa trong thành Ba-la-nại này có một diễn viên sân khấu tên là Tịnh Nhãn và một dâm nữ tên là Lộc Tướng. Dâm nữ Lộc Tướng này rất đẹp, một hôm Tịnh Nhãn dắt nàng vào rừng vui chơi. Vui chơi xong, y khởi tâm giết Lộc Tướng lấy y phục rồi chôn trong vườn, chỗ của vị Bích Chi Phật tên là Lạc Vô Vi. Vua Phạm Đạt cho lính lùng sục tìm thấy xác Lộc Tướng bèn trói vị Bích Chi Phật lại định chém đầu. Tịnh Nhãn hối hận xin chịu tội chết, sau đó đọa vô lượng cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Đọa hết những cảnh giới đó rồi thì Tịnh Nhãn thức tỉnh phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn làm các việc thiện pháp.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
– Này ông Xá Lợi Phất! Thầy có biết Tịnh Nhãn bây giờ là ai chăng? Chính là ta ngày nay vậy. Lộc Tướng là Chiên-già, vua Phạm Đạt là trách trượng dòng họ Thích bị nung nóng trong địa ngục vô số ngàn năm.
Tức là trải qua địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, bây giờ còn một chút dư báo. Phật đã thành tựu quả vị giác ngộ cuối cùng rồi mà cũng bị dư báo đó, cho nên bây giờ Chiên-già đến vu khống. Mà chỉ có Phật biết thôi, chiếu kiến lại trong vô lượng kiếp Phật thấy như vậy, nên Phật mới mỉm cười.
Bây giờ, bị ai chửi mắng chiếu kiến không được, vậy mình nhờ cái gì? Thường thường mình học kinh tức là nhờ lời kinh, lời Phật dạy. Theo tinh thần của nhà Phật cái gì cũng có nhân, có duyên. Chẳng hạn, trên đoạn đường đó có những người họ thương, mến, họ cúng dường cho mình thì biết là nhiều đời nhiều kiếp mình đã từng với người này là cha, là mẹ, là anh, là em. Còn người nào gặp mặt mình họ không ưa, là biết ngày xưa mình tạo cái gì đó khiến họ thù hận, thì bây giờ mình tìm cách chuyển hóa. Chuyển hóa như thế nào? Có cuốn sách hoặc cái gì đó mình cho, mình cúng dường, lần lần sẽ bớt. Rồi tìm cách tránh duyên, tìm cách sám hối. Hoặc mình bạo gan đắp y đến đảnh lễ: “Thưa thầy, con có làm gì không mà thầy như vậy, như vậy… Thôi từ đây sắp lên con với thầy xóa bỏ hận thù.”
* Nguyên nhân lần mỉm cười thứ hai:
Một lần, Đức Phật bị cái nạn là tập thể của ngài bị phỉ báng. Kinh A-hàm kể:
Bà-la-môn bị mất tín đồ nhiều quá nên tìm cách hại Phật. Có cô gái tình nguyện chiều nào cũng đến Tinh xá, một thời gian thì nhóm Bà-la-môn giết cô, chôn trong tu viện rồi vu khống cho tăng đoàn của Đức Phật.
Phật mỉm cười kể, trong thời Phật Tỳ-bà-thi, ngài là một Phạm Chí có năm trăm đệ tử thường được một bà trưởng giả cúng dường. Sau đó một vị Phật Độc Giác đến hiển lộ thần thông, người trong nước đua nhau cúng dường, bà tín thí tức là bà trưởng giả cũng bớt cúng dường vị Phạm Chí. Vị Phạm Chí này và năm trăm đệ tử bực tức nên nói bà và vị Phật Độc Giác này đã làm hạnh bất tịnh.
Vì vu khống bà trưởng giả Tịnh Âm và vị Phật Độc Giác, vị Phạm Chí và năm trăm đệ tử sau khi từ giã cõi đời đọa vô số cảnh giới địa ngục. Năm trăm đệ tử này không ai khác hơn là năm trăm vị A-la-hán, vị Phạm Chí ngày xưa chính là Đức Phật ngày hôm nay. Vì còn lại dư báo cho nên bây giờ bị vu khống.
Quý thầy thấy không? Thành tựu quả vị Phật rồi cũng bị.
* Nguyên nhân lần mỉm cười thứ ba:
Đức Phật mỉm cười về nạn nhức đầu. Quý thầy đọc biết rồi phải không? Thời quá khứ Phật gõ vào đầu con cá, là vua Lưu Ly ngày nay, nên Phật bị nhức đầu.
* Nguyên nhân lần mỉm cười thứ tư:
Lần thứ tư Phật mỉm cười về nhân duyên các khớp xương bị đau nhức. Đức Phật bị đau nhức khớp, Tôn giả A-nan hỏi thì Phật mỉm cười, Phật nói trong vô lượng kiếp xa xưa, một vị trưởng giả trong thành La Diệc Kỳ có người con bị bệnh sắp chết, lúc đó Phật là một vị thầy thuốc rất giỏi được mời đến. Ông trưởng giả hứa sẽ trả ơn xứng đáng nếu con ông hết bệnh. Ba lần trị bệnh cho con ông trưởng giả đều không được trả ơn như đã hứa. Lần thứ tư được mời đến, vị thầy thuốc bực tức nên bỏ thuốc độc cho người con chết.
Phật nói vị thầy thuốc thuở xưa chính là Như Lai, con của ông trưởng giả chính là Đề-bà-đạt-đa. Do nhân duyên đó, nên dù thành tựu quả vị tối thượng nhưng các khớp xương của ngài cũng bị đau nhức.
Quý thầy mà hay bị đau mắt, đau lưng, đau khớp… chắc ngày xưa cũng làm cái gì đó. Mình biết Phật pháp rồi nên thấy rất an ổn, không có chuyện gì lạ hết.
* Nguyên nhân lần mỉm cười thứ năm:
Phật mỉm cười về nhân duyên đời trước của việc đau lưng. Một hôm Phật bị đau lưng, Phật nằm xuống mỉm cười. Phật kể vào thời quá khứ có lực sĩ Bà-la-môn và lực sĩ Sát-đế-lợi đánh vật. Lực sĩ Bà-la-môn yếu hơn nên hứa sẽ trả ơn nếu như lực sĩ Sát-đế-lợi giả bộ làm cho hai bên huề nhau để mình khỏi mất mặt. Hứa trả ơn ba lần mà không thực hiện, lực sĩ Bà-la-môn bị lực sĩ Sát-đế-lợi tức giận siết gãy xương sống đến chết. Lực sĩ Bà-la-môn cũng là Đề-bà-đạt-đa, lực sĩ Sát-đế-lợi chính là Đức Thế Tôn. Dư báo còn lại nên ngài hay đau lưng, và có nhân duyên gặp lại Đề-bà-đạt-đa.
* Nguyên nhân lần mỉm cười thứ sáu:
Phật mỉm cười nhân duyên ăn lúa ngựa ba tháng. Lúc đó ngài là Phạm Chí, ngài ganh ghét và thốt ra lời thô ác với một vị ẩn sĩ: “Ông này mà tu gì, ăn lúa ngựa thì có.” Do lời nói thô ác đó nên Phật và các đệ tử có nhân duyên ăn lúa ngựa ba tháng.
Cho nên khi Phật mỉm cười đều có nhân duyên. Xem trong những bộ kinh thấy Phật bị nạn này nạn kia đều có nguyên nhân, đều do ngày xưa tiền thân ngài đã tạo.
“Chủ nhơn đãi bữa tuy không phải nơi Pháp hội nhưng đừng sai phép tắc.”
Cư sĩ thỉnh quý thầy ba bốn người đến nhà thì quý thầy cũng phải tụng kinh, phải đánh khánh, gõ mõ. Nếu không có khánh thì gõ mõ, lúc này quý thầy phải tụng: “Cúng dường thanh tịnh pháp thân Tỳ-lô-giá-na…”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Thí chủ thành tâm cúng dường chẳng luận lớn nhỏ đều là phước điền, nếu mất nghi quĩ thì tổn hại tín thí kia. Song đến chỗ đạo nhơn tức là Pháp hội, chủ nhơn tín tâm tức là đạo tràng, chỗ thí đã tín, thọ cúng nên thành.”
Quý thầy đến nhà cư sĩ thì dầu cho lễ cúng đó nhỏ cũng phải làm nghi quĩ tụng, nếu không thì tín thí không có phước.
Bộ Hành Hộ nói:
“Vào nhà thế tục khi đứng, khi ngồi phải đủ oai nghi, nói lời từ thiện chẳng được thô kệch. Chớ nói chuyện thế gian, phải nói pháp ngữ, tăng trưởng thiện tâm. Thường nhiếp sáu căn chẳng khiến phóng dật.”
Đến nhà cư sĩ nếu không thu thúc sáu căn thì dễ nói những chuyện thế gian, chẳng hạn quý thầy hỏi “Bữa nay vàng nhiêu rồi?” Đó là nói lời thô kệch và nói chuyện thế gian. Phật tử họ nhạy lắm, họ sẽ khinh dễ.
Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Búng Ngón Tay, Phật dạy:
“Ta không thấy một pháp nào khác. Này các Tỷ-kheo! Do pháp ấy các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận. Này các Tỷ-kheo! Như phóng dật với người phóng dật. Này các Tỷ-kheo! Các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.”
Chúng ta đến nhà cư sĩ, nếu không nhiếp phục sáu căn, nếu phóng dật, thì Phật dạy là: “Ta không thấy một pháp nào khác. Này các Tỷ-kheo! Do pháp ấy các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi.” Nghĩa là lúc này pháp ác sanh khởi và tăng trưởng, không được các thiện pháp.
“Ta không thấy một pháp nào khác. Này các Tỷ-kheo! Do pháp ấy các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận. Này các Tỷ-kheo! Như không phóng dật với người không phóng dật. Này các Tỷ-kheo! Các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi và các pháp bất thiện đã sanh bị đoạn tận.”
Đến nhà cư sĩ mình nói những lời thiện pháp, những lời pháp ngữ thì tăng trưởng thiện tâm của tín thí. Lúc này mình cũng được nhiếp sáu căn, tâm không phóng dật thì pháp thiện tăng trưởng và pháp ác được đoạn tận.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm Phật dạy Tôn giả A-na-luật:
– Tất cả các pháp do ăn mà tồn tại, không ăn thì không tồn tại. Mắt lấy ngủ nghỉ làm thức ăn, tai lấy âm thanh làm thức ăn, mũi lấy mùi thơm làm thức ăn, lưỡi lấy vị làm thức ăn, thân lấy sự trơn láng làm thức ăn, ý lấy pháp làm thức ăn. Nay ta nói Niết-bàn cũng có thức ăn.
A-na-luật bạch Phật:
– Niết-bàn lấy gì làm thức ăn?
Phật bảo A-na-luật:
– Niết-bàn lấy sự không phóng dật làm thức ăn, nương vào không phóng dật đến được chỗ vô vi Niết-bàn tịch tĩnh.
Muốn chứng nhập vào Niết-bàn, chứng nhập vào con đường Vô thượng giác thì phải không phóng dật. Nghĩa là mình phải học oai nghi. Mà không phóng dật, học oai nghi phép tắc rồi thì gần với Niết-bàn. Lấy không phóng dật làm thức ăn, đó là cảnh giới Niết-bàn.
“Không được phép đi đêm.”
Tổ dạy không được phép đi đêm. Hòa thượng hay Thầy trụ trì không cho đi đêm. Trong luật cũng dạy không đi đêm. Tại sao?
Sa Di Học Xứ ghi:
“Ra thì chẳng nên sớm. Vào thì chẳng nên tối. Như mặt trời mọc mà đi, mặt trời lặn mà về thì không có họa hoạn. Người tu đạo, thanh thiên bạch nhật, chánh đại quang minh mà đi còn bị người kiểm điểm hà huống ban đêm mà đi ư?”
Ban đêm đi, người ta nghi liền, chắc ông này đi uống cà phê, đi bia ôm hay là đi gì đó. Là người tu đạo, thanh thiên bạch nhật, chánh đại quang minh mà đi còn bị người ta thị phi nữa hà huống mà quý thầy đi ban đêm.
Vào thời Đức Phật, Tôn giả Ca-lưu-đà-di ban đêm ông đi ra đường. Người phụ nữ mang thai thấy tưởng là ma la lên thì sẩy thai, nên Phật cấm không được đi đêm. Quý thầy ra Nha Trang ban đêm mà đi dạo bãi biển thì bị nhóm kiểm Tăng bắt nhốt trong Tỉnh hội. Nhốt lại rồi hỏi tu ở đâu, chùa nào, họ điện cho Bổn sư đến nhận, còn không thì nhốt quý thầy luôn.
“Chẳng được trong nhà vắng hoặc chỗ khuất cùng nữ nhơn chung ngồi nói chuyện.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Chẳng phải chỗ, chẳng phải người thì chẳng nên nói huống nữa ngồi ư? Ngồi thì phạm lỗi như: Thứ nhất là sợ tiêm nhiễm tình sanh, thứ hai là khiến người khác chê cười.”
Thí dụ, người chị ruột mà quý thầy không đưa lên nhà khách, lại dắt xuống bụi tre ngồi nói chuyện là phá kiến chúng sanh, người ta đâu biết chị ruột mình. Hà huống chi người đó là bạn mình, bạn học cũng không được, bởi vì sao? Lâu ngày chầy tháng tự nhiên nó tiêm nhiễm.
Trong Kinh Tăng Nhất A-hàm ghi:
“Một thời Đức Phật ở trong vườn Kỳ Đà ông Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Người nữ thành tựu chín pháp để trói buộc người nam. Những gì là chín:
– Thứ nhất là ca.
Mình phải tránh trường hợp này, không được đi xem múa, ca, kịch, nghe đĩa hay băng, lâu ngày thì cũng bị nhiễm.
– Thứ hai là múa.
– Thứ ba là kịch.
– Thứ bốn là nhạc.
– Thứ năm là cười.
Xuống chỗ khuất với người nữ mà họ cười mỉm chi, bảo đảm tối lại quý thầy ngồi thiền là nhớ.
– Thứ sáu là khóc.
Người nữ khóc rất nguy hiểm, mười cười không bằng một khóc, họ nhõng nhẽo họ khóc là chết luôn! Bủn rủn hết tay chân. Lúc này quý thầy bị gì? Bị hấp tinh đại pháp nó hút hồn. Sức mạnh người nữ là tiếng khóc. Quý thầy thấy khóc là phải chạy ngay, chứ đừng bao giờ ở gần! Quý thầy ra làm Phật sự mới thấy.
– Thứ bảy là trau chuốt nghi dung.
– Thứ tám là huyễn thuật mê hoặc.
– Thứ chín là nhan sắc thể hình.
– Thứ mười là xúc.
Trong tất cả hình thức ấy chỉ có xúc là trói chặt nhất, gấp trăm ngàn lần không có gì để mà so sánh.”
Tức là xúc chạm, nó trói chặt mình nhất, dù người đó xấu như ma, là xú nữ đi nữa. Trong kinh Phật kể chuyện, người rất xấu nhưng ông vua khi xúc chạm xúc trần rồi ông thấy giống như thiên nữ vậy, cho nên cung tần mỹ nữ, hoàng hậu ông bỏ hết, chỉ lấy cô gái này thôi, trong Kinh Phước Thiện quý thầy coi đó.
Nhưng ở đâu dễ bị xúc nhất? Ở chỗ khuất mà mình cùng nữ nhơn nói chuyện. Bữa nào đang nói họ nắm tay, nhất là quý thầy mới lớn, mười mấy tuổi vào chùa tu. Họ nắm tay là quý thầy giống như bị điện giật vậy. Điện đó còn hơn điện ba pha, nó giật một cái là hết tu luôn! Cho nên Phật cấm chẳng được trong nhà vắng hoặc chỗ khuất mà cùng nữ nhơn chung ngồi nói chuyện. Mình phải nói chuyện ở chỗ đông người.
“Ở đây ta thấy ý nghĩa này: Xúc trói người chặt nhất không cho thoát khỏi, đó là sợi dây buộc chặt người nam vào người nữ, cho nên Tỳ-kheo hãy niệm tưởng xả bỏ mười pháp này. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy hoan hỉ phụng hành.”
Xúc chạm là trói liền. Uất-đầu-lam-phất đã chứng ngũ thông, mỗi lần đi khất thực ông đều phi hành. Bữa nọ ông được một cô gái cúng dường, cô cung kính lạy ôm hai chân ông. Nhận cúng dường xong, ông phi lên nhưng rớt xuống. Chứng ngũ thông rồi mà còn như vậy. Xúc chạm là rớt ngũ thông liền. Chừng nào chứng lậu tận thông rồi thì xúc chạm không thành vấn đề.
Trong sử có ghi: Sau khi Đức Phật thành tựu quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Gia-du-đà-la làm một trăm viên hoàn đơn cho Đức Phật uống, Đức Phật sẵn sàng thọ nhận. Đức Phật nói trong thời ngài làm tiên nhân cũng vậy, cũng có cái duyên, cái nghiệp với Gia-du-đà-la.Lúc về thành, chỉ mới chứng ngũ thông nên uống một trăm hoàn đơn ngài bị rớt. Nhưng bây giờ Như Lai đã lậu tận thông, dứt hết mầm mống của tham ái, của ái dục rồi nên không dính dáng gì hết.
Bên Tiên đạo ngày xưa có một người đến đây tu, họ kể: Có một cô tu hành rất miên mật, chứng đắc về cảnh giới thiền định sâu sắc. Một hôm cô về thăm gia đình, gặp lại người bạn mà ngày xưa hai người từng yêu nhau. Cô vừa dấy niệm dục liền bị thúi não, ba ngày sau cô chết. Vậy là biết tại sao tu Tiên, họ không dám xuống đồng bằng, chỉ tu trên núi thôi.
Quý thầy mà dấy niệm, tối bị sao thì tự biết. Nhà Phật là tu về tâm, kiểm soát về tâm, bị xúc trần dính mắc rồi thì bảo đảm tu không được. Cho nên nói không được gần người nữ, không được cùng người nữ nói chuyện mà phải xa lánh.
Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển 31 ghi, các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
– Ương-quật-ma-la vốn tạo công đức gì mà ngày nay được rất là thông minh trí huệ, mặt mày xinh đẹp hiếm có trên đời? Lại tạo hành vi bất thiện gì mà trên thân hiện nay sát hại chúng sanh vô số kể? Lại tạo công đức gì mà ngày nay gặp được Như Lai đắc quả vị A-la-hán?”
Phật kể:
Vào thời quá khứ có một vị Phật ra đời tên là Ca-diếp. Lúc này trong kinh thành đó có một vị vua tên là Đại Quả, sau sanh ra một người con rất đẹp, dũng mãnh đặt tên là Đại Lực. Đại Lực không thích năm dục, nên vua đặt tên là Thanh Tịnh. Một hôm vua phán rằng ai có thể làm cho thái tử Thanh Tịnh ưa thích năm dục thì ông sẽ thưởng ngàn vàng và các vật báu.
Bấy giờ có một người nữ tên là Dâm Chủng hiểu rõ sáu mươi bốn pháp biến hóa, ngay đêm đó vào đúng canh hai dâm nữ ở cạnh cửa phòng thái tử giả bộ cất lên tiếng khóc, đó là pháp thứ nhất.
Cô đưa cái chiêu thứ nhất là khóc. Trên tôi có nói tiếng khóc người nữ rất là nguy hiểm, sau này quý thầy làm Phật sự rồi mới thấy. Chẳng hạn họ cúng dường chiếc xe Honda, quý thầy cũng nhận, nhận mà không đi vì quý thầy đã có xe rồi. Họ đến, nói con thương thầy, kính thầy lắm con cúng dường mà sao thầy không đi, rồi họ khóc, mà người nam thì hay chịu ngọt…
Thái tử hỏi tiếng khóc của ai, người hầu cận nói là tiếng khóc của dâm nữ, thái tử nói thôi vào chuồng voi mà ngủ, người nữ này không chịu, bảo vào chuồng ngựa cũng không chịu, cô nói: “Thưa thái tử, người nữ một mình yếu đuối, sợ hãi lắm nên tôi khóc.” Thái tử nói: “Thôi, lên giường ta thì không còn sợ nữa.” Lên giường rồi thì lúc này người nữ không đáp cũng không còn khóc, rồi thì người nữ liền cởi y phục tới trước nắm tay thái tử đặt lên ngực mình. Cảm giác kinh sợ chỉ trong chốc lát, từ từ khởi dục tưởng, dục tâm đã khởi thì thân đến nhau.
Bị xúc trần rồi thì bao nhiêu tịnh hạnh gìn giữ từ trước bây giờ chết hết.
Sau đó thái tử đến xin vua cha ban lệnh là những cô gái chưa chồng, trước khi về nhà chồng phải đến với thái tử trước.
Thanh tịnh mà bị xúc trần rồi thì khởi bao nhiêu việc ác.
Thái tử sống như thế một thời gian, dân chúng chịu không nổi nên nổi loạn sắm vũ khí đòi giết thái tử. Trước khi chết thái tử Thanh Tịnh phát lời nguyện: “Những người dân này bắt ta giết, nhưng vua cha đã tự cho ta nguyện này, nay ta chịu chết cũng không dám từ, đời tương lai ta sẽ báo oán này và mong gặp Phật để sớm được quả giải thoát.”
Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất:
“Ông biết những người này là ai không? Vua Đại Quả thuở xưa là thầy của Ương-quật-ma-la hiện nay, dâm nữ lúc ấy là vợ của người thầy, còn thái tử Thanh Tịnh lúc ấy nay chính là Tỳ-kheo Ương-quật-ma-la.”
Bị xúc trần là bao nhiêu thiện pháp mất hết, nên phải cẩn thận.
Trong kinh Tam Chi Đề, Phật dạy:
Một hôm, có thầy Tỳ-kheo rất trẻ tắm dưới sông, một vị Thiên nữ hỏi:
– Ngài còn rất trẻ, tại sao không hưởng ngũ dục mà vào con đường Thánh pháp của Đức Phật?
Vị Tỳ-kheo đáp:
– Trong cái vui phi thời của ái dục, vị ngọt thì rất ít mà chất cay đắng thì rất nhiều, cái lợi rất bé mà tai họa thì rất lớn. Ai đang an trú trong thiện pháp, lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy, thiện pháp này vượt thoát thời gian, đến để mà thấy, có tác dụng đưa chúng ta đi lên và tự mình mỗi người có thể hiểu được và thông đạt được.
Trước có một thầy, bây giờ đã xuất chúng, ngồi buồn hỏi một thầy đã từng có gia đình: “Ngày xưa thầy có con, thầy thấy vui không? Chiều lại thầy dắt con đi chơi có vui không?” Tôi chỉnh liền, tôi nói ông mà khởi niệm đó là ông khó tu lắm.
Cho nên ở đây nói trong cái vui phi thời của ái dục, vị ngọt thì rất ít mà chất cay đắng thì rất nhiều. Chẳng hạn mình có vợ, có chồng, có con có cái thì cũng vui, cũng có hạnh phúc, nhưng Phật nói cái hạnh phúc phi thời của ái dục là hạnh phúc của khổ đau. Mình học cho biết để tránh.
Tụng kinh, sám hối, ngồi thiền, đó là vị ngọt của Thánh pháp. Tu một hai năm chưa thấy gì nhưng chừng mười năm mà chịu khó công phu thì bỏ một buổi ngồi thiền là chịu không nổi. Chiều lên ngồi thiền tự nhiên có một cái vị ngọt, đó là vị ngọt của Thánh pháp. Hôm nào bỏ ngồi thiền mình cảm thấy mất mát, thấy thiếu cái gì đó là lúc này quý thầy tu khá.
Nghe câu chuyện này, Đức Phật nói một bài kệ cho Thiên nữ:
Không thấy rõ ái dục,
Mới vướng vào ái dục.
Ảo tưởng về ái dục,
Đưa người về nẻo chết.
Thấy chân tướng ái dục,
Tâm ái dục không sanh.
Tâm ái dục không sanh,
Ai cám dỗ được mình.
Trong các chùa, các thiền viện, chẳng hạn như Thiền viện Thường Chiếu, lâu lâu Thầy cũng cho một số quý thầy nhỏ đi tham quan cho biết chỗ này, chỗ kia. Biết cái gì? Biết sự thống khổ của ái dục, chẳng hạn như vợ chồng, con cái, cuộc sống, môi trường gì đó phải biết. Mình ngồi tu như vầy cũng tốt nhưng nhiều cái mình cũng tưởng tượng. Hôm nào có dịp đi ngang qua một căn nhà nào đó quý thầy nghe cãi lộn, đánh lộn u đầu chảy máu gì đó thì cũng hay. Mình chứng nghiệm về pháp sống, mình thấy rõ chân tướng của ái dục là khổ. Thấy được chân tướng đó rồi thì tâm ái dục không sanh, tâm ái dục không sanh thì không ai cám dỗ được mình hết.
“Chẳng được thư từ qua lại.”
Phật dạy không được viết thư cho tín thí. Thiền sư Triệu Châu trụ trì hơn bốn mươi năm, sư chưa từng biên một lá thư cho thí chủ. Còn ba bốn tháng hay một năm mình biên thư cho thí chủ là mình biết mình rồi đó, phải kiểm điểm lại. Người xưa tu hành rất là miên mật, miên mật thì các ngài mới chứng ngộ được chân lý.
“Hoặc về nhà thăm cha mẹ, trước phải vào trong nhà lễ Phật, hoặc tượng Thánh trong nhà cũng vững mình bái xá, kế chào cha mẹ, bà con rồi mỗi mỗi hỏi thăm.”
Theo tinh thần nhà thiền, tu một năm đến ba năm có duyên sự thì mình về thăm nhà. Trước khi vào thăm cha mẹ thì phải lễ Phật, tượng Thánh.
Sa Di Học Xứ ghi, sở dĩ có cái nghi thức này là do Phật dạy:
“Ân nặng ở thế gian chẳng quá ân cha mẹ. Giả như có người vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ cho đến trên vai đại tiểu tiện, khạc nhổ đàm dãi trọn trăm ngàn năm còn chẳng có báo ân. Các ông cần phải hiếu kính cha mẹ nên có cái nghi này.”
Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư có nói, trong bốn ơn, thứ nhất là ơn Cha mẹ, trước cả ơn Thầy Tổ, ơn Đàn-na, ơn Tổ quốc. Người tu Phật, biết ơn phải đền ơn, nhưng theo tinh thần nhà Phật, đền ơn không phải là cung phụng món ngon vật lạ.
Thiền sử có ghi, người trả ơn cho cha mẹ, được gọi đại hiếu là Thiền sư Hoàng Bá:
Ngài Hoàng Bá đi xuất gia ba mươi năm chưa về thăm gia đình. Người mẹ thương nhớ con khóc đến mù mắt. Muốn tìm lại đứa con, bà mở một quán trà để đãi khách Tăng thập phương. Bà còn phát nguyện rửa chân cho chư Tăng hành cước, với mong mỏi nhận ra con mình, vì một bàn chân của Thiền sư Hoàng Bá có một vết sẹo rất lớn.
Một hôm trên đường về quê, Thiền sư Hoàng Bá nghe tin mẹ mình mở quán trà, bà lại bị mù mắt, ngài ghé vào quán trà của mẹ. Sau khi uống trà, Thiền sư để mẹ rửa chân nhưng chỉ đưa bàn chân không có sẹo cho mẹ rửa. Trong lúc bà rửa chân, muốn đền ơn sanh thành dưỡng dục của người mẹ nên ngài kể về công hạnh của Đức Phật Thích-ca, nghe xong bà phát tín tâm. Khi Thiền sư Hoàng Bá vừa đi, có người nói cho bà biết vị Hòa thượng hồi nãy là con của bà, bà lật đật chạy rượt theo, đến bến đò bà rớt xuống sông chết đuối.
Nghe tin mẹ chết đuối, ngài quay lại vớt xác mẹ lên. Khi chuẩn bị làm lễ hỏa táng, ngài dộng tích trượng xuống ngài nói: “Chư Phật đã từng nói một người xuất gia chín họ được thăng thiên, nếu lời này không hư dối thì ứng hiện điềm lành.” Quả nhiên, tất cả mọi người thấy hình ảnh của mẹ ngài bay lên hư không.
Rồi ngài đọc bài kệ:
Mẹ tôi kiếp trước mê tự tâm,
Hôm nay hoa nở Bồ-đề tâm.
Sau này tam hội nếu gặp lại,
Qui mạng Đại Bi Quán Thế Âm.
Có nghĩa là Thiền sư Hoàng Bá đã trả hiếu, gọi là đại hiếu, bởi vì trong kinh nói có ba cái hiếu: Tiểu hiếu, trung hiếu và đại hiếu.
– Tiểu hiếu: Cung phụng món ngon vật lạ cho cha mẹ. Nếu không đủ duyên xuất gia thì mình có vợ, có con, nuôi nấng cung phụng món ngon vật lạ cho cha mẹ ăn, đó gọi là tiểu hiếu.
– Trung hiếu: Là làm cho Tổ tông được rạng rỡ, tức là làm vua, làm quan hay là làm tướng gọi là trung hiếu.
– Đại hiếu: Là độ chúng sanh được siêu thăng. Thiền sư Hoàng Bá độ cho người mẹ được siêu thăng, gọi là đại hiếu.
Đừng nghĩ rằng cha mẹ mình không phải là chúng sanh, mà cha mẹ, anh em, chị em mình đều là chúng sanh hết. Cho nên quý thầy nếu đủ duyên, về nhà mình phải khuyến khích cha mẹ quy y Tam bảo, được biết Phật pháp. Có điều kiện thì quý thầy gởi sách, gởi băng của Hòa thượng về cho gia đình nghe học. Trong kinh, Phật nói làm thế nào để khuyến khích cha mẹ được quy y Tam bảo, đó gọi là người con có hiếu. Hòa thượng Trúc Lâm nói, về thăm nhà mà không có năng lực gì khuyến khích cha mẹ hết thì cũng bỏ không. Cho nên phải ráng tu để hóa độ cha mẹ, hay tất cả người thân của mình, đó gọi là đại hiếu.
“Chẳng được về nhà cha mẹ nói phép thầy nghiêm khắc, xuất gia khó khăn, đạm bạc, quạnh hiu, nghèo ngặt, khổ cực các việc. Phải vì cha mẹ nói việc Phật pháp cho cha mẹ sanh lòng tin, thêm lớn phước.”
Chẳng hạn, thầy Tri sự cắt công tác cho mình, xuống nhà bếp chẻ củi, nấu cơm, gánh nước gì đó, rồi ăn uống nhiều khi khó khăn đạm bạc, về nhà mình kể. Rồi nói, Hòa thượng hay là thầy Trụ trì hoặc thầy trưởng liêu,… khó khăn với con lắm. Cha mẹ vì thương con nên nổi sân, mà nổi sân thì đọa ba đường ác. Đây là người con bất hiếu.
Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư nói:
“Nói phép thầy nghiêm khắc, khổ cực các việc, tức là khiến cho cha mẹ đối với ngôi Tam bảo không sanh tâm kính mến nên nhiều kiếp chìm đắm trong biển khổ, ấy là con bất hiếu.”
Về nhà, mình nói ông thầy này khó khăn lắm, ngồi thiền ngủ gục cũng đánh. Xuống nhà bếp, thầy tri khố nói nặng nói nhẹ gì đó, thì cha mẹ đối với ngôi Tam bảo là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo tự nhiên khởi tâm sân thì chìm đắm trong biển khổ. Cho nên phải nói sao để cha mẹ có tâm kính mến, kính tín đối với ngôi Tam bảo thì tức khắc được thiện pháp. Từ cái thiện pháp gieo trong tàng thức, lúc chết được sanh về cảnh giới lành, cảnh giới an ổn.
Trong kinh Phật khẳng định: “Một người con xuất gia, chín dòng họ sanh thiên”. Tôi để ý, trong gia đình, thường thì cha mẹ thương người con xuất gia hơn. Lúc cận tử nghiệp, tâm tham ái họ hướng đến người con xuất gia, hình ảnh một vị Tăng, ca-sa, bình bát xuất hiện thì tức khắc tái sanh về thiện cảnh.
Kinh Pháp Cú Thí Dụ có kể:
Có vị tín thí, cúng dường y ca-sa cho một vị Tăng. Bà lúc nào cũng nhớ pháp cúng dường này cho nên tâm niệm bà rất sung mãn. Nhưng khi gần chết, cận tử nghiệp đến bà nổi tâm sân hận, vừa nổi tâm sân hận bà thấy hỏa ngục hiện ra liền. Trong giờ phút đó, bà nhớ lại hình ảnh bà cúng cái y vàng cho vị Tỳ-kheo, tức khắc lửa phụt tắt, cái y vàng xuất hiện đưa bà lên cảnh giới cung trời Đao Lợi.
Cho nên nói, một người con xuất gia chín họ thăng thiên là có lý. Chín họ thăng thiên ở đây có một ý nữa, chẳng hạn, đi xuất gia, mình đủ duyên, gửi kinh sách về cho gia đình xem thì họ tu được chuyển hóa. Có những người ngày xưa cha mẹ, anh em chưa biết đạo, nhưng khi phát tâm xuất gia thì cả nhà, ai cũng biết Phật pháp hết.
Kinh Hoa Nghiêm Phật dạy:
“Tín là nguồn của đạo, là mẹ của các công đức, hay nuôi lớn tất cả các căn lành.”
Tín ở đây là tin về Phật, tin về Pháp, tin về Tăng, đó là mẹ của các công đức, hay nuôi lớn trưởng dưỡng tất cả các căn lành.
Mình chỉ nhớ Mục-kiền-liên là bậc đại hiếu, mà quên một người, đó là Tôn giả Xá-lợi-phất. Tôn giả Xá-lợi-phất biết mẹ mình là ngoại đạo Bà-la-môn, thờ Phạm Chí mà không tin tưởng về Phật, không tin tưởng về Pháp, không tin tưởng về Tăng. Lúc này Tôn giả Xá-lợi-phất đã chứng quả vị A-la-hán, ngài quán kiếp trước, kiếp hiện tại, kiếp vị lai để biết xem người nào có thể độ cho mẹ mình. Ngài thấy chỉ có ngài là có duyên độ mẹ. Sau khi về nhà, Tôn giả được chư thiên cõi trời Tứ Thiên Vương, cõi trời Đao Lợi, Phạm Thiên xuống thăm. Bà mẹ hỏi:
– Hồi hôm ai đến hầu con vậy?
– Đêm thứ nhất là Tứ Thiên Vương, rồi kế là cõi trời Đao Lợi, kế nữa là cõi trời Phạm Thiên.
Bà giựt mình, vì Phạm Chúng Thiên là dòng họ nhiều đời bà thờ mà xuống hầu con mình, có nghĩa là con mình lớn hơn Phạm Chúng Thiên. Tôn giả Xá-lợi-phất nói với mẹ:
– Đối với con Phạm Chúng Thiên giống như một vị Sa-di nhỏ tuổi làm thị giả.
Lúc này niềm tin của bà rất lớn, Tôn giả Xá-lợi-phất nói thêm một câu nữa:
– Nhưng mà Phật thì cao cả hơn, thù thắng toàn diện hơn.
Thì lúc này bà phát tín tâm, trong giờ phút phát tín tâm thù thắng đó bà kiến đạo, bước vào cảnh giới Tu-đà-hoàn. Sau khi được pháp nhãn thanh tịnh, bà nói:
– Ngày xưa, tại sao con không chịu nói cho mẹ những lời này?
Tại chưa đủ duyên. Cho nên có những cái phải chờ, chờ đợi đủ duyên rồi mới nói thì có lực tác động rất lớn. Rồi Tổ dạy tiếp:
“Hoặc vì nói Phật pháp thời song thân sanh tâm tín trọng, phước huệ tăng thêm, thoát khỏi luân hồi, thế mới gọi là người con biết độ cha mẹ ra khỏi biển khổ sanh tử.”
Cha mẹ có duyên với mình, khi về nhà, nói Phật pháp cho cha mẹ nghe. Chẳng hạn tại sao Đức Phật xuất gia tầm đạo, hoặc mình nói về hạnh nguyện, bi nguyện của Hòa thượng, của Thầy Trụ trì, nói về sự tu hành thanh tịnh của chúng tăng trong thiền viện. Song thân có tâm kính trọng thì phước huệ tăng trưởng, thoát khỏi luân hồi, như vậy mới là người con biết độ cha mẹ ra khỏi biển khổ sanh tử. Chứ mình đừng về nhà nói ở đây khó khăn cực khổ. Đã có những người từng về nói với cha mẹ như thế, lúc đó cha mẹ mất tâm kính tín, đọa trong ba đường ác.
“Chẳng được cùng bà con, trẻ em đứng lâu, ngồi lâu nói bậy cười xòa, và không được hỏi trong họ ai phải, ai quấy, ai tốt và ai xấu.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Cùng trẻ em đứng, ngồi cười nói bậy bạ thì chẳng phải là đạo phẩm của hàng xuất gia. Hỏi thăm trong họ phải quấy, tốt xấu là nhơ tâm dạ của mình.”
Cổ Đức nói:
“Lưới ái trần tục không có kỳ hạn, đã từ thân xuất gia chẳng mong lại thấy, thấy còn chẳng mong huống nữa lại hỏi việc nhà ư?”
Về nhà chỉ toàn nói về Phật pháp thôi chứ không hỏi đất đai, nhà cửa ra sao. Hỏi đất bán chưa, cho tôi hai, ba cây gì đó để cúng dường thì càng trật nữa! Tưởng rằng cúng dường Tam bảo được phước nhưng không phải, nó dơ cái tâm mình, thêm tổn hại cha mẹ, để tự họ phát tâm thôi. Ở đây nói rất rõ: “Thấy còn chẳng mong huống nữa lại hỏi việc nhà ư?” Chẳng hạn hỏi: “Dì Tám ngày xưa tôi thấy có nội kết với bà, bây giờ còn không?” là không đúng. Trong gia đình, dòng họ có những chuyện lục đục mình về hỏi thì cũng trật luôn! Không được hỏi, chỉ nói về Phật pháp thôi.
“Hoặc trời tối ngủ lại phải ở riêng một chõng, ngồi nhiều nằm ít, một lòng nhớ Phật, việc rồi liền về chẳng được ở lâu.”
Nếu nhà gần chùa, nên xin qua chùa ngủ tốt hơn. Còn không thì ở nhà nhưng riêng một chõng hoặc một phòng, ngồi nhiều mà nằm ít, một lòng luôn luôn nhớ đến Phật. Tu ở thiền viện bốn, năm năm, thế nào cha mẹ cũng quan sát xem mình làm gì. Nghe nói, ba giờ mười lăm ngồi thiền mà bảy giờ còn ngủ, thì quý thầy nói gì họ cũng không tin. Cho nên về nhà, muốn độ cha mẹ quý thầy phải dùng thân giáo. Tụng kinh sám hối, ngồi thiền thì nhiều, nằm thì rất ít, như vậy mình nói gì cha mẹ cũng tin.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nằm riêng một chõng là phòng phạm hạnh.”
Ai có gia đình phải cẩn thận chỗ này. Tôi kể chuyện, để quý thầy rút kinh nghiệm. Ngày xưa có một thầy, trước khi xuất gia đã có gia đình, một con. Xuất gia được sáu tháng thầy xin Hòa thượng về làm giấy tờ, về đúng ngày giỗ trong gia đình nên người vợ đến thăm và ngủ lại buổi tối. Thầy ở riêng một phòng nhưng người vợ lại lên giường của thầy. Thầy về sám hối với Hòa thượng, sám hối trước đại chúng là thầy suýt phạm giới, suýt phạm tịnh hạnh. Cổ Đức nói, một phút sa cơ hận cả đời, cho nên phải rất cẩn thận.
Người tu giống như con gái mười tám tuổi, tức là “khuê phòng bất xuất”, ở trong phòng kín không được ra ngoài chứ không phải chuyện đơn giản. Cho nên có Phật tử nói, Hòa thượng canh giữ quý thầy kỹ hơn giữ con gái mười tám. Chừng nào trưởng thành, có năng lực lớn rồi thì mình về được, còn chưa thì phải ráng.
“Ngồi nhiều nằm ít là khiến sanh tín kính.”
Cha mẹ thấy mình ngồi đọc sách, tọa thiền thì sanh tâm tín kính.
“Một lòng nhớ Phật là lìa tâm vọng tưởng. Nếu luận về Sa-di giới luật chưa sâu, đạo lực chưa kiên cố, chẳng nên ở nhà thế tục trụ qua đêm. Vì thường nhớ lời Phật dạy như con nhớ từ mẫu nên chẳng được ở lâu.”
Giới luật chưa sâu, năng lực chưa có thì đừng có ở nhà thế tục mà trụ qua đêm.
“Chẳng được liếc ngó hai bên.”
Quý thầy về thăm gia đình, trên đường thế nào cũng đi ngang qua làng xóm. Bà con cô bác nhìn thấy mình đi thẳng một đường, người ta nói: “Ông thầy này tu nghiêm thiệt!” Còn liếc qua liếc lại: “Ông thầy này tu kỳ vậy, sao tôi coi trong luật là không được liếc ngó hai bên!” Bây giờ cư sĩ họ nghiên cứu kỹ lắm.
Có một số quý thầy đi chợ hoặc ra thành phố, Phật tử nhìn thấy họ nói: “Quý thầy đi ra tụi con biết quý thầy ở Trúc Lâm.” Hỏi: “Sao biết?” “Vì quý thầy cứ nhắm một đường đi thẳng.” Được uy tín lỡ, ráng cho uy tín luôn. Người tu lên thành phố mà nhìn nhà lầu cao cũng không được. Khó lắm chứ không đơn giản.
“Chẳng được nói bậy, hoặc nói chuyện với người nữ chẳng được nói thì nói thầm và nói nhiều.”
Thiền sư Hòa thượng Chí Đạo, ngài sanh năm 1603, tịch 1676, trong quyển Chí Đạo Vô Nan, ngài nói pháp ngữ cho hàng hậu học:
“Người tu hành hãy xa rời nam nữ như cây kiếm bỏ vào lửa. Người mang y tất không nên đến gần bên nữ nhơn, thế nào rồi cũng phạm sai lầm và phản chiếu trong tâm mình. Chính vì lẽ đó gần người nữ là việc làm của súc sanh. Lão Tăng ta sở dĩ kỵ người nữ cũng vì tâm súc sanh của mình vẫn còn.”
Ngài nói, người tu hành hãy xa rời nam nữ như cây kiếm bỏ vào lửa, kiếm bỏ vào lửa thì nóng quá sử dụng không được. Người mang y thì không nên đến gần bên nữ nhơn, gần người nữ thế nào cũng bị phạm sai lầm, nói thì nói thầm gì đó, tối về ngồi thiền bảo đảm nó sẽ hiện ra, nó chiếu diệu lại trong tâm mình. Cho nên ngài nói: “Chính vì lẽ đó gần người nữ là việc làm của súc sanh. Lão Tăng ta sở dĩ kỵ người nữ là cũng vì tâm súc sanh của mình vẫn còn”. Quý thầy còn tâm súc sanh không? Hòa thượng nói, mình có lúc giống như Thánh, nhưng cũng có lúc không dám nhìn tâm của mình. Học thiền là học về tâm, kiểm soát về tâm, mà kiểm soát về tâm là để chuyển hóa chứ không phải để chết chìm. Cho nên các Thiền sư khẳng định, tâm dục nhiều mà chuyển được thì thành đại bi, vọng tưởng nhiều mà chuyển hóa được thì thành đại trí. Bi trí tròn đầy thì mới có năng lực để dìu dắt chúng sanh.
Trong bài Đạo Ca, Hòa thượng lại nói:
“Khi giác ngộ đại đạo, cho dù có giao tiếp với nữ nhơn, với của cải đi chăng nữa, ta cũng chẳng có tâm nào cả.”
Tức là vô công dụng hạnh. Trong trí tuệ Bát-nhã, trong ánh sáng chiếu diệu của tự tâm thì quý thầy giống như cái gương. Gương chiếu hết vạn loại nhưng không lưu giữ hình, lúc này mới giác ngộ thật sự. Lý đã hiểu nhưng còn phải tiệm tu, chứ nghe nói như thế rồi cứ tự do tự tại luôn thì không được.
“Đây chính là việc quan trọng mà người tu hành phải làm, kẻ như vậy mới xứng đáng là bậc thầy của mọi người.”
Có mấy người nước ngoài đến gặp thầy Tĩnh Đàm hỏi: “Quý thầy tu có nghĩa là suốt đời suốt kiếp ở như thế phải không?” Thầy Tĩnh Đàm nói, ở như vậy thôi chứ không có gia đình gì hết. Họ la lên như chưa từng bao giờ nghe chuyện như vậy.
Làm được như thế, giao tiếp mà không dấy tâm động niệm. Đứng vững, trụ vững trong đại đạo thì mới làm bậc thầy của mọi người được. Bởi làm không được chuyện đó nên người ta cúng dường, đảnh lễ dưới chân quý thầy. Nếu phạm trai phá giới thì người ta coi mình cũng giống người ta thôi, nhiều khi còn khi dễ mình nữa.
Ngài nói tiếp:
“Có người kỵ chuyện giao tiếp giữa nam với nữ, ta bảo rằng Phật đạo không có như vậy, nam nữ tương giao là lẽ của tự nhiên.”
Không phải ngài qui như thế, rồi quý thầy thấy người nữ bỏ chạy cũng không đúng.
Cổ Học Tinh Hoa có câu chuyện:
Nước Lỗ có anh nông phu khoảng hai mươi tuổi, chưa có gia đình. Một hôm trời nổi cơn bão, nhà của cô hàng xóm bị sập, cô qua xin ngủ nhờ một đêm nhưng anh nhất định không cho cô vào nhà, anh nói nam nữ không được gần nhau. Cô nói với anh: “Sao ông không bắt chước ông Liễu Hạ Huệ?”
Liễu Hạ Huệ sanh cùng một thời với Khổng Tử, gọi là bậc á thánh, một hôm ông thấy một cô gái mười tám tuổi bị lạnh cóng giữa đường, muốn cứu cô nên ông ôm cô suốt một đêm. Nhờ hơi ấm của ông nên cô gái được cứu sống.
Cho nên cô này nói với anh nông phu, tại sao không bắt chước ông Liễu Hạ Huệ. Anh đáp: “Ông Liễu Hạ Huệ thì được nhưng tôi thì chưa được.” Câu chuyện này đến tai Khổng Tử, Khổng Tử nói: “Liễu Hạ Huệ là bậc thánh mà anh nông phu này cũng chính là bậc thánh.” Bởi vì sao? Biết mình biết ta trăm trận trăm thắng. Biết mình còn cái đó nên dừng lại, cho nên Khổng Tử khen hai người đều là bậc thánh.
Câu chuyện trong Thiền thoại Nhật Bản:
Thiền sư Tây Hành lúc chưa giác ngộ về Phật pháp ngài là một vị tướng lãnh rất giỏi. Sau khi giác ngộ được tự tâm tức là đốn kiến vào mảnh đất vô sanh rồi, ngài trở thành một vị Thiền sư rất nổi tiếng về thi thơ, cơ phong của ngài không ai lường được. Ngài sống phóng khoáng, đi lang bạt, gặp đâu ngủ đó, gặp lầu xanh, kỹ nữ ngài cũng vào ngủ mà không dính dáng gì hết.
Một hôm ngài đến vùng Osaka, vùng này có một cô kỹ nữ, là hóa thân của Bồ-tát Phổ Hiền. Khi đến nơi thì trời tối, ngài gõ cửa tửu lầu có cô kỹ nữ là hóa thân ngài Phổ Hiền để xin tá túc thì cô từ chối, bảo rằng trong nhà chỉ có một mình cô thôi nên không thể cho ngài vào. Ngài làm một bài thơ:
Khi tôi chưa từ bỏ cõi đời,
Tim nàng cũng nên rắn lại,
Giờ sao hất hủi tôi?
Chỉ một đêm trần gian huyễn mộng.
Vào ngủ cũng là huyễn mộng thôi. Như vậy thì quý thầy ăn chay, bữa nào ăn mặn rồi phạm trai, phá giới thì cũng là huyễn mộng, đúng không? Thế gian là một trường ảo mộng mà. Có người kiến giải như thế, cái gì cũng là huyễn mộng hết! Nhưng với cặp mắt của Bát-nhã thì các ngài nói đây là giả danh, tạm đặt thôi, mà trong giả danh đó là giả tướng.
Cô kỹ nữ cương quyết từ chối và làm một bài thơ đáp lại:
Biết ngài đã từ bỏ trần gian,
Nhưng xin ngài hãy tưởng,
Đừng tâm niệm khăng khăng,
Xem trần gian là huyễn mộng.
Nếu huyễn mộng thì ở ngoài trời cũng là huyễn mộng cần gì vô trong ngủ. Biết huyễn mộng rồi thì ngồi thiền cũng là huyễn mộng, nhưng mà thôi, lên ngồi thiền đi để hợp cơ với thanh qui thiền viện.
Nhưng mình không làm được như vậy, cái nào huyễn mộng mà sướng thì nói huyễn mộng, còn cực mình không chịu, thì đó chưa phải là huyễn mộng. Huyễn mộng là siêu thoát cái sướng, cái khổ, cái hạnh phúc, cái khổ đau, thấy được như thế thì mới gọi là huyễn mộng. Ở đây Bồ-tát Phổ Hiền nhắc ai? Không phải nhắc Thiền sư Tây Hành, hai bậc đạo gia đã ngộ đạo, đã siêu thoát rồi. Nhắc ở đây là nhắc cho mình, biết ngài đã từ bỏ trần gian rồi đó, “nhưng xin ngài hãy tưởng, đừng tâm niệm khăng khăng, xem trần gian là huyễn mộng.” Còn nghiệp tức là còn tạo tác, còn luân hồi, chừng nào dứt hết rồi nói sao cũng được.
Cho nên Tổ dạy, đừng có nói chuyện với người nữ.
Thiền sư Vĩnh Minh nói:
“Nếu nhìn thấy các trai, gái đoan chánh cũng coi tựa xác chết thì mới có thể làm chuyện dâm dục. Cắt tim không đau mới cho ăn thịt. Uống rượu như uống nước tiểu thì mới cho uống. Nếu thấy của mình của người cũng coi như đất, như phân thì mới có thể xâm chiếm, trộm cướp. Dù cho các ngươi có luyện được đến mức đó thì cũng chưa thể thuận theo cái ý của các ngươi, cho đến khi chứng đắc được vô lượng thánh nhân thì mới có thể làm chuyện ngược xuôi của thế gian được.”
Có nhiều người nói, bây giờ bên Nam Tông họ ăn thịt thì bên đây tôi cũng ăn thịt. Họ không hiểu nên mới nói vậy. Bởi vì khi quý thầy đến thọ giới Tỳ-kheo tác pháp Yết-ma về giới cấm đó rồi, thì không được phạm. Còn bên kia người ta không tác pháp Yết-ma, nên được ăn. Có nghĩa là, mình đến trước Hòa thượng, tam sư, thất chứng được tác pháp Yết-ma hết rồi, không được sát sanh, không được… đã nêu lên rồi, cho nên hễ mình dính là mình phạm chứ không có biện lý gì hết. Bởi vì đạo Phật là đạo chứng nghiệm, nếu chưa chứng nghiệm được mà ăn thịt, uống rượu là phạm giới hết.
Nếu thấy của mình của người cũng coi như đất, như phân thì mới cho trộm cướp. Nhưng dầu cho mình được như thế thì cũng chưa thể thuận theo cái ý của các ngươi, cho đến khi chứng đắc được vô lượng thánh nhân thì mới có thể làm chuyện ngược xuôi. Vì sao?
“Vì kinh nói: Không trừ thói dâm dục thì sẽ tiệt cái giống thanh tịnh, chẳng bỏ thói rượu chè thì tiệt hạt giống trí huệ, chẳng bỏ thói trộm cắp thì tiệt hạt giống phúc đức, chẳng bỏ thói ăn thịt thì mất hạt giống từ bi. Chư Phật ba đời cùng nói như thế, Thiền tông thiên hạ đồng thanh giảng như thế, vậy mà sao kẻ hậu học bỏ qua chẳng nghe theo? Tự mình hủy hoại chánh nhân lại làm theo ma thuyết. Chỉ vì nghiệp chủng do kiếp xưa hun đúc nên sanh ra gặp phải thầy tà.”
Quý thầy nghe rất là rõ phải không? Ngài nói chư Phật ba đời cũng đều dạy như thế, rồi Thiền tông trong thiên hạ cũng giảng dạy như thế, mà sao kẻ hậu học bỏ qua chẳng chịu nghe mà tự hủy hoại chánh nhân. Nghĩa là cái nhân chân chánh mình được xuất gia, được học đạo nhưng lại làm theo ma thuyết. Chỉ vì nghiệp xưa, còn những hạt giống đó nên phải thầy tà.
“Trong bước đường công phu tu học mình đừng vỗ ngực xưng tên.”
Có nhiều người ngày xưa ở thiền viện hoặc ở các chùa, tự vỗ ngực xưng tên bây giờ rớt hết, ngã gục hết trước sắc đẹp của người nữ. Mình đừng nói đã chứng đại đạo, lý hiểu như thế nhưng sự phải tiệm tu. Cho nên Cổ Đức nói, nếu chưa đại triệt, đại ngộ thì phải có mười cách quán chiếu.
Các ngài nói, trong cuộc đời tu hành, tài bỏ được, danh vọng có thể bỏ được, nhưng sắc thì khó bỏ, nhiều vị lớn đã vấp phải chỗ này. Nếu mình còn quá nhiều tâm dục nhiễm, thì các ngài dạy cách quán chiếu:
1- Hằng ngày tu tập hoặc quán thân bất tịnh.
Tôi nghe kể bên Miến Điện, có những vị Hòa thượng họ quán bất tịnh đến mức độ họ nhàm chán cái thân này. Bởi vì ra đường họ thấy toàn là những bộ xương biết đi. Ngày xưa lúc ở Chân Không, Hòa thượng Trúc Lâm cũng quán bất tịnh, quán đến mức độ Hòa thượng không dám ăn cơm, nghĩ đến là ói.
Trong kinh diễn tả, có một thầy Tỳ-kheo quán bất tịnh, quán chừng nào thì tâm dâm dục nổi dậy nhiều chừng đó. Đến trình với Phật. Phật hỏi, ông nói là quán hình người nữ bất tịnh. Quán thân bất tịnh là phải quán lại chính mình, quán con mắt, lỗ mũi, cái miệng của mình. Tức là ba mươi sáu uế trược hay là chín lỗ bất tịnh thì dần dần nhàm chán. Quý thầy mà đưa đề mục hoa hậu gì đó quán là phản tác dụng.
2- Quán sự dâm dục như đường tiểu tiện.
3- Duyên nơi ảnh tượng của Bồ-tát.
Thường nhớ đến các vị Bồ-tát công hạnh lớn chẳng hạn như Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền… để bỏ bớt cái tâm đó.
4- Duyên tâm thành nhớ Phật.
Luôn luôn nhớ về công đức của Phật, năng lực của Phật đã tu tập vô lượng kiếp. Ngày hôm nay mình tu, tại sao vẫn còn những tâm niệm này thì dần dần nó hết.
5- Hoặc cung kính quán niệm Quán Âm Đại Sĩ.
Đừng nghĩ tu thiền không có liên hệ đến vị Bồ-tát này. Ở đây, chúng ta học kỹ phần này. Tại sao Cổ Đức, nói tâm niệm tham dục, hoặc tâm vọng tưởng nhiều quá, dùng phương pháp sổ tức, tùy tức gì cũng không được thì luôn luôn mình phải cung kính, quán niệm Quán Âm Đại Sĩ? Quán niệm ở đây, không phải niệm danh hiệu của ngài mà thường tưởng nhớ đến công hạnh vi diệu của ngài.
Trong kinh Pháp Hoa, có một phẩm nói về Quán Thế Âm Bồ-tát đó là phẩm Phổ Môn. Môn tức là cửa, Phổ là rộng khắp, Phổ Môn là cái cửa phổ độ cùng khắp. Bồ-tát Quán Thế Âm có túc duyên rất sâu ở thế giới ta-bà, các cõi khác không có duyên sâu bằng. Bây giờ nói phần sự trước.
Câu chuyện thứ nhất trong quyển hồi ký “Trên Đỉnh Trùng Dương”:
Nhân vật nữ trong câu chuyện này, có một người em tu ở Thiền viện Thường Chiếu, là thầy Thiện Tín. Cô kể cô cùng chồng, bốn người con và người cháu gái đi vượt biên, đến giữa biển, từng người trong gia đình cô bị bọn hãm hại nhẫn tâm quăng xuống biển. Chồng cô cùng bốn con và đứa cháu gái chìm sâu dưới lòng biển lạnh, duy nhất chỉ mình cô sống sót. Gần chín tiếng đồng hồ lặn hụp trong đêm tối giữa biển khơi, cô đã thành tâm khấn nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm, bỗng nhiên cô thấy một luồng ánh sáng từ trên trời xả xuống, cô nương ánh sáng bơi tới và được ngư dân cứu sống.
Sống sót trở về, cô viết quyển hồi ký “Trên Đỉnh Trùng Dương”, kể lại câu chuyện đời cô và khẳng định đã được Bồ-tát Quán Thế Âm cứu độ, bởi vì nếu không nhờ vào năng lực vi diệu của ngài thì không thể nào giải thích được vì sao cô sống sót sau chín tiếng đồng hồ lênh đênh trên biển cả, vượt qua chặng đường tám mươi cây số giữa sóng gió ngoài khơi.
Câu chuyện thứ hai, “Quán Âm Huyền Ký”:
Đường Văn Tông rất thích ăn ốc, ăn sò. Ông bắt dân biển phải hiến sò cho ông, người nào không hiến thì ông ghép vào tội bị xử trảm, cho nên dân tình rất là khốn đốn.
Một hôm, vị quan biến trù, đại khái giống như tri khố, được một người hiến dâng con sò rất lớn. Nạy con sò ra ông thấy hiện lên hình Bồ-tát Quán Thế Âm, ông quan này không dám luộc, ông đem con sò đến trình Đường Văn Tông. Không ai hiểu tại sao lại có hiện tượng này. Một vị quan thừa tướng đề nghị mời Thiền sư Duy Chánh đến để ngài giải thích. Đường Văn Tông hỏi Thiền sư:
– Nghe nói Bồ-tát Quán Thế Âm rất linh hiển, tại sao không hiện thân ra nói pháp cho trẫm mà lại hiện thân trong con sò này?
Thiền sư Duy Chánh đáp:
– Đó chính là Bồ-tát hiện thân nói pháp cho bệ hạ rồi. Bồ-tát đã phát nguyện 32 ứng hóa thân, hoặc dùng thân Tỳ-kheo nói pháp thì hiện thân Tỳ-kheo, hoặc hiện thân Tỳ-kheo Ni, Sa-di, Sa-di-ni, trưởng quan, Đế Thích…, tất cả mọi hình tướng. Nếu bệ hạ tin thì đúng là Bồ-tát ứng hiện ra để giáo hóa.
Lúc này Đường Văn Tông tỉnh ngộ, ông ra sắc lệnh, không ai được hiến dâng sò cho ông và kể từ đó không bao giờ ăn sò nữa.
Câu chuyện thứ ba do Hòa thượng Tôn sư kể:
Ngày xưa, Hòa thượng về Đồn Đất để giảng pháp, có một vị đến hỏi Hòa thượng:
– Thầy giảng pháp vậy thầy có tin những điềm chiêm bao không?
Hòa thượng hỏi:
– Điềm chiêm bao như thế nào?
Ông kể, ông có một đứa con gái bệnh rất nặng, bác sĩ bệnh viện Đồn Đất cũng trị không được. Một hôm, ông nằm mộng thấy một người mặc áo trắng đến nói:
– Sáng mai con đi ra hướng Bắc sẽ gặp một vị thầy thuốc, con đưa thầy thuốc này về mà chữa trị cho con của con.
Quả tình sáng mai ông đi về hướng Bắc thì gặp một vị thầy thuốc. Con ông uống ba thang thuốc của vị thầy này thì hết bệnh. Ông tin chắc rằng vị mặc áo trắng chính là Quán Âm Đại Sĩ. Sau đó Hòa thượng đến nhà vị này thì thấy ông có thờ hình tượng Quán Thế Âm Bồ-tát.
Bây giờ nói về lý. Quán Âm Đại Sĩ là gì? Là phản văn văn tự tánh. Học được pháp của Bồ-tát Quán Thế Âm là có năng lực lớn. Chẳng hạn, đi trên chuyến xe đò hay trên một chiếc thuyền, ai cũng bị tai nạn mà tại sao mình thoát được nghiệp. Mình phải có những tần số như ngài thì mới được, muốn vậy thì phải học cái hạnh giống như ngài. Cho nên Bồ-tát Quán Thế Âm còn có nghĩa từ nhãn thị chúng sanh, dùng con mắt từ nhìn chúng sanh. Hòa thượng Làng Mai dịch là mắt thương nhìn cuộc đời. Dùng con mắt sân hay mắt tật đố nhìn cuộc đời thì thuyền chìm là chắc chắn.
Ngày xưa, tôi cứ nghĩ một người bỏ tiền ra bố thí, rồi mình phát tâm tùy hỉ thì đồng với nhau. Trong kinh Phật dạy, giống như đốt một cây đuốc là ngàn cây đuốc. Hồi đó cứ y kinh mà giảng, nhưng bây giờ tôi phải giải lại chỗ này, bởi vì “y kinh giải nghĩa thì tam thế Phật oan, mà lìa kinh nhất tự thì đồng với ma thuyết.” Muốn được pháp này thì phải chứng nghiệm vào cảnh giới đó thì mới lột phá được lời Phật nói. Cho nên thiền là phải chứng nghiệm, phải đi sâu, phải bơi lội vào chiều sâu của tâm thức mình mới phát hiện ra được. Tức là một niệm phải muôn năm, phải đốn triệt thì lúc này, quý thầy không cần tùy hỉ cũng thành tựu pháp tùy hỉ. Cho nên bảo đảm tôi nói không sai lệch kinh Phật.
Chẳng hạn, Thầy trụ trì cất Thiền đường, ai mà không tùy hỉ. Tùy hỉ là đồng rồi, nhưng nhớ một điểm, quý thầy sáng tùy hỉ, trưa tùy hỉ, chiều cũng phải tùy hỉ, gọi là một niệm muôn năm. Muốn đạt đến một niệm muôn năm đó, khi kẻ thù của mình làm, mình cũng tùy hỉ luôn thì phước ngang nhau. Còn ở đây Thầy, Tổ mình thì mình tùy hỉ, người lớn tuổi hạ hơn thì cũng tùy hỉ, nhưng sư đệ mình làm mình tùy hỉ được không? Không được thì mất, vì không được một niệm muôn năm. Cho nên nhà thiền gọi, tâm bình thường là đạo. Bình thường là gì? Sáng bình thường, trưa bình thường, chiều bình thường. Sáng mình bình thường được, nhưng trưa hết bình thường!
Cho nên nói tùy hỉ thì đồng nhau, với mức độ là tâm thức phải đạt đến chỗ một niệm muôn năm. Thầy Tổ làm được thì mình tùy hỉ, người khác làm mình không tùy hỉ là rớt, Phật pháp hay điểm đó.
Phật Thích-ca ra đời, với Phật nhãn, thấy được cảnh giới Phật ngài sẵn sàng giới thiệu. Còn mình, đạo tràng nào mà lớn lên hay là phát triển lên mình dám giới thiệu không? Chẳng hạn giới thiệu, ông lên Thiền viện Trúc Lâm tu đi, tốt lắm. Không nói vậy, mà nói lên tu là ông điên đó, “thiền đăng” mà.
Có một thầy, khi giảng pháp ông để cây đèn phía trước, ông nói mấy người tu thiền để cây đèn như vậy gọi là “thiền đăng”. Tại sao gọi thiền đăng? Thiền đăng tức là “thằng điên”, ông nói như vậy đó! Thầy Tổ ông xây dựng chùa này chùa kia ông tùy hỉ, ông nói tùy hỉ để phước bằng nhau, nhưng ngược lại có những đạo tràng phát triển thì ông sanh tâm tật đố mà không hiểu lời Phật dạy.
Tôi nghiệm thêm một điều, muốn tùy hỉ cho được rốt ráo thì phải thực tập. Quý thầy ai cũng biết bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia, bây giờ áp dụng vào thiền, thực tập phương pháp của Quán Âm Đại Sĩ:
– Thứ nhất là cộng: Cộng là thêm tất cả các việc thiện pháp, làm tất cả nhưng không khởi tâm chấp thủ.
– Thứ hai là trừ: Trừ tâm tật đố, trừ tâm ích kỷ.
– Thứ ba là nhân: Chẳng hạn ngày xưa mình chẻ củi mười cây, bây giờ nhân lên chẻ hai chục cây. Ngày xưa mình ngồi thiền một tiếng, bây giờ nhân lên ngồi hai tiếng.
– Thứ bốn là chia: Chia phước thiện, chia năng lực tu học, rồi chia sẻ tâm tùy hỉ đến tất cả mọi người, tất cả chúng sanh.
Bồ-tát Quán Thế Âm hành thâm Bát-nhã, sau khi chiếu kiến ngũ uẩn giai không rồi thì ngài tự tại, thong dong. Hình tượng ngài ngồi thoải mái, để tay rất tự tại, gọi là Bồ-tát Quán Tự Tại. Mình thì chiếu kiến chưa được. Tôi cũng vậy, làm nhà khách mà ai nói động đến, tôi cũng khó chịu, nghĩa là chiếu kiến chưa được cho nên vẫn khổ. Còn ngài, chiếu kiến ngũ uẩn giai không rồi thì người ta nói phải cũng được, nói trái cũng được, khen cũng được, chê cũng được, cho nên ngài vượt qua tất cả khổ nạn, không còn khổ nữa.
Tuệ Trung Thượng Sĩ cảm khái chỗ này, ngài làm hai câu thơ:
Người đời mãi ngắm nghìn non đẹp,
Ai lắng hang sâu tiếng vượn trầm.
Nghĩa là ngắm chuyện thế gian mà ít lắng lại cái tâm. Muốn được lắng tâm là phải đi theo con đường Quán Âm Đại Sĩ, tức là phản văn văn tự tánh. Thiền sư Ajahn Chah nói:
“Người vào thất phải rút kinh nghiệm, thay vì đọc sách, bạn hãy đọc chính tâm của bạn.”
Quý thầy được túc duyên, nhập thất hai mươi mốt ngày hoặc bốn mươi chín ngày đừng đem sách nhiều. Tôi thấy có những người đem một va-li sách vào thất. Như vậy vào đó đọc sách không chứ đâu có đọc cái tâm của mình. Nếu đọc được cái tâm là mình biết mình còn tham, còn sân, còn đủ thứ chuyện, thì mình tìm cách chuyển hóa.
Cho nên ngài nói tiếp:
“Cốt lõi của thiền định trong đạo Phật chỉ nhằm mục đích luyện tâm, thiền là để nuôi dưỡng, chuyển hóa, và phát triển tâm thức. Nuôi dưỡng và luyện tâm của bạn là điều cực kỳ hệ trọng. Đạo Phật là đạo của tâm, chỉ có tâm mà thôi. Ai thực hành phòng hộ và chuyển hóa tâm là người đó đang thực hành con đường Phật đạo.”
Ngài nói vào thất, phải đọc cái tâm của chính mình thì mới đúng. Nghĩa là ngồi chiêm nghiệm lại, bởi cốt lõi của thiền định trong đạo Phật là chuyển hóa tâm.
6- Hoặc tụng kinh, tọa thiền, sám hối, thì tâm dục cũng bớt.
7- Chuyên nhớ nghĩ giới thể của mình đã lãnh thọ.
Những điều giới mình đã thọ phải ráng giữ.
8- Hoặc nhiếp niệm nơi tâm, hoặc quán sự sanh diệt vô thường, hoặc quán tất cả pháp là duy thức biến tùy theo tâm đi đến chỗ nào đều phải cố gắng đối trị.
Chẳng hạn ngồi đây mà tơ tưởng đến những cảnh giới ngày xưa mình đã từng đi qua thì phải đối trị liền, chớ đừng để nó nẩy mầm, mọc nhánh.
“Nếu như mặc tình trôi nổi theo dòng vọng tưởng và ái dục thì thật là khó cứu vãn. Nên biết rằng đắm say trên xác thịt nam nữ chẳng khác nào mê chút mật dính trên mũi dao bén nhọn và bàn sắt nóng, chỉ thuần khổ chớ chẳng có chút vui, chỉ có hại chớ không có lợi. Thế nên từng giờ từng phút đối với việc dâm dục phải nên cảnh giác. Luật dạy: Thà để nam căn trong miệng rắn độc, không nên để vào trong ba đường của người nữ. Vì rắn độc cắn chẳng qua chỉ hại thân xác một đời mà thôi, còn cùng người nữ phát sanh nhục dục quyết nguy hại cho pháp thân huệ mạng nhiều đời nhiều kiếp. Do đó sự tai hại này lớn lao biết chừng nào, Tỳ-kheo chúng ta phải tránh xa vậy.”
Cho nên Phật dạy phải tuyệt đối tránh xa người nữ.
“Chẳng được dối hiện oai nghi, giả mạo tướng thiền cầu người cung kính.”
Tổ Tuyên Luật sư dạy:
“Oai nghi của Sa-môn vốn đầy đủ tướng thiền mà dối hiện trang nghiêm mong cầu danh lợi, cung kính nên chẳng có cho phép.”
Tổ nói oai nghi của bậc Sa-môn hay của người xuất gia vốn đã đầy đủ, cái tướng của mình tự nó đã hiện ra. Chẳng hạn, nhìn cặp mắt lờ đờ biết người này mới ngủ dậy. Còn mắt trang nghiêm, thanh tịnh là biết quý thầy có tu, côngphu sâu sắc, bây giờ ứng ra hành động, lời nói, ứng ra cặp mắt, tứ chi. Có oai nghi phép tắc thì tự hiện ra đầy đủ tướng thiền, khỏi cần giả hiện. Cho nên quý thầy thấy Hòa thượng đi, đứng đều trong chánh niệm, bốn năm chục năm tướng thiền ứng vô tứ chi rồi, bây giờ phổ ra hành động nào cũng là tướng thiền hết. Còn mình nhiều khi đi cũng mất chánh niệm, mà giả mạo tướng thiền thì không được phép.
Tổ Qui Sơn dạy:
“Bình thường tập tánh tự nhiên, đâu cần trang hoàng làm thế.”
Đại sư Hàn Sơn nói:
Oai nghi quý bổn phần,
Trá hiện phi chân thật.
Thiền tướng bổn vô tướng,
Vô tướng há trang đắc?
Túng sử trang đắc thành,
Nan đào chơn giám thức.
Như viên học đả tọa,
Ngoại tượng nội tâm thất.
Vi vi cảnh phong sanh,
Hí hí thâu quả thực.
Chiêm bỉ cao thượng nhơn,
Trừng định cửu thanh bạch.
Hựu như tại hồng lô,
Chơn kim vô biến sắc.
Tạm dịch:
Oai nghi quý phần gốc,
Dối hiện chẳng chơn thật.
Tướng thiền vốn vô tướng,
Vô tướng sao tô trát?
Đại sư Hàn Sơn nói oai nghi quý ở phần gốc, nghĩa là tâm như thế nào thì ứng hiện ra thế ấy. Vì vậy, có những Sa-di tuy nhỏ tuổi mà đã nhiều kiếp tu hành nên rất trang nghiêm thanh tịnh.Những người tuy thọ Tỳ-kheo năm, mười năm rồi mà mới tu đây, mới ở cõi nào đến thành ra đi cũng còn nhảy nhót. Kinh Pháp Cú kể, có một thầy Tỳ-kheo tu cũng lâu rồi mà còn hay nhảy nhót, các thầy Tỳ-kheo lên bạch Phật, Phật nói thông cảm cho ông, ông từ loài khỉ mới đến.
Rồi có những người đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, chẳng hạn Ngài Đạt-lai Lạt-ma thứ mười bốn, mới có ba tuổi là lên pháp tòa nói pháp. Nhiều đời nhiều kiếp tu hành, bây giờ nó ứng hiện ra phong cách, tác phong. Như Hòa thượng Trí Tịnh, bảy đời làm Hòa thượng, Tổ nhìn biết nên Tổ nói: “Mấy chú đừng khinh dễ nha, bảy đời làm Hòa thượng rồi đó.”
Dối hiện chẳng chân thật,
Tướng thiền vốn vô tướng.
Giả sử tô trát được,
Khó trốn gương chân thật.
Như vượn học ngồi thiền,
Tướng ngồi trong tâm loạn.
Ngài nói giống như con vượn, con khỉ mà học ngồi thiền vậy, nó ngồi thì ngồi chứ tâm nó cũng lộn xộn.
Nhè nhẹ gió cảnh sanh,
Giỡn cười trộm quả ăn,
Xem bậc thượng nhân kia,
Định lóng lâu kín nhiệm,
Lại như trong lửa đỏ,
Vàng thật không đổi sắc.
Như quý thầy đi trang nghiêm thanh tịnh, nhưng vì còn cái nghiệp, thí dụ nghiệp ca hát, đi ngang qua quán cà phê nghe Trịnh Công Sơn hát quý thầy quên, quý thầy huýt sáo theo, lộ ra liền! Vàng thật thì không đổi sắc, mà đây vàng giả cho nên nghe hát rồi huýt sáo nhịp nhịp là biết, lộ rồi, bởi vì dối hiện. Bậc thượng nhơn định lóng sâu rồi thì vàng thật không đổi sắc, dầu cho lửa cách mấy nó cũng y nhiên vậy thôi. Cho nên Tổ dạy không được dối hiện oai nghi.
Tổ Lâm Tế dạy tiếp:
“Này Đại đức! Cần phải bình thường, chớ làm hình thức. Có một bọn tớ trọc không biết tốt xấu nói thấy thần, thấy quỷ, chỉ đông, vẽ tây, trời tốt, mưa tốt. Những bọn như thế đều phải mang nợ có ngày sẽ ở trước Diêm vương nuốt hoàn sắt nóng. Những người nam nữ tốt bị chồn tinh này câu thúc liền làm những việc quái dị, bọn mù có ngày phải bị đòi nợ cơm cháo.”
Tổ Lâm Tế dạy cần phải bình thường, là sao thì nó hiện ra vậy thôi, bình thường tức là đạo.
Trong kinh A-hàm Phật dạy các Thầy Tỳ-kheo:
“Này các Thầy Tỷ-kheo! Trong hàng đệ tử ta có chia làm bốn hạng người, thế nào là bốn?
– Thứ nhất là hạng người ngoài chín trong sống.
Có nghĩa là oai nghi phép tắc rất đầy đủ nhưng mà dối hiện, trong thì loạn động, phạm trai phá giới.
– Thứ hai là hạng người ngoài sống trong chín.
Hiện thân giống như Tế Điên Hòa thượng: ngoài thì uống rượu, ăn thịt, làm đủ thứ chuyện nhưng trong thì chín muồi, tức là triệt ngộ hết rồi.
– Thứ ba là hạng người ngoài sống trong sống.
Giống như mình vậy, oai nghi phép tắc không có mà trong thì loạn động đủ thứ chuyện.
– Thứ tư là hạng người ngoài chín trong chín. Này các Thầy Tỷ-kheo! Chính hạng người sau cùng này mới là hạng thanh tịnh chơn thật, xứng đáng là người giữ gìn gia bảo của Như Lai.
Ráng tu như thế, để ngoài chín mà trong cũng chín thì mới gìn giữ gia bảo của Như Lai được.
Trong quyển “Thoát Vòng Tục Lụy” của Hòa thượng Tinh Vân chúng ta thấy có hai mẫu người. Mẫu người thứ nhất là sư huynh Ngọc Lam, dầu cho hình thức là Bồ-tát thị hiện vào cuộc đời này nhưng chỉ là hóa độ một số người nào đó thôi. Mẫu người thứ hai là Thiền sư Ngọc Lâm mới làm Quốc sư được.
Quý thầy sau này muốn làm được việc lớn thì ngoài chín trong cũng phải chín. Giống như Hòa thượng Tôn sư, ngài dạy giữ giới luật rất nghiêm minh, tu hành rất đàng hoàng, chớ không phải nói một đàng làm một nẻo thì không ai tin, lần lần người ta phát hiện ra hết.
“Chẳng được quấy nói Phật pháp, người hỏi đáp bậy, khoe mình đa văn, cầu người cung kính.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nói không đúng nên sai tông chỉ, chẳng chỉ khiến người khinh dễ mà sợ còn chuốc lấy quả báo khó mà tránh.”
Nói sai tông chỉ, chẳng hạn nói thiền là gì, quý thầy lúng túng đưa cái đồng hồ lên. Chưa ngộ mà khai thị giống như Thiền sư vậy thì trật. Biết chắc chắn thì mới trả lời, nếu không thì nói tôi chưa biết, để tôi hỏi lại Thầy Tổ.
“Chẳng được đưa hộp lễ qua lại bắt chước người thế tục, chẳng được coi ngó việc nhà người. Có ba lỗi: Thứ nhất là mình sanh lòng tham, thứ hai là người trong nhà chê ghét, thứ ba là người ngoài phỉ báng.”
Người thế tục đi vắng, nhờ quý thầy về coi nhà dùm thì không được.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Thiên tánh chí thân nhẫn tâm cắt ái là vì cầu đạo nghiệp, phải nên dứt trừ tất cả các duyên, dõng mãnh tham học may ra mới báo ân cửu địa. Nếu thân, tuy xuất gia cùng với người tục không khác thì hôm nay đến nhà lão gia nói việc, ngày mai đến nhà tướng công phan duyên, việc bổn phận của chính mình trọn chẳng có đề khởi. Một mai già bệnh đến nơi nằm trên giường bệnh, lão gia, tướng công thay thế ông chẳng được.”
Có nghĩa là mình không lo tu.
Cho nên trong bài “Minh” của Thiền sư Tri Độn đời nhà Tấn, ngài dạy:
Khanh đã đi xuất gia,
Hằng xa lìa cha mẹ.
Cạo tóc bỏ hình hài,
Áo pháp khoác trên mình.
Ngày giã từ thân thuộc,
Cha anh lệ tuôn rơi.
Tôi chứng kiến lúc quý thầy cạo tóc, cha mẹ ở ngoài khóc rất nhiều. Họ nghĩ, người này sống cũng như chết rồi, vì ba bốn năm mới về, nhiều khi không về nữa. Như tôi xuất gia gần mười bốn năm mà chưa từng gặp lại cha, bởi vì một năm cha tôi mới về nhà một lần vào dịp Tết, về mấy ngày lại đi. Ngày tết ở Thiền viện Thường Chiếu và Thiền viện Trúc Lâm không bao giờ cho về nhà, thì sao mà gặp?
Cắt lìa tình ái trọng đạo,
Ý vượt khỏi trời xanh.
Mình cắt lìa cha mẹ, anh chị em, ý mình vượt thoát khỏi trời xanh, ý đó rất cao xa, diệu vợi, hướng thượng. Cho nên ngài nói tiếp:
Nên tuân giữ trí này,
Kinh đạo phải hiểu rõ.
Sao nỡ để vô tâm,
Bám víu vào thanh sắc,
Rong ruổi suốt đêm ngày,
Kinh nghiệp không thành tựu,
Đức hạnh ngày tiêu hao,
Nhơ nhuốc chứa đầy bụng,
Thầy bạn thêm tủi hổ,
Phàm tục lại khinh khi,
Người xuất gia như thế,
Luống tự chuốc nhơ danh.
Đời nay nên cố gắng
Phải lo tự kiên tin
Minh rằng:
Khanh đã xuất gia cầu giải thoát,
Ân sinh thành dứt khoát giã từ.
Tóc râu cạo bỏ dung tư,
Ca-sa pháp phục kể từ đây mang.
Ngày từ giã họ hàng thân thích,
Bậc cha anh cảm kích lệ rơi.
Dứt tình ân ái với đời,
Đạo vàng kính chuộng nào rời phút giây.
Ý vượt khỏi trời mây xanh biếc,
Trí tuân theo tha thiết giữ gìn.
Luật kinh đạo lý tinh minh,
Vô tâm sao nỡ để tình vấn vương.
Bài này ngài nói, khi xuất gia rồi thì ý vượt khỏi trời xanh, trí tuân theo tha thiết giữ gìn, tức là ba y, bình bát, luật, kinh, đạo lý phải rõ ràng. Vô tâm sao nỡ để tình vấn vương, nghĩa là mình vô tâm, đã bỏ cha bỏ mẹ rồi mà lại kết nguyền với người thế tục nữa thì không được.
“Chẳng được kết nguyền với người bạch y làm nghĩa cha, mẹ, chị, em.”
Trong Bộ Hành Hộ nói:
“Người xuất gia bỏ nghĩa song thân, dứt tình ân ái vào chốn lan-nhã, tu pháp tam muội, lại kết nguyền họ khác làm cha, làm mẹ, làm anh, làm em thật là điên đảo, đều do cái niệm ban đầu xuất gia chẳng chơn thật mà chẳng tự có tỉnh.”
Người xuất gia bỏ nghĩa song thân, rồi dứt các tình ân ái vào chốn lan-nhã tức là vào chỗ vắng bóng người, tu pháp chánh định, mà lại kết nguyền làm cha, làm mẹ, làm anh, làm em thì thật là điên đảo.
Ngày xưa, tôi vào Thường Chiếu, có một người cũng lớn tuổi ở Thủ Đức, họ gặp tôi ở nhà khách, rồi nhận tôi làm con, tôi nói cha mẹ tôi bỏ hết rồi. Lúc đó, dù chưa học oai nghi phép tắc nhưng tôi biết là không được. Quý thầy dạy là mình đã bỏ cha mẹ, bỏ gánh nặng rồi, nay lại đeo vào. Những người đến với mình, mình biết đây là cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp, và coi tất cả mọi người giống như chúng sanh vậy thôi. Hướng dẫn họ thì đúng, còn kết nguyền cha, mẹ, anh, em thì trật với pháp xuất gia.
Trong Lâm Tế Ngữ Lục, Tổ dạy:
“Các ông chớ nhận những bạn bè mộng huyễn, vì sớm muộn gì cũng trở về vô thường. Ông nhằm trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? Tìm lấy miếng cơm, manh áo qua ngày ư?”
Bạn bè mộng huyễn, sớm muộn cũng trở về vô thường. Mà nhằm tìm cái gì? Chẳng lẽ tìm manh áo, miếng cơm? Nhận cha, nhận mẹ cũng là tìm miếng cơm, manh áo thôi. Người ta cúng dường, rồi kết nguyền cha mẹ, anh em! Mình có túc duyên được Hòa thượng lo lắng, cho nên mình không cần. Đa phần quý thầy lên thành phố học, ai cũng đều nhận cha mẹ, anh chị em mới có tiền ăn học, mà nhận một thời gian rồi thì tự nhiên trở thành người thế tục! Tìm miếng cơm manh áo ư? Thì phải tìm thôi!
“Cần phải tìm hỏi các bậc tri thức, chớ đuổi theo những thú vui. Thời giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, thô thì bị đất, nước, gió, lửa; tế thì bị bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt ép ngặt.”
Quý thầy đủ duyên vào học Phật pháp, sau này nếu hết duyên ở thiền viện, quý thầy nhớ đi đâu cũng đến các thiền viện trong tông môn của Hòa thượng ở, chứ quý thầy mà ra học ở các trường thế nào cũng nhận cha mẹ, anh em… Tôi quen nhiều thầy ra học một thời gian đều có cha mẹ, anh em hết. Bỏ cha mẹ ruột rồi nhận người khác thì không đúng.
“Chẳng được nói việc tội lỗi trong chúng tăng.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nếu cùng với người tục đàm luận phải dùng lời nói đạo lý phát lòng tin đó, nếu nói lỗi trong chúng tăng như lấy dao bén mà đoạn tín căn kia. Song người chưa phải bậc Thánh hiền mấy ai khỏi tội lỗi? Như Tổ Ca-diếp còn có lỗi đứng dậy mà múa; vua Nghiêu, vua Thuấn chưa khỏi những tiếng chê, ta không mắt huệ đâu biết xét chi phải hay quấy. Đức độ chúng Tăng to lớn như biển, Phật còn khen ngợi. Nếu ta chỉ trích tự mắc khổ báo vậy.”
Chẳng hạn, mình có nhân duyên nào đó về nhà cư sĩ ở, rồi nói tôi thấy thầy Tri khố làm làm vậy chứ không lo cho chúng Tăng gì hết, hoặc mình nói thầy Tri khách tiếp khách rồi còn tiếp những người gì gì đó…, ta không mắt huệ đâu biết xét chi phải hay quấy, không có mắt huệ mình không biết, làm đoạn tín căn của người ta.
Ngày xưa, có một thầy trước khi xin xuất chúng hoàn tục ra đời không tu nữa, thầy đến trước tôi sám hối và khóc rất nhiều, tôi ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao sư huynh lại sám hối mà khóc vậy?
Ông nói:
– Con chuẩn bị đi nên con đến trước thầy con sám hối, con rất sợ tội lỗi. Ngày xưa, con thấy thầy mà ngồi trên bàn học là con ghét chịu không nổi, bởi vì con sợ thầy học rồi sau này thầy hơn con. Bây giờ con thấy hổ thẹn quá, con đến con sám hối trước thầy.
Mà không ngờ, khi cầm quyển kinh lên đọc, tôi phát nguyện: “Tôi muốn học quyển kinh này để tìm hiểu Đức Phật nói gì, để chuyển hóa nội tâm và tìm cách giúp đỡ những người khác.” Đó là đại nguyện, mà không biết lại sanh tâm tật đố, sợ người ta học rồi hơn mình. Nhiều khi mình nói xấu, ông thầy đó học vì danh, vì lợi gì đó…, chết quý thầy liền! Trong tâm thức của người đó phát đại nguyện như thế nào, rồi nguyện lực, trí nguyện, bi nguyện ra sao mình đâu biết, vô tướng mà. Cho nên phải rất cẩn thận.
Đức độ của chúng Tăng to lớn như biển, Phật còn khen ngợi. Nếu ta chỉ trích tự mắc khổ báo vậy. Phật còn khen ngợi phước của chúng Tăng. Sau khi Phật thành đạo, Di mẫu cúng dường Phật một tấm y nhưng Phật không nhận. Phật nói, cúng dường chúng Tăng. Năng lực của Phật là năng lực của bậc toàn giác mà ngài nói chưa bằng phước lực của chúng Tăng, huống chi mình là phàm phu. Cho nên không được nói lỗi chúng Tăng.
“Luật nói trụ ở nhà bạch y có năm lỗi:
1- Mỗi mỗi thấy nữ nhơn.
Ở nhà bạch y thì con, cháu người ta đi ra đi vào, quý thầy nhìn thấy, lâu ngày chầy tháng sanh tâm nhiễm ái, nhiễm trước.
Đây tôi kể một câu chuyện. Có một thầy, ông về nhà một vị cư sĩ để dưỡng bệnh, cha vị này đã xuất gia, dặn con gái hằng ngày đem cơm cho thầy. Đem cơm vào thì hằng ngày phải nhìn thấy, đúng một tháng thầy chụp tay cô gái nói: “Thầy thương em quá!” Cô này biết Phật pháp, cô kể: “Tôi giật tay lại, nói thầy đã vào nhà con mà bây giờ thầy còn sanh tâm này nữa.” Cuối cùng vị thầy đó xấu hổ rời đi.
2- Dần dần thân cận lẫn nhau.
3- Cùng nhau thân hậu.
Có nghĩa là cùng nhau phạm giới.
4- Dần dần sanh ý dục.
5- Phạm nhiều tội trọng.
Tôi kể thêm nữa, có một thầy, sau khi ra đời ông kể lại, ông lên thành phố, có chùa quen không xin ngủ mà đến nhà Phật tử cư sĩ ngủ. Bữa nọ ông đang coi phim đồi trụy, nghe tiếng động ông nhìn qua nhà tắm ông thấy, rồi phạm giới ra đời luôn! Cho nên năm điều này quý thầy phải nhớ, phải khắc sâu, phải tránh.
Trong Minh Tường Ký có ghi:
Đời nhà Tống có một vị Tăng tên là Huy, vì vua triệu về kinh nên cư sĩ Trương Du thỉnh đến nhà cúng dường. Tăng không có bệnh gì mà chợt chết hai ngày sau mới sống lại. Cư sĩ Trương Du hỏi:
– Tại sao thầy không có bệnh mà thầy ngã ra chết đến hai ngày, tôi chuẩn bị tẩn liệm.
Vị Tăng kể:
– Sau khi chết thấy năm người lạ đến trói tôi rồi dẫn đến một cái thành. Chợt thấy trong rèm có một vị quan cầm bút, lại có một người mặc áo đen đội mão đến nói trên rèm không có tên người này (tức là không có tên trong sổ bộ). Giám cung mới nói sát quỷ vì sao lạm hình đem người này đến, bèn dùng roi mà đánh. Trong giây lát có người khiến tôi gọi Thiên đế. Đế nói: “Ông là Sa-môn sao chẳng tự siêng tu tịnh nghiệp mà bị tiểu quỷ nó bắt ngang ư? Chỉ mạng chưa hết khiến phải sống lại. Phải siêng tinh tấn chớ dạo chơi nhà bạch y, sát quỷ bắt người cũng nhiều lạm hình oan uổng ví như ông.” Nói rồi bèn sai khiến dắt trở về, lại đến nhà của Du vậy.
Rồi từ đó về sau ngài ráng tinh tấn tu học để trở thành một vị cao tăng.
Trong kinh Tương Ưng Bộ V, chương VIII, phẩm Độc Cư, Phật dạy:
Một thời Tôn giả A-ru-gia-na trú ở Sa-va-thi, tại đây Tôn giả gọi các Tỳ-kheo:
– Này Chư hiền! Ví như sông Hằng chảy về hướng đông, xuôi về hướng đông, rồi một số đông quần chúng đến và nói: Chúng ta sẽ làm cho sông Hằng chảy về hướng tây. Thưa Chư hiền! Chư hiền nghĩ sao? Số đông quần chúng ấy có thể làm cho sông Hằng chảy về hướng tây được không?
– Thưa không, Hiền giả! Vì không dễ gì khiến cho sông Hằng chảy về hướng tây được, và quần chúng ấy chỉ mệt nhọc và tổn não mà thôi.
– Cũng vậy, này Chư hiền! Tỷ-kheo tu tập tứ niệm xứ, làm cho sung mãn tứ niệm xứ, dầu cho vua chúa hay đại thần, thân hữu hay bà con có thể đến dâng tài vật và mời gọi: “Hãy đến này người tốt kia! Sao lại đi biểu diễn với đầu trọc và bình bát, hãy hoàn tục thọ hưởng các tài vật và làm việc phước đức.” Thưa Chư hiền! Tỷ-kheo ấy được tu tập tứ niệm xứ, được làm cho sung mãn tứ niệm xứ thì không thể từ bỏ giới trở lui để hoàn tục. Vì sao? Này Chư hiền! Vì tâm người ấy đã lâu ngày hướng về viễn ly, xuôi về viễn ly và thế nào là tu tập tứ niệm xứ. Này Chư hiền! Tỷ-kheo chú quán thân trên thân, quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Ở đây ngài dạy, chúng ta lui tới nhà cư sĩ bạch y một thời gian thì tự nhiên nhàm chán pháp xuất gia. Người ta nói, thôi thầy ra đời đi, hoàn tục với tôi đi, đừng có tu chi cho khổ nữa, thì quý thầy bảo đảm hoàn tục liền. Bởi vì mình không có nhiếp phục tứ niệm xứ.
Tứ niệm xứ là gì? Là thân mình đi, đứng, nằm, ngồi tỉnh giác để chuyển hóa những niệm tham dục. Phật dạy người mà trú về pháp tứ niệm xứ hoặc một ngày đến bảy ngày thì bước vào quả vị Thánh. Tức là trú về pháp quán thân trên thân, quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên tâm. Tâm còn tham mình biết, tâm còn sân cũng biết, tâm như thế nào đều rõ biết để mình biết cách kiểm soát tâm niệm, chuyển hóa tâm thức thì dầu cho một lúc nào đó, quý thầy đến nhà cư sĩ người ta mời mọc hoàn tục thì quý thầy cũng cười thôi. Bởi vì sao? “Này Chư hiền! Vì tâm người ấy đã lâu ngày hướng về sự viễn ly, xuôi về sự viễn ly.” Tức là xa lìa hết những khát ái ở thế gian và tu tập trên con đường Thánh pháp.
19. Đi Khất Thực
Khi Đức Thế Tôn chưa ra đời thì bên Ấn Độ đã có các hàng Bà-la-môn ngoại đạo đi khất thực. Thái tử Sĩ-đạt-đa đi dạo mấy cửa thành, thấy một vị Sa-môn khất thực, Thái tử mới khởi tín tâm. Sau khi thành tựu đạo nghiệp rồi, Đức Phật cũng dùng phương pháp khất thực.
Dân xứ Ấn Độ rất kính những người hành pháp khất thực, ngược lại, qua Trung Hoa, đời của Hoàng hậu Võ Tắc Thiên thì đi khất thực là không hợp pháp, cho nên những tùng lâm lớn được lập ra. Xứ mình bây giờ vẫn còn rải rác. Lên Sài gòn cũng thấy có một số vị đi khất thực, như bên hệ phái Khất sĩ, Nam Tông họ cũng đi khất thực.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Khất là xin, thực là ăn. Có nghĩa là trên thì cầu xin giáo pháp của mười phương chư Phật, dưới thì cầu xin nhiếp phục tâm kiêu mạn của chính mình.”
Nếu còn tâm mắc cỡ, thì quý thầy đi khất thực không được. Đến trước nhà người ta, có lúc họ không cho gì hết, chứ không phải mình đến là họ cho liền. Cho nên, đi khất thực để nhiếp phục tâm ngã mạn.
Vào thời Đức Phật chỉ ăn một bữa ngọ. Thầy Tỳ-kheo sáng ôm bình bát đi khất thực, giữa trưa về thọ trai xong rồi cất bình bát luôn chứ không được đi nữa.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 47 có ghi rõ về phương pháp khất thực:
Một thời Phật ở tại thành Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ ông Cấp Cô Độc, bấy giờ Thế Tôn nói với các thầy Tỳ-kheo:
– Ta thường ăn một lần ngồi nên thân thể nhẹ nhàng, khí lực khỏe mạnh. Tỳ-kheo các ông cũng nên ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng, khí lực khỏe mạnh để có thể tu phạm hạnh.
Một số thầy Tỳ-kheo phản đối, nói rằng sức thanh niên, một ngày ăn một bữa thì không chịu nổi. Trong lục quần Tỳ-kheo, có một thầy Tỳ-kheo tên là Ca-lưu-đà-di đi khất thực vào canh chiều. Buổi chiều đó trời mưa rất lớn thêm có sấm chớp, thầy Ca-lưu-đà-di da rất đen, nên khi người vợ đang mang thai của một vị trưởng giả nhìn thấy thầy, tưởng là quỷ, bà la lên nên bị sẩy thai. Dân thành Xá Vệ phao tin là các thầy Tỳ-kheo ăn suốt ngày, không lo tu phạm hạnh nên mới xảy ra trường hợp này. Câu chuyện đến tai Đức Thế Tôn, Ngài liền đi đến giảng đường, ngồi xuống giữa, nói với các thầy Tỳ-kheo:
– Chư Phật trong thời quá khứ xa xưa đều chỉ ăn một lần ngồi, các Thanh văn cũng ăn một lần ngồi, chư Phật và các đệ tử trong tương lai cũng ăn một lần ngồi. Vì sao? Vì đó là pháp yếu để hành đạo. Hãy ăn một lần ngồi! Nếu ai có thể ăn một lần ngồi, thân thể nhẹ nhàng, tâm được mở tỏ. Do tâm được mở tỏ mà được các thiện căn, do được các thiện căn mà đắc tam muội, do đắc tam muội mà như thật biết. Như thật biết những gì? Như thật biết về Khổ, về Tập, về Diệt, về Đạo.
Sau khi Đức Phật nghe dân Xá Vệ phao tin như thế, ngài họp các thầy Tỳ-kheo và dạy chỉ ăn một lần ngồi, nghĩa là “nhất tọa nhất thực.” Nhưng khi qua xứ Trung Hoa, chư Tổ thấy chúng sanh vào thời tượng pháp và mạt pháp thân thể yếu quá, không bằng người xưa nên các ngài khai ra, các ngài chế cho ăn buổi sáng. Bên Trung Hoa buổi sáng ăn cháo, bữa trưa là bữa ăn chính, buổi chiều uống bột hoặc uống sữa. Những Tùng lâm có làm việc thì khai ra, cho ăn buổi chiều nhưng cảm thấy rất là hổ thẹn, giống như mình đang uống thuốc.
Đức Phật dạy, chỉ ăn một lần ngồi không phải do ức thuyết mà ngài chứng nghiệm được bằng Phật nhãn. Đức Phật sáu năm khổ hạnh, ăn ngày chỉ có một hạt mè nên không đạt được đạo quả. Ngài nói, người hưởng thụ dục lạc nhiều quá cũng không đạt được đạo quả. Cho nên Đức Phật lìa hai bên, đi thẳng con đường trung đạo. Ba đời chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng chỉ ăn một lần ngồi, đó là pháp yếu để hành đạo. Thân thể nhẹ nhàng, tâm được mở tỏ thì được các thiện căn, có nghĩa là lục căn được thanh tịnh, thanh tịnh thì dễ đi vào chánh định.
Chẳng hạn, chiều nay làm mệt, rồi mình ăn một tô cơm thì bảo đảm ngồi thiền không được mà sẽ bị hôn trầm. Hôn trầm thì không biết được như thật, là không biết về Khổ. Tinh thần nhà Phật, nêu ra cái khổ không phải để chúng ta chết chìm, hay để chúng ta sầu ưu bi khổ não về cái khổ, mà để nhận chân được là tại sao khổ. Đức Phật nêu ra, do Tập tức là do tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Biết được như thật rồi thì chúng ta tu tập được an ổn, được chánh định. Cho nên Phật nói, chư Phật trong thời quá khứ xa xưa đều chỉ ăn một lần ngồi.
Nếu chúng ta ít làm thì ăn bữa sáng, bữa trưa, chiều uống sữa là khai ra. Nhưng với điều kiện quý thầy ráng cố gắng một lần ngồi một lần ăn, đứng lên rồi là không ăn nữa thì đúng. Ngồi trên quả đường buổi trưa, ăn xong xuống nhà bếp thấy cái gì ngon lại ăn nữa thì sai pháp.
– Các ông những thiện gia nam tử đã xuất gia học đạo, xả bỏ tám nghiệp ở đời mà không biết thời tiết, vậy có khác gì với những con người tham dục kia.
Cạo tóc xuất gia, mặc áo nhuộm khác người thế tục là khác cái gì? Đừng nói nội tâm gì hết, mình khác người thế tục trong việc ăn, uống, ngủ, nghỉ. Người đời ăn sáng, trưa, chiều, tối. Ngủ thì có khi bảy, tám giờ mới dậy. Còn mình, ngủ ba giờ mười lăm dậy là khác rồi. Ăn tiết chế cũng khác với người đời. Họ làm như thế không được cho nên họ mới cúng dường để mình tu học.
Chúng tôi kinh nghiệm bản thân, từ ngày giữ được giới pháp của mười phương chư Phật, việc tu hành rất an ổn. Những hạt giống tham dục ngày càng giảm, rất dễ vô chánh định. Ngồi thiền những vọng tưởng lăng xăng không còn như ngày xưa nữa mà bớt rất nhiều. Đức Phật chỉ phương pháp này là ngài đi bằng con đường chứng nghiệm, thực nghiệm, không phải lý thuyết suông. Tin lời Phật dạy, mình tu đúng pháp thì rất có kết quả.
Phật nói, nếu ăn uống nhiều thì không khác những người tham dục kia. Sở dĩ mình khác những người thế tục là mình ăn có tiết chế, tiết độ.
“Phạm Chí có pháp riêng của Phạm Chí, ngoại đạo có pháp riêng của ngoại đạo.”
Mỗi vị có pháp riêng. Pháp thù thắng của mười phương chư Phật, trong luật gọi là “nhất tọa nhất thực”. Một lần ngồi một lần ăn, đứng lên rồi là không ăn nữa thì đúng pháp yếu của mười phương chư Phật.
Lúc bấy giờ Ưu-ba-ly bạch với Đức Phật:
– Chư Phật trong quá khứ và Chư Phật trong tương lai đều ăn một lần ngồi, cúi mong Thế Tôn hạn định thời gian ăn cho các Tỳ-kheo.
Thế Tôn nói:
– Như Lai cũng đã có nhận thức đó nhưng vì chưa có người sai phạm, phải đợi khi ngay trước mắt có người phạm tội ta mới chế giới luật.
Vào thời Đức Phật, Thánh chúng và những vị tu phạm hạnh rất nhiều, cho nên ban đầu Phật không chế giới. Về sau, có các thầy Tỳ-kheo vào mà nhận thức xuất gia ban đầu chưa có nên rất dễ phạm giới. Vì vậy, Tôn giả Ca-lưu-đà-di thị hiện phạm giới này để Phật chế.
Pháp này là pháp của Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo nào ngồi ăn xong, đứng dậy rồi ăn nữa là phạm luật ba-dật-đề. Cho nên ăn là phải tác pháp Yết-ma trước đại chúng, rằng hôm nay mình bận việc gì đó thì được khai, với điều kiện phải là tri sự hoặc là những vị làm nhà khách. Chẳng hạn, thầy tri sự đang ngồi ăn mà xe gỗ về, thầy phải đứng lên ra đón thì khai ra. Hoặc thầy tri khách đang ăn, khách đến phải bỏ đứng dậy, sau đó ăn tiếp thì không phạm. Còn người ăn trên quả đường, ăn xong rồi xuống ăn tiếp lần thứ hai nữa thì phạm giới, Phật chế giới luật rất là rõ.
Rồi Thế Tôn nói với các thầy Tỳ-kheo:
– Ta chuyên ăn một lần ngồi, các ông cũng nên ăn một lần ngồi. Nay các ông chỉ ăn giữa ngày mà không được quá thời, các ông cũng nên học pháp khất thực. Tỳ-kheo học pháp khất thực như thế nào? Ở đây Tỳ-kheo chỉ vì mục đích duy trì mạng sống, được cũng không vui mà không được cũng không buồn.
Không đi khất thực nhưng mình nên học qua pháp này. Đức Phật dạy, Tỳ-kheo chỉ vì mục đích duy trì mạng sống, nếu mình nhịn không ăn gì thì sao mình sống, sao mình tu?
Bên xứ Tây Tạng lương thực rất khan hiếm, họ tu trên núi cao, nếu ăn suốt ngày thì lương thực đâu mà có? Các vị ẩn sĩ, một tuần lễ họ ăn có ba bánh bột mà họ vẫn sống, tu trên núi tuyết, tuyết đổ xuống mà họ ngồi kiết già không mặc áo.
Lúc còn ở ngoài đời, chẳng hạn như bản thân chúng tôi, ăn buổi sáng, trưa, chiều, rồi tối ăn nữa mà yếu đuối, bệnh tật rất nhiều. Từ khi xuất gia chỉ ăn hai buổi sáng, trưa, buổi chiều nhịn nhưng đâu có bị gì, cũng tu, cũng học, cũng làm việc bình thường.
Ở đây Tỳ-kheo chỉ vì mục đích duy trì mạng sống. Ăn ba buổi quen rồi mà bữa nào không có thì quý thầy cảm thấy đói. Đói do cái gì? Nghiên cứu kỹ, đói là do vọng tưởng, vì mình tác ý đến thì cảm thấy đói. Nhưng nếu tu đúng pháp, là tu con đường thiền định của chư Phật dạy thì ăn, mục đích là duy trì mạng sống, được thì không vui, không được cũng không buồn. Chẳng hạn, bữa nay được người ta cúng giỗ, có món ngon vật lạ thì vui, cười hỉ hả, còn bữa nào không có gì ngon thì mình buồn, đó là tu trật đường.
“Khi được thức ăn hãy tư duy mà ăn.”
Có nghĩa là tư duy thức ăn này từ đâu đến, công của mình nhiều hay ít?
“Ăn không với tâm tham đắm mà chỉ cốt giữ cho thân này được tồn tại, trừ khử bệnh cũ không gây thêm bệnh mới, khiến cho khí lực sung túc, Tỳ-kheo như vậy gọi là khất thực.”
Pháp khất thực dạy, ăn để mà tu, tu để trừ khử bệnh cũ. Quý thầy đừng nghĩ bệnh cũ là bệnh từng mắc trên thân. Trừ khử bệnh cũ, nghĩa là trừ khử những hạt giống bệnh trong thời quá khứ còn tồn đọng lại, đó là bệnh tật đố, ích kỷ, xan tham… Không gây thêm bệnh mới, nghĩa là mình tu tập theo con đường thiện pháp, Thánh pháp của Đức Phật. Được an ổn, bớt rồi thì khí lực được sung túc. Hôm nào không có điều gì thì rất thư thái an ổn, còn hôm nào bị phiền não, ăn vàng ròng quý thầy cũng thấy buồn. Có những người nghèo khổ, chỉ ăn nước tương, rau luộc nhưng gia đình hạnh phúc thì họ cũng cảm thấy an ổn. Cho nên cái ăn không quá quan trọng.
“Tỳ-kheo các ông hãy ăn một lần ngồi. Tỳ-kheo! Thế nào là ăn một lần ngồi? Đã đứng dậy rồi ăn xong không ăn trở lại nữa, nếu ăn là phạm, Tỳ-kheo như vậy gọi là ăn một lần ngồi.”
Rồi Thế Tôn nói bài kệ:
Sanh tử không đoạn tuyệt,
Thảy đều do tham dục.
Oán ghét thêm lớn ác,
Điều người ngu thường làm.
Trong kinh diễn tả, người sắp chết, cận tử nghiệp sắp đến mà khát ái về ăn uống thì người này tức khắc sa đọa ba đường ác. Không chỉ về ăn uống, khát ái bất cứ cái gì thì cảnh đó biến hiện ra để mình tái sanh vào. Cho nên Phật dạy, thiểu dục tri túc thì sanh tử đoạn tuyệt. Không đoạn tuyệt thảy đều là do tâm tham dục của mình.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Khất thực nghĩa là các thức ăn có tận, khất thì vô cùng. Đệ tử Phật thọ thức ăn vô cùng này để tu cái pháp vô tận.”
Kinh Duy Ma Cật kể về hai vị Tôn giả đi khất thực là Tôn giả Ca-diếp và Tôn giả Tu-bồ-đề. Tôn giả Ca-diếp chuyên đi khất thực nhà nghèo, ngược lại Tôn giả Tu-bồ-đề thì đi khất thực nhà giàu. Tại sao các Tôn giả đã chứng quả vị A-la-hán rồi mà còn tâm như thế. Sở dĩ Tôn giả Ca-diếp chuyên khất thực nhà nghèo bởi vì ngài nghĩ, họ nghèo khổ là do trong thời quá khứ họ không biết bố thí cúng dường, nên ngài đến để họ kết duyên lành được sanh về cảnh giới tốt. Trong kinh diễn tả, có một người già cô đơn cúng dường Tôn giả Ca-diếp một thau nước cơm ôi thiu, sau khi Tôn giả Ca-diếp thọ nhận rồi, thì tối hôm đó bà chết sanh về cung trời Đao Lợi. Nhờ phước lực của người chứng quả A-la-hán mà người cúng dường được kết quả thù thắng.
Trong kinh nói, chư thiên thường hay giả dạng những người nghèo khổ xuống thế giới ta bà để cúng dường Tôn giả Ca-diếp. Một hôm Tôn giả Ca-diếp đang đi khất thực thì chư thiên Đế Thích, giả một người nghèo khổ đến cúng dường, lúc này Tôn giả chưa tác ý đến. Sau khi thọ nhận thức ăn, Tôn giả tác ý đến thì biết đây là trời Đế Thích, ngài quở:
– Những người nghèo khổ thiếu phước người ta cúng dường cho có phước, ông thì đầy đủ phước lực mà ông còn giả dạng.
Đế Thích nói:
– Ở trên cảnh trời đó, nếu người nào cúng dường Tôn giả Ca-diếp thì hào quang càng sáng tỏ hơn, sắc thân thù diệu hơn.
Tôn giả Tu-bồ-đề thì cho rằng người nghèo, thiếu thốn, không đủ ăn mà còn phải cúng dường nên ngài đi khất thực những nhà giàu có dư dả.
Cả hai trường hợp Phật đều cấm. Phật dạy đi khất thực là phải bình đẳng, tức là mình đi thong thả, gặp người giàu hay người nghèo cúng dường cũng được.
Sa Di Học Xứ ghi:
Lại có bốn nghĩa:
1- Phước lợi cho chúng sanh.
Người đi khất thực là phước cho chúng sanh. Còn bây giờ không đi mà ngồi tại chỗ được người cúng dường thì cũng giống như đi khất thực.
2- Chiết phục ngã mạn.
Tôi có quen một thầy, ba tháng an cư thầy hay lên Trúc Lâm nhập hạ. Thầy kể, có lần đi khất thực đến nhà một người tín thí, bà này cũng nghèo, bà ra vườn hái một trái đu đủ thật lớn bỏ vô bình bát. Đầy vun rồi khất thực gì nữa, cho nên phải đi về.
Em ruột tôi tu pháp khất thực, kể lại, có một bữa đi khất thực, đến nhà kia họ ra cúng một trái dừa khô. Quý thầy nhớ, pháp khất thực, bữa đó về không được ăn cơm mà ăn nguyên trái dừa khô! Nếu trong lúc đó mà có tâm ngã mạn, tâm sân hận thì sao mình nhiếp phục chúng sanh được. Cho nên khất thực là chiết phục tâm ngã mạn.
3- Biết thân có khổ.
Đi khất thực, không phải bước ra đường là có người cúng dường liền. Có những bữa mười một giờ trưa rồi mà chưa có một hạt cơm trong bình bát, chính em tôi kể lại. Lúc này mới cảm thấy cái thân là khổ, mới quán chiếu được sâu sắc lời Phật dạy. Cho nên biết thân là khổ.
Pháp khất thực nếu chịu tu cũng hay, có một cái gì đó để nâng cấp độ sự tu hành của mình lên. Còn mình, mở mắt ra có cơm ăn, có áo mặc, mà tu tập nhiều khi cũng còn yếu nữa. Tự mình đi mới biết phước lực mình như thế nào. Có những vị thầy thiếu phước đi khất thực không có gì hết.
Vào thời Đức Phật, có một vị đệ tử của ngài Xá-lợi-phất đi khất thực là không bao giờ có. Khi tín thí đến nhìn bình bát thì thấy cơm đầy rồi nên người ta không cúng nữa, nhưng vì nghiệp lực, về tới nhà là cơm biến mất. Mỗi người có nghiệp riêng, phước riêng. Có những người phước lực kém, mỗi khi cúng đám, họ ăn chỉ được một chén, đến chén thứ hai tự nhiên đau bụng không ăn được nữa.
Cùng nhau ăn uống, người nào nghiệp kém, phước kém thì nhờ đại chúng. Phước kém mà quý thầy ra cất thất thì không có ai hộ. Nhờ Hòa thượng, nhờ thầy Trụ trì, phước lực của các ngài mạnh quá cho nên người ta đến cúng dường, mình thọ hưởng chung rồi tu tập, chứ một mình ở ngoài thì ít người cúng dường lắm.
4- Trừ bỏ bệnh chấp trước.
Vì thế Phật chế ra pháp đi khất thực này.
“Phải cùng bậc lão thành đồng đi.”
Đi khất thực theo những vị thầy lớn trong chúng thì mới có thức ăn. Ở Thiền viện Trúc Lâm, không đi khất thực, mà nương bóng của các ngài cho nên mình tu học được. Phật tử đến Thiền viện Trúc Lâm không ai biết mình, chỉ biết Hòa thượng, biết Thầy trụ trì thôi.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Người trì giới có thể tin. Đi cùng người này thì chẳng có sanh tội lỗi.”
Đi khất thực với người trì giới thanh tịnh thì tâm thức được an ổn. Còn đi với người phạm trai phá giới nhiều khi họ rủ mình phạm chung nữa.
Trong Thánh Giáo Luận có ghi:
“Khất thực năm chỗ chẳng có thể trụ:
Học qua để chiêm nghiệm. Không phải đi khất thực nhưng đi thành phố trị bịnh mình cũng không được ghé những chỗ này.
1- Nhà hát xướng: Nghĩa là nhà hát xướng chỉ chấp giữ các sự vui thích, hay loạn thiền định.
Những nơi ca, múa không được vào.
2- Nhà dâm nữ: Nghĩa là đi đứng chẳng thanh tịnh, thanh danh bất chánh, chướng căn bổn đạo nghiệp.
Nhà dâm nữ lại càng không đến, bởi vì thanh danh bất chánh. Dầu cho giữ giới thanh tịnh tới đâu đi nữa mà mình đến những nhà này thì người ta nghi kỵ, lại phá kiến chúng sanh, chướng căn bổn đạo nghiệp.
3- Nhà bán rượu: Nghĩa là rượu là nhân duyên khởi tội hay phá hoại thiện pháp, cho nên không được ghé.
4- Cung điện nhà vua: Nghĩa là chỗ nội đình nghiêm cấm chẳng có thể mạo hiểm vào.
5– Nhà hàng thịt: Nghĩa là sát tâm rất mạnh.
Thấy người từ tâm không có tín căn, nếu không có bậc lão thành đồng đi phải biết lìa năm cái nhà này.”
Năm nhà này là không được đến, dầu không đi khất thực cũng không được đến.
“Nhà không có con trai chẳng được vào cửa, thứ nhất là khiến người nghi chê, thứ hai là phòng cái nạn phạm hạnh.”
Quý thầy chắc ai cũng nhớ câu chuyện của Tôn giả A-nan. Hôm ấy Tôn giả A-nan đi xa về không được theo thứ lớp khất thực, tức là không được theo những bậc trưởng lão đi khất thực mà đi một mình. Trên đường về tôn giả khát nước, nhân đi ngang một cái giếng, tôn giả thấy một cô gái dòng hạ tiện đang kéo nước, ngài ghé vào xin nước uống. Cô gái, tên là Ma-đăng-già, sau khi gặp và dâng nước cho tôn giả A-nan, cô khởi tâm tham dục, về nhà mắc bệnh tương tư. Cô nhờ mẹ dùng bùa chú dụ Tôn giả A-nan vào định phá phạm hạnh của ngài.
Ma-đăng-già là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Chơn tâm, nói khác hơn là Phật tính. Có nghĩa là từ con đường mê muội, từ con đường tham dục xấu ác, nếu một phen chuyển hóa nhận diện ra được thì tức khắc trở thành thánh nữ. Sau khi nghe Đức Phật thuyết một bài pháp: Dục là khổ, dục là nạn chướng thì tức khắc bà chuyển hóa thành thánh nữ A-la-hán, trước Tôn giả A-nan.
Câu chuyện của Tôn giả A-na-luật:
Tôn giả A-na-luật đi khất thực, khuya quá ghé nhà dâm nữ nghỉ. Tối đến dâm nữ xuống để phá phạm hạnh của Tôn giả thì ngài trổ nóc nhà bay lên hư không.
Cho nên Phật chế giới từ đây sắp lên, nếu nhà nào không có con trai thì chẳng được vào cửa.
“Hoặc muốn ngồi, trước phải coi chỗ ngồi, có đồ đao binh không nên ngồi, có vật báu không nên ngồi, có đàn bà may vá áo chăn không nên ngồi.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nhà không có con trai chẳng có thể vào cửa. Dù có con trai cũng phải quán sát chỗ ngồi. Dao búa, cung tên ngồi thời chắc có hại hoặc khiến người sanh tâm buồn và giận cho nên chẳng nên ngồi. Vật báu và đàn bà may vá áo chăn ngồi thời khiến người chê, và người chủ kia sau này có mất món chi họ đổ thừa nghi cho mình lấy.”
Nhà nào có vật báu hay đàn bà mình phải tránh.
“Khi muốn nói kinh phải biết thời đáng nói và thời không đáng nói. Chẳng được bảo cho ta ăn khiến người được phước. Phàm đi khất thực, chẳng được năn nỉ xin hoài. Chẳng được rộng nói nhân quả mong người cúng nhiều. Được của cúng nhiều đừng sanh tâm tham đắm, được ít chớ có ý buồn.”
Muốn nói kinh phải biết thời, đáng nói thì nói mà không đáng nói thì nín. Đến nhà tín thí mình không được nói bây giờ cho tôi ăn đi, cúng dường được phước như thế này thế nọ, được sanh thiên… Nói như thế là phạm vào giới luật của Phật. Cũng không được nói về nhân quả, cúng dường được cái gì, mà để người ta tự phát tâm, chừng nào người ta phát tâm cúng xong, rồi người ta tha thiết nhờ mình nói một bài pháp ngắn nói thì không phạm.
20. Vào Tụ Lạc
“Không có việc chi cần thiết thì đừng vào tốt hơn.”
Ở thiền viện mà đi ra chợ, vào thôn xóm, không có việc chi cần thiết thì đừng đi tốt hơn. Chẳng hạn, quý thầy đã ở Thiền viện Trúc Lâm một hai năm rồi, hôm nào có duyên đi đâu xa thì khi trở về quý thầy tu ít lắm cũng bốn, năm ngày mới lại công phu. Cho nên có việc cần lắm chẳng hạn như đi khám bệnh, tri khố đi chợ v.v… thì không sao. Còn không có việc gì, ở yên đây là tốt hơn.
Có phước duyên được ở yên trong nội viện rất là dễ tu, quý thầy phải ráng tu ráng học, mai kia ra làm việc thì sự tu bị giảm rất nhiều. Bây giờ cho tôi vào nội viện tu mà làm hành đường, trị nhật, quét cầu tiêu v.v… tôi thấy còn hạnh phúc hơn là làm ở nhà khách, đủ thứ chuyện trên đời. Giải quyết không rồi thì Hòa thượng rầy, mà rầy suốt thì mình cũng tổn phước.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Như không có việc cần thiết không được xông vào tụ lạc làm nhơ lục căn hoặc bị người hiếp đáp.”
Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua xứ Trung Hoa, ban đầu ngài dạy thiền thôi chớ không dạy võ thuật. Nhưng chư tăng mỗi lần đi chợ là bị cướp giựt, bị đánh. Chúng Tăng ngồi thiền bị hôn trầm nên ngài dạy phương pháp để bớt hôn trầm, và cách đỡ, gạt hoặc chạy khi bị đánh, khi bị người hiếp đáp, chẳng hạn phương pháp Thập Bát La Hán Quyền.
Thời nay ít, vào thời Sơ Tổ qua xứ Trung Hoa thì anh hùng hảo hán rất nhiều, chùa ở xa thành thị, một lần xuống núi là phải đi năm sáu người chứ đi một hai người là bị cướp. Tổ thương xót chúng tăng nên chỉ ra những phương pháp đó.
Ngài Hàn Sơn nói:
Người xuất gia đời sau,
Sát, tình, si nhập cốt.
Xưa nay cầu giải thoát,
Bỏ ấy nhận rong tìm.
Trọn dạo nơi nhà tục,
Lễ niệm làm oai nghi.
Tiền nhiều mua rượu uống,
Khách trở lại thành con.
Ngài Hàn Sơn thương xót mình ngài nói, người xuất gia đời sau (tức là mình đó), sát tình si nhập cốt. Xưa nay cầu giải thoát mà bỏ cái giải thoát nhận cái sự rong tìm. Rong tìm nghĩa là đi đến nhà thế tục. Để làm gì? Người ta cúng dường, tiền nhiều không biết làm gì rồi sanh tật, tiền nhiều mua rượu uống thôi chứ có làm gì đâu, rồi khách trở lại thành con.
Kinh Phật Thoại dạy:
“Tỳ-kheo ở tụ lạc dầu thân khẩu nghiệp tinh tấn, chư Phật thường lo. Tỳ-kheo ở núi rảnh việc nằm không, chư Phật đều mừng.”
Một hôm Đức Phật dẫn Tôn giả A-nan đi ngang qua một khu rừng nọ, thấy một thầy Tỳ-kheo nằm ngủ ngáy, Phật cười. Đi một đoạn, xuống tụ lạc thấy thầy Tỳ-kheo ngồi thiền, Phật nhíu mày. Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Tại sao Thế Tôn thấy thầy Tỳ-kheo ngủ dưới gốc cây mà Thế Tôn cười vui, còn thầy này ngồi thiền rất tinh tấn Thế Tôn lại nhíu mày?
Phật nói:
– Thầy Tỳ-kheo ở núi ở rừng ngủ dậy thì có thể ngồi thiền, nếu không ngồi thiền thì cũng đi lẩn quẩn trong núi trong rừng thôi chứ không biết đi đâu. Còn thầy Tỳ-kheo ở tụ lạc ngồi thiền rất tinh tấn nhưng xả thiền ra có khi đi bậy nữa, cho nên Như Lai nhíu mày.
Mình chưa chứng quả Thánh mà. Cho nên Cổ Đức nói:
Tăng ở thành đô Phật Tổ rầy,
Chư hiền đều ẩn chốn am mây.
Non cao suối chảy về hạ thế,
Trong vắt y nguyên hóa đục nhầy.
Ý nói dầu cho thanh tịnh cách mấy, tu tinh tấn cách mấy thì một thời gian: trong vắt y nguyên cũng đục nhầy, bị thế tục làm cho nhơ nhiễm. Có những người ngày xưa rất tinh tấn, nhưng về chốn đô thị tu một thời gian rồi lên thăm, tôi thấy khác xưa rất là rõ.
Nếu sau này không đủ duyên tu ở tùng lâm nữa, thì quý thầy phải tìm núi non nào tu, đừng có về thành phố, rất khó tu. Tôi hay lên chùa thành phố, như đi trị bệnh, ở một hai ngày tôi chịu cũng không nổi, quý thầy biết sao không? Nhà dân sát bên, chiều lại họ nấu cơm hay xào món gì đó, khói bốc thơm lừng, rồi sao ngồi thiền? Nội cái trược đó không cũng khó ngồi thiền. Rồi có những trường hợp, đứng trên lan can nhìn xuống nhà kế bên mình thấy hết luôn rồi hỏi làm sao tu? Mà ở đời người ta nói, tai nghe không bằng mắt thấy, tai nghe nói chuyện gì thì tối mình quên nhưng mắt thấy thì năm sáu ngày, có khi cả tháng trời cũng chưa hết. Rất là khó.
Theo Lăng Già Sư Tử Truyện, có một vị Tăng hỏi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn:
– Kẻ học đạo tại sao không nên ở xóm làng, thành thị mà phải ở trên núi tu?
Tổ đáp:
– Cây gỗ để dựng nhà lớn vốn từ rừng sâu mà ra chớ không có nơi nhân gian. Do ở xa con người nên không bị dao búa chặt đẽo thương tổn, sau khi đã thành cây to mới kham nổi dùng làm rường cột. Do đó mới biết rằng gởi thân ở hang sâu là xa lánh bụi bặm, còn dưỡng tánh nơi núi cao thì tránh xa thế tục. Trước mặt không có vật gì thì tâm tự an ổn, từ đó cây đạo trổ bông, rừng thiền ra trái vậy.
Có nghĩa là cây gỗ lớn muốn được làm rường cột thì mình phải ở núi, ở hang sâu rừng thẳm tu một thời gian.
Bên Tây Tạng , có một người tu mười hai năm liên tục trong tu viện không được bước ra ngoài. Khi chuẩn bị đi làm Phật sự, thì vị Đạt-lai Lạt-ma thứ mười bốn cho vị đó nhập thất ba năm. Tùy theo phương thức nhập thất, chẳng hạn người nhập thất mà muốn không nhìn thấy ai hết thì người ta làm cái nhà lửng chôn xuống, chừa cái lỗ để đưa cơm vào. Đến ngày thứ bảy mà thấy cơm vẫn còn thì một vị Lạt-ma, một vị trưởng lão sẽ đục cái lỗ nhìn vào coi thử người nhập thất ngồi thiền hay làm gì. Nếu thấy ngồi thiền yên thì sẽ vào coi thử nhập định hay không (nếu người này chết rồi, thì lấp chôn thành cái mồ luôn). Đúng ba năm sau mở thất ra, nghĩ lúc này là trưởng dưỡng thành tựu rồi thì mới cho làm Phật sự.
Nhiều vị tu cũng có tiến chứ không phải không, nhưng mà mới có hườm hườm, đi làm là thua! Bị gì? Bụi bặm thế tục trần gian nó làm nhiễm rồi từ đó mất công phu.
Cho nên trong bài Khuyến Trụ Tùng Lâm của Thiền sư Lai Quả có ghi:
“Tăng sĩ khắp thế gian lênh đênh lưu lạc không có chỗ cố định, thật đáng thương xót. Phải biết tùng lâm là hang pháp hoằng đạo lợi sanh, là đạo tràng của minh tâm kiến tánh, như áo có bâu, như lưới có giềng, thân tâm an lạc, ăn uống điều hòa. Người có đạo thì khuyến khích họ dụng công sâu thêm, người không có đạo thì cảnh sách họ tiến lên. Như tre đầy rừng tranh nhau mọc cao, như cây tùng của rừng lớn thi nhau hùng dũng vươn lên, chẳng phụ bốn ơn, làm quang vinh ba cõi, thật là đất Tăng bảo của Tăng sĩ vậy.”
Thiền sư Lai Quả cảm thán được chỗ này, ngài nói Tăng sĩ bây giờ đi lang thang khắp nơi, không có nơi cố định. Cho nên ngài khuyên, còn nhỏ phải trụ tùng lâm một thời gian thật dài để trưởng dưỡng đạo tâm. Thấy được đạo rồi, càng dụng công sâu thêm, chưa thấy đạo thì cảnh sách học giới luật, học oai nghi phép tắc.
Thi nhau hùng dũng vươn lên chẳng phụ bốn ơn, làm quang vinh ba cõi. Nghĩa là không ở chốn núi rừng được thì phải ở trong tùng lâm. Người có phúc duyên được hai cái thù thắng, thứ nhất là mình được ở trong tùng lâm lớn, thứ hai là được ở chốn núi rừng.
“Người tham thiền ở tùng lâm cùng chúng tăng làm bạn đồng kham giúp ích lẫn nhau, khuyến khích lẫn nhau.”
Còn ở một mình thì rất khó. Quý thầy ở một mình mà chưa thấy đạo, nhiều khi nghĩ đi, đứng, ngồi, nằm gì cũng thiền. Rồi nằm mà nói, thôi ngày mai ráng tu rồi mình luôn. Hoặc buồn buồn đi Yên Tử, đi vịnh Hạ Long, hay Tây Thiên gì đó. Tôi thấy nhiều thầy nói ra nhập thất mà thiệt ra đi chơi. Có những thầy ở tùng lâm tu rất miên mật, sau nói về nhập thất ba năm, mà mới có một năm bắt đầu thầy đi lang thang, đi đầu này đầu nọ chứ không bao giờ trụ được, bởi chưa kiến tánh mà.
“Sự trọng yếu của tùng lâm rất sâu, rất lớn, là ngọn đèn sáng của đời ô trược, là chỗ trụ của Tam bảo. Đại chúng Tăng lữ ở đó tu hành tuân theo qui củ của tùng lâm, tất cả chức sự và thanh chúng quên lao nhọc, thích hành đạo,người nào cũng có thể tu đến kiến tánh thành Phật, các chùa tư không có thể so bằng. Thật là cột trụ vững chắc của dòng đời ô trược vậy.”
Thiền sư Lai Quả cảm được chỗ này, ngài nói sự trọng yếu của tùng lâm rất sâu, rất lớn, là ngọn đèn sáng của đời ô trược. Quả thật, nếu thời không có Hòa thượng Trúc Lâm ra đời, sáng lập những tùng lâm này thì bảo đảm quý thầy không biết tu ở đâu, không biết dụng công thế nào, mà cũng không có môi trường tu nữa. Hôm tôi tiếp phái đoàn ở Đài Loan qua, họ nói môi trường có nội viện, ngoại viện như Trúc Lâm là bên đó cũng không có.
Hòa thượng chia ra nội viện, ngoại viện. Ngoại viện là để khách tham quan họ cúng dường, mình mới có ăn. Nếu không có ngoại viện thì ai biết mà cúng dường, rồi sau đó họ đến học hỏi Phật pháp nữa. Cho nên chỉ có nội viện hoặc chỉ có ngoại viện không thì không được. Những người ở ngoại viện, người ta hy sinh, để ở trong nội viện yên ổn tu học. Hòa thượng có cái nhìn rất xa nên mới được như vậy.
Là chỗ trụ của Tam bảo, tức là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Tùng lâm lớn như thế mới có Thiên long bát bộ, Long thần, Hộ pháp hộ trì cho quý thầy, chớ tu một mình rất khó.
Đại chúng Tăng lữ ở đó tu hành tuân theo qui củ tùng lâm, tất cả chức sự và thanh chúng quên lao nhọc, thích hành đạo, người nào cũng có thể tu đến kiến tánh thành Phật, các chùa tư không có thể so bằng. Chùa tư là chùa gì? Là chùa chỉ có một hai đệ tử. Một ông thầy có một đệ tử thì khó lắm. Tụng kinh cũng một mình, rồi tri sự cũng mình, tri khố cũng mình, hương đăng, thủ bổn cũng mình, cái gì cũng mình hết, sao mà tu.
Cho nên thật là cột trụ vững chắc của dòng đời ô trược vậy. Nhờ vậy thì Phật tử họ mới thấy, mới kính, mới biết được có Tam bảo còn thường trụ ở thế gian này. Mình ở trên núi trên non cũng không phải là chuyện đơn giản.
Nếu chúng ta không học qua những pháp này thì không biết.
Trong Kinh A Hàm, Kinh số 21 Phật dạy:
Một thời Đức Phật ở tại vườn Kỳ Đà ông Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Này các thầy Tỷ-kheo! Người thực hành năm pháp có thể sống an ổn ở trên núi, trong tùng lâm, trong các vùng đầm ao, nằm ngồi trên nệm cỏ. Những gì là năm?
Phải có năm pháp thù thắng mới tu được. Những gì là năm?
1- Siêng năng trì giới luật, không vi phạm những học giới đã thọ trì.
Thọ mười giới thì giữ mười giới, thọ giới bao nhiêu giữ bấy nhiêu thì được yên ổn trên núi.
2- Siêng năng thu nhiếp các căn, giữ gìn mọi hành động.
Nghĩa là thanh qui, đường hướng của Hòa thượng đưa ra mình giữ đúng vậy thì mình tu sẽ được an ổn.
3- Siêng năng tu hành tinh tấn, có sức mạnh của sự tinh tấn, không từ bỏ chí nguyện của sự tinh tấn cho đến khi đắc đạo.
Hôm nào mệt quá không muốn dậy ngồi thiền, phải nhớ tự răn nhắc bản thân. Nhờ có chí nguyện của tinh tấn nên sống trong tùng lâm rất vững, rất mạnh.
4- Đã thọ giới luật của Phật tự hiểu rõ.
5- Nghe kinh pháp đã hiểu đúng.
Nếu hành giả thọ trì năm pháp này như trên đã nói thì có thể sống an ổn trên núi hay trong chốn đầm ao.
Nghe kinh học pháp cần hiểu rõ, hiểu đúng rồi thực hành sẽ được an ổn.
“Chẳng được đi mau.”
Tổ Tuyên Luật sư dạy, Sa Di Học Xứ ghi:
“Như ngựa chạy trốn, chưa thấy đi nhanh mà có bước tốt, nên cất bước phải từ từ thong thả, chẳng gấp, chẳng nhanh, chẳng chậm, bước đi thong thả an ổn. Cho nên người xưa nói: Tọa như sơn mà hành thì như thủy.”
Có những người đi nhanh giống như ngựa chạy trốn, Tổ nói chưa thấy đi nhanh mà có bước tốt, nên cất bước phải từ từ thong thả. Nghe nói như thế, quý thầy đi từng bước từng bước cũng không đúng. Chẳng gấp, chẳng nhanh, chẳng chậm, bước đi thong thả an ổn, tọa như sơn hành như thủy, tức là đi trầm hùng an ổn thì đúng pháp oai nghi.
“Đi như hạc trắng ở trong ruộng cỏ linh chi, như sư tử chúa đi trong hang đá, mây tụ trong rừng sâu, cho nên chim ẩn nấp mà chẳng sợ. Thuyền đi thuận nước, cá bơi đều theo dòng mà không có ngại. Kẻ sĩ có chí phải nghĩ sâu về việc này.”
Đi tới đâu mà chim bay ào ào tới đó thì biết mình đi như bão. Cho nên phải đi từ tốn an ổn. Đi từ tốn an ổn là có pháp chánh niệm. Người tu mà đi nhanh thấy kỳ lắm.
Thiền Sư Trung Hoa Tập I có ghi về Thiền sư Mã Tổ: “Sư họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ Sư dung mạo lạ thường, đi thì như trâu mà nhìn thì như cọp.”
Như vậy là trong thời quá khứ ngài gieo một hạt giống rất tốt, rất thù thắng, cho nên tướng đi của ngài trầm hùng, an ổn. Quý thầy thấy Hòa thượng không? Đi từng bước như sư tử đi vậy.
Ca dao tục ngữ có nói:
Những người chưa nói đã cười,
Chưa đi đã chạy là người vô duyên.
Một thầy Tỳ-kheo mà chạy thấy kỳ lắm, Sa-di cũng vậy chứ đừng nói Tỳ-kheo. Cho nên phải đi từ từ, gọi là pháp chánh niệm. Theo tinh thần Lão Tử, người đi mà trầm hùng, an ổn là hàm dưỡng chí khí. Hàm dưỡng chí khí là thiền định, mà sở tập tri khí tức là làm các việc thiện pháp. Người đi mà trầm mà ổn thì có chánh niệm, có chánh niệm rồi thì rất dễ đi vào con đường thiền định.
“Chẳng được đi đánh đàng xa.”
Đánh đàng xa nghĩa là hai tay đánh tới trước, đánh ra sau, như vậy cũng mất oai nghi. Nhìn vào là biết vị thầy này chưa học oai nghi.
Pháp Uyển Châu Lâm có ghi:
“Ngũ ấm che tâm, cửa thiền đã đóng, sáu trần tại niệm, loạn tưởng thường rong tìm, giống như voi cuồng mà không có móc, tợ như vượn giỡn trên cây.”
Đi mà đánh đàng xa, vừa đi vừa chạy vừa cười, các ngài nói đó là bị ngũ ấm che tâm tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức che cái tâm của mình. Cửa thiền đã đóng, sáu trần tại niệm, loạn tưởng thường rong tìm giống như voi cuồng mà không có móc, tợ như vượn giỡn trên cây thì rất khó coi.
“Chẳng được thường thường liếc ngó nhơn vật mà đi.”
Trong Bộ Hành Hộ có nói:
“Phép đi thường phải ngó tới, ngó đất cách bảy bước, chớ đạp chết loài trùng kiến.”
Đi phải ngó tới trước, không phải vừa đi vừa ngó qua ngó lại thì mất oai nghi.
“Chẳng được cùng Sa-di và trẻ em vừa nói, vừa cười, vừa đi.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nếu cùng Sa-di và trẻ em vừa nói vừa cười mà đi thì thứ nhất là tán loạn thân tâm, thứ hai là khiến người thấy không sanh lòng kính tín.”
Ở đây nói về Sa-di và chú tiểu nhỏ, quý thầy dắt đi đường mà vừa nói vừa cười giỡn nhìn cũng khó coi lắm.
Bộ Thanh Qui có nói:
“Chẳng được nắm tay đồng đi luận nói việc đời phải và quấy. Chẳng được cùng người nữ trước sau đắp đổi mà đi.”
Bữa nọ tôi từ ở dốc đi lên tôi thấy một ông thầy chở một cô cư sĩ, cô này mặc áo đầm. Tôi định chận lại hỏi mà xe thầy chạy nhanh quá chận không kịp. Tôi dặn mấy người bảo vệ lần sau thấy như vậy là không cho vô gửi xe. Cái đó là phá kiến chúng sanh. Trong luật có nói, phạm giới còn nhẹ hơn là phá kiến chúng sanh, làm chúng sanh mất Bồ-đề tâm. Quả tình có một số Phật tử người ta nói liền: “Sao thầy tu lại chở cư sĩ nữ như thế, kỳ quá!” Hôm trước, tôi đi thành phố cũng thấy hai thầy chở hai cư sĩ nữ! Cho nên trong luật không cho cùng người nữ trước sau đắp đổi mà đi, hà huống là chở. Học bài này rồi, phải rút kinh nghiệm.
“Chẳng được cùng với các Ni cô trước sau đắp đổi mà đi.”
Cũng không được đi cùng các Ni cô.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Cùng người nữ, Ni cô trước sau đắp đổi mà đi dễ động khẩu nghiệp nơi chợ búa ồn ào. Nếu Tăng hình mà tạp nhạp chẳng có khỏi nghi báng, nên phải tránh xa.”
Tổ Tuyên Luật Sư nói, đi cùng người nữ, cùng Ni cô thì dễ động khẩu nghiệp nơi chợ búa, thấy là người ta nói liền. Dầu cho chị ruột, em gái ruột hay con gái mình cũng không được. Ai mà biết. Trong luật có nói là mẹ mình cũng không được luôn. Người ta không biết người ta sẽ thị phi.
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói:
“Nếu Tỳ-kheo sợ danh ác thời khỏi các tội lỗi nhẫn đến không gần người huỳnh môn, cùng người nữ chung đi một đường.”
Theo Đại Minh Tam Tạng Pháp số 27:
“Sáu ham muốn của con người dấy lên đối với người khác giới tính hoặc nam, hoặc nữ tức có nghĩa là sắc dục.”
Mình thấy một người nữ đi trước mà đẹp thì mình cũng khởi tâm loạn tưởng, rất khó ngồi thiền. Nếu không có thì bệnh: Hình mạo dục, oai nghi dục, ngôn ngữ âm thinh dục, tế vật dục, nhân tướng dục. Hình mạo dục, oai nghi dục nghĩa là thấy người đi đứng nghiêm trang mình cũng dấy niệm, tâm niệm sanh thì rất khó tu.
Vào thời Đức Phật, có một thầy Tỳ-kheo tu hành rất tinh tấn, thầy tên Quật-đa, là bạn thân của Tôn giả A-nan. Trên đường đi khất thực, thầy gặp một cô thôn nữ, sau đó thầy mắc bệnh tương tư, tu không được nên xin hoàn tục. Tôn giả A-nan tha thiết thỉnh cầu Thế Tôn dùng phương tiện thiện xảo để nhiếp thọ. Đức Thế Tôn hỏi Tỳ-kheo Quật-đa:
– Tại sao ông đòi hoàn tục?
Tỳ kheo Quật-đa thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn! Vì thân và ý của con hưng phấn mạnh mẽ (tức là tâm dục lẫy lừng) không thể thực hiện việc tu hành phạm hạnh thanh tịnh nữa.
Lúc này Phật dùng phương tiện thiện xảo để nhiếp phục Tỳ-kheo Quật-đa. Ngài nói về sự tai hại của dục, dục là thực khổ không vui, giống như lửa đốt thân vậy. Sau khi nghe Phật dạy, Tỳ-kheo Quật-đa tư duy thiền quán chứng đắc quả vị A-la-hán, xin Thế Tôn nhập Niết-bàn.
Những người đa dục không dùng chỉ mà dùng quán mới thành tựu. Chỉ là định, là dừng lại. Người mà dục lẫy lừng thì phải dùng tư duy thiền quán, để chuyển hóa những hạt giống này. Cho nên đi tu là việc rất khó, chư Phật chư Tổ thường nhắc đến vấn đề này. Trong oai nghi phép tắc, trong giới luật cũng răn nhắc. Bởi từ trong cửa dục mà có thân này. Trong lúc cha mẹ giao hợp là dục đã lẫy lừng, mình thọ thân vào thì tiếp tục cái dục nữa. Cho nên dục rất là nặng, không nên xem thường.
Vào thời Đức Phật có một vị Tỳ-kheo tên là Tượng Xá-lợi-phất (trùng tên chứ không phải là Tôn giả Xá-lợi-phất). Ngài chứng được ngũ thông, có biện tài vô ngại đến nỗi trời Đế Thích xuống, Đức Phật gọi ngài ra để biện luận với chư thiên. Nhưng một hôm trên đường đi khất thực ông thấy một cô gái, sau đó về ông xin hoàn tục. Tôn giả A-nan lo lắng khóc với Phật:
– Bạch Thế Tôn, Tượng Xá-lợi-phất đã chứng ngũ thông, mà ngày xưa ông nói ông chứng A-la-hán nữa. Ông còn có biện tài vô ngại, tất cả cõi Diêm phù đề này ai cũng biết. Bây giờ ông xin hoàn tục thì đạo mình bị mang tiếng.
Với Phật nhãn, Đức Phật biết ông hoàn tục bảy ngày sẽ vô tu lại, Ngài nói:
– Ông đừng lo, sau bảy ngày Tỳ-kheo Tượng Xá-lợi-phất hưởng đủ ngũ dục rồi thì vào tu sẽ chứng quả vị A-la-hán.
Sau khi hưởng hết ngũ dục ông xin Đức Thế Tôn xuất gia lại lần thứ hai, đúng bảy ngày sau thì Tôn giả Tượng Xá-lợi-phất chứng quả vị A-la-hán.
Sau khi chứng quả vị A-la-hán, trên đường đi khất thực ngài gặp một vị ngoại đạo Ni-kiền-tử. Vị này nói, mấy ông Sa-môn đầu trọc nói chứng A-la-hán rồi sao cũng ra đời, mà ra rồi vô như đi chợ vậy. Tượng Xá-lợi-phất biết rằng nếu ngài không thị hiện thần biến thì vị ngoại đạo Ni-kiền-tử này, chiều nay cái đầu bể thành bảy mảnh và sa đọa trong chốn địa ngục vì phỉ báng bậc Thánh. Cho nên ngài bay lên hư không, biến ra mười tám phép thần biến. Ngài nói, bây giờ mới thật sự chứng A-la-hán, còn ngày xưa ngài chưa, mới có được ngũ thông thôi.
Ngũ thông gồm thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông và túc mạng thông. Có ngũ thông nhưng lậu tận thông chưa đủ, những hạt giống tham ái nhỏ nhiệm chưa dứt thì cũng rớt. Như Uất-đầu-lam-phất đã chứng ngũ thông cũng chưa chắc ăn, chừng nào lậu tận thông rồi mới đúng.
Cho nên tại sao Đức Phật hay nhắc chuyện này. Tu phải nhớ đừng có ỷ lại.
Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục có ghi:
Thôi Triệu Công ở Tào Khê hỏi Thiền sư Quốc Nhất:
– Đệ tử nay muốn xuất gia có được không?
Thiền sư đáp:
– Xuất gia là chuyện của bậc đại trượng phu, không phải việc tướng văn, tướng võ mà làm được.
Công nghe vậy tỉnh ngộ.
Xuất gia là dám bỏ hết tất cả, mà bỏ chuyện này rất khó. Bởi vì mình sanh từ cửa đó ra, bây giờ đoạn tuyệt, dứt khoát không phải là chuyện đơn giản. Tướng văn, tướng võ làm cũng không được, phải là bậc đại trượng phu mới làm được.
Những người túc duyên sâu, xuất gia nhiều đời nhiều kiếp thì các ngài mới đi hết con đường cuối cùng. Còn duyên mỏng thì rất khó, phải cẩn thận, phải sám hối, tu tập nhiều lắm chứ không đơn giản.
Trong Dị Kịch Đức Truyền Đăng Lục có ghi:
Thiền sư Trí Nham ở núi Ngưu Đầu lúc thiếu niên trí dũng hơn người, thân cao bảy thước. Thời Tùy niên hiệu Đại Nghiệp, ngài làm Lang tướng, tức là nhiều lần theo đại tướng đi chinh chiến lập nhiều chiến công. Niên hiệu Võ Đức đời Đường, Sư 40 tuổi, nhàm chán việc đời rồi xin xuất gia. Ngài vào núi Hoàn Công ở Thư Châu làm đệ tử Thiền sư Bửu Nghiệp.
Một lần nọ, ngài đang ngồi thiền thì bỗng nhiên thấy một vị Tăng Ấn độ, thân cao hơn trượng, thần thái sảng bạc nói với Sư:
– Ông phải tinh tấn tu đạo chớ không được thối chuyển, bởi vì ông xuất gia đã tám mươi đời rồi.
Từ đó về sau ngài mới tinh tấn phát khởi tín tâm tu. Quả tình, tu đúng một năm sau ngài triệt ngộ bản tâm.
Có hai người bạn thân của Sư ngày xưa làm tướng ở trong quân ngũ, nghe Sư ẩn dật cùng nhau vào núi tìm kiếm. Họ nói với ngài:
– Lang tướng có điên không, sao lại ở chỗ này?
Ngài nói:
– Ta sắp tỉnh rồi, còn các ông thì đang phát điên. Ôi! Mê đắm thanh sắc, tham vinh hám lợi, phải trôi nổi trong sanh tử sao còn không thoát ra đi!
Hai người nghe hiểu thở dài mà ra về.
Khi tôi làm nhà khách, có một cô ở miền Bắc vào. Cô khóc kể rằng con trai cô bỏ nhà ra đi đã sáu năm, để lại lá thư nói là bỏ hết tất cả để đi tu. Gia đình dòng tộc của cô nói, người con đó điên rồi nên mới đi con đường này. Tôi nói cho cô hiểu, gia đình mà có một người đi tu thì được phước thù thắng. Lúc này cô tỉnh, cô xin hai cuốn sách và nói nếu đủ duyên thì xin vào thiền viện tu học, bởi vì cô không thể sống với gia đình chồng được nữa.
Lăn lộn ở ngoài đời là bị thanh sắc, bị danh lợi, trôi nổi trong đường sanh tử. Còn được xuất gia tu đạo là sắp tỉnh, có tỉnh mới tu, quý thầy đều có trí tuệ, có trí tuệ mới đi tu. Cho nên người lớn làm gì người nhỏ biết hết. Mai này quý thầy làm chức sự, làm gì đó là phải cẩn thận, đừng có nói mấy người mới vào tu không biết gì, phải tỉnh lắm mới vô chùa chứ, đúng không? Những người đang học hành, đang làm việc mà bỏ đi tu là tỉnh rồi, tỉnh mới dám bỏ, không tỉnh sao bỏ được.
“Chẳng được cùng người say, người điên trước sau đi gần. Chẳng được đi sau cố ngó người nữ.”
Trong Luận Đại Trí Độ, Phật nói:
“Thà lấy một miếng đồng nóng đỏ đặng chà tròng con mắt chớ đừng lung lòng vấy ngó nữ sắc. Chẳng được nhướng mắt liếc ngó nữ nhơn.”
Phật Tổ nói nhiều về chuyện này để mình tránh.
Kinh Thập Giới nói:
“Đóng chặt sáu tình, không ngó sắc đẹp. Mắt chẳng liếc ngó, tâm chẳng nghĩ dâm, miệng không nói chơi, dấu chân chẳng tìm nhau và không đồng đi một thuyền, gặp giữa đường cũng không hỏi. Nếu kia cầm vật lạ cũng đừng dòm ngó.”
Không được nói chơi với người. Dấu chân chẳng tìm nhau, là họ đi trước, quý thầy đi theo dấu chân, ướm thử cũng không được. Không đồng đi một thuyền, chẳng hạn, trên một chiếc xe mà hẹn nhau đi, cũng phải tránh chớ không được đi chung.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 49, Phật dạy:
Tôi nghe như vầy, một thời Phật ở tại nước Xá Vệ trong vườn Kỳ Thọ Ông Cấp Cô Độc, bấy giờ Thế Tôn nói với các thầy Tỷ-kheo:
“Chẳng thà cứ thường hay ngủ nhiều chớ đừng trong khi thức mà tư duy loạn tưởng để rồi thân hoại mạng chung sanh vào nẻo dữ. Chẳng thà để cho dùi sắt đang rực cháy in vào mắt chứ không để nhìn sắc mà nổi lên loạn tưởng. Tỳ-kheo khởi tưởng như vậy bị bại hoại bởi thức. Tỳ-kheo bị bại hoại bởi thức sẽ rơi vào ba nẻo dữ: địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Điều ta muốn nói là như vậy.”
Ở đây có câu chuyện Tổ Nhẫn:
Tổ Nhẫn tu hành rất miên mật, biết mình sắp từ giã cõi đời, đêm đó ngài đi dạo quanh bờ hồ. Đang đi ngài nhìn qua bên kia bờ hồ thì thấy một cô thiếu nữ đang cởi đồ ra tắm. Vừa mống niệm một chút là ngài biết rồi, về họp đại chúng lại, ngài nói:
– Mai đây thầy tịch rồi, các con phải qua nhà bên đó tìm cách mua cái quần. Thầy thác sanh làm con rệp, các con mua quần về rồi chú nguyện mà đốt cho thầy thì thầy mới siêu thoát được.
Khi cận tử nghiệp đến, quý thầy vừa dấy niệm là rớt ba đường ác liền. Chỉ dấy một niệm nhỏ thôi đã bị rớt rồi. Sau khi Tổ Nhẫn tịch, các đệ tử cố gắng mua cho được cái quần đó, quả tình thấy trên bâu quần có một con rệp nhỏ. Ngài để lại di chúc là chôn chứ không xây tháp, mà chôn ngay bên đường đi để các đệ tử khi xuống núi, dẫm lên ngài mà nhắc nhở mình là không được nhìn ngó nữ sắc.
“Người kia chẳng thà cứ thường hay ngủ chứ đừng khi thức mà tư duy loạn tưởng, thà lấy dùi báng đâm vào lỗ tai cho nó hư hoại chứ không để vì nghe tiếng mà nổi lên loạn tưởng, Tỳ-kheo nổi lên loạn tưởng sẽ bị bại hoại bởi thức.”
Ở đây Phật nói trong sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân mình phải chánh niệm tư duy thật kỹ.
“Chẳng thà thường hay ngủ chứ đừng để trong khi thức mà có ý nghĩ muốn phá hoại Thánh chúng. Đã phá hoại Thánh chúng đọa tội ngũ nghịch thì dù có đến ức ngàn Chư Phật cũng không thể cứu chữa. Những ai gây đấu loạn giữa chúng, người ấy sẽ bị đọa tội không thể cứu chữa. Vì vậy ở đây ta nói chẳng thà cứ hay ngủ chứ đừng để trong khi thức mà có ý muốn phá hoại Thánh chúng chịu tội không thể cứu chữa, cho nên Tỳ-kheo hãy gìn giữ sáu tình chớ để sai sót. Như vậy Tỳ-kheo hãy học điều này.”
Phá hoại Thánh chúng, là phá hoại, chia rẽ Tăng đoàn. Đi chỗ này nói xấu người này, đi chỗ khác nói xấu người khác thì phạm tội ngũ nghịch. Phật nói phạm tội này, ngàn ức Chư Phật cứu cũng không được. Cho nên nói chẳng thà cứ ngủ chứ đừng để trong khi thức mà phá hoại Thánh chúng.
“Hoặc gặp các bậc Tôn túc hay bà con quen biết đều phải đứng lại một bên đường, trước tính hỏi thăm. Hoặc gặp những việc thí hiển ly kỳ quái quái đều chớ nên coi, cứ vững mình thẳng đường mà đi. Hoặc gặp chỗ nước hầm lở chẳng được nhảy qua. Có đường hãy đi quanh, không đường người đều nhảy qua, ta cũng nhảy thời được.”
Đi đường gặp hố nước thì không được nhảy, nhảy là mất oai nghi phép tắc.
Trong Sa Di Học Xứ, Tổ Tuyên Luật Sư có kể câu chuyện:
Tỳ-kheo Vô Trước đã chứng quả A-la-hán, trên đường đi có một cư sĩ tín tâm thỉnh ngài thọ trai và muốn cúng dường ngài một cái y tốt. Giữa đường gặp một hầm nước, cư sĩ thấy ngài ba lần do dự chẳng muốn nhảy qua thì khởi niệm không muốn cúng cái y nữa. Thầy Tỳ-kheo đã chứng tha tâm thông, biết ý cư sĩ chỉ muốn cúng bữa ăn chứ không còn muốn cúng y, nên ngài không chùn bước nữa mà nhảy qua hầm nước. Cư sĩ hỏi, ngài tại sao ba lần chùn bước mà bây giờ mới nhảy qua. Ngài đáp, ta nếu lại do dự sợ mất phần ăn. Cư sĩ kinh sợ, biết đây là đạo nhân, tức là người có mắt đạo thấy được tâm niệm của ông nên trở lại cúng dường. Vì thế Tổ nói người có đạo mà còn như thế huống nữa lại là phàm phu ư.
Người vừa chạy vừa giỡn cười vừa la, làm sao chánh định được, loạn tưởng rồi, trong kinh gọi là thân trạo cử. Thân trạo cử từ đâu ra? Từ tâm, tâm ứng ra thân. Nhìn là biết người này thân trạo cử. Vừa cười vừa giỡn vừa nói là khẩu trạo cử. Giữ gìn chuẩn mực oai nghi phép tắc thì đến con đường chánh định, giải thoát rất nhanh.
21. Đi Chợ
“Không nên kèo nài mắc với rẻ, phải theo giá đời. Chẳng nên xin bớt kém hao của người, chẳng nên trả giá mắc, lãng phí của tín thí và thường trụ.”
Sau này, quý thầy có đủ duyên làm tri khố, khi đi chợ không nên kèo nài mắc với rẻ. Người ta nói giá mười đồng, mình trả năm đồng hoặc hai đồng thì không được. Nghe như thế rồi người ta nói bao nhiêu, mua bấy nhiêu thì cũng lãng phí của tín thí và thường trụ. Đi chợ, phải khéo để họ bớt giá cho mình. Có lần, chúng tôi đi áp tải gỗ, một chiếc xe người ta tính hai mươi sáu triệu, đưa hai mươi sáu triệu luôn thì tốn hao của tín thí. Tôi tìm được chiếc xe rộng hơn để chở nhiều hơn, chiếc xe bảy thước chở rất hao, tìm chiếc xe mười thước chở được hai đầu, đỡ tốn của Tam bảo. Chứ không phải nghe nói, không kèo nài mắc với rẻ rồi người ta nói bao nhiêu cũng chịu thì rất hao của thường trụ. Ở đây mình phải khéo.
Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói:
“Trong đời vị lai tất cả người tục khinh thường Tam bảo là do Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni chẳng đúng như pháp, thân mặc pháp phục mà dạo chơi nơi trần cảnh. Hoặc gặp hàng chợ mua rẻ bán đắt, tự mình sinh hoạt. Hoặc lại giao thiệp buôn bán cầu lợi quên mất chánh nghiệp.”
Đức Phật thọ ký đời vị lai, nguyên nhân do Tỳ-kheo Ni và Tỳ-kheo chẳng đúng như pháp, tức là quên mất chánh nghiệp, mà chánh nghiệp là tu tập về thiền định, khiến người cư sĩ tức là người thế tục coi khinh Tam bảo.
Nghiên cứu kỹ Kinh Niết Bàn thấy Phật thọ ký, xây tháp thờ Xá lợi của Phật cũng để cho hàng cư sĩ, tức là bạch y cư sĩ. Còn người xuất gia chuyên về thiền định. Chuyên về thiền định để có năng lực thù thắng, rồi đem năng lực tu tập ra dìu dắt những người khác, đó là chánh nghiệp của người tu. Còn không khéo, mình đi ra chợ mua bán, sinh hoạt theo thế tục thì người tại gia họ coi thường.
“Chớ nên ngồi hàng con gái.”
Quý thầy ra làm trụ trì, hay làm Phật sự phải đi ra chợ. Chư Phật, chư Tổ dạy rất kỹ, thấy hàng con gái mình ngồi vào, mà ngồi vào thì lâu ngày, nhà thiền thường nói: “Tình sanh thì trí cách.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Tiệm mua bán của người nữ chẳng có thể ngồi, nếu ngồi dẫu cho ngọc mà tinh khiết không tỳ vết cũng khó thoát khỏi miệng của thế gian nên chẳng ngồi. Cổ Đức nói: Ngăn ngừa miệng thế gian, hết sức phòng ngừa sân.”
Phần Oai nghi này dạy đi đâu mà gặp hàng con gái là không được ngồi. Có những người, tu một thời gian chán cửa thiền xin hoàn tục, nói là bị ma chướng nhưng thật ra nguyên nhân là do mình. Khi đến hàng con gái nào đó mà ngồi, trong tư tưởng, trong vô thức chưa sạch những hạt giống đó thì tự nhiên nó phóng ra từ trường, và trong tâm vô thức đó tự nhiên nó cảm. Từ cái cảm đó mình không còn tiếp tục tu được nữa.
Ở đây nói rất rõ, dẫu cho ngọc mà tinh khiết, dẫu cho quý thầy giữ giới thanh tịnh cách mấy thì thế gian cũng đâu có biết. Nhiều khi nói mình không cần biết thị phi hay miệng thế gian, nhưng phải tu tập như thế nào đó để giữ cho Tam bảo được thanh tịnh.
Trong kinh Tạp A Hàm quyển 47 ghi rất rõ:
Vào thời Đức Phật có một số thầy Tỳ-kheo đi vào làng xóm khất thực, do không giữ được lục căn nên bị xả giới và thối thất. Lúc này Phật họp đại chúng lại kể một câu chuyện:
“Xưa có một con mèo rất đói khát rình chuột. Một con chuột chạy ngang qua, con mèo nuốt chửng vào bụng. Con chuột cắn nát ngũ tạng của mèo, con mèo chết.”
Phật nói tiếp:
“Cũng vậy, Tỳ-kheo có người ngu si nương nơi làng xóm mà sống. Sáng sớm đắp y ôm bát vào thôn khất thực mà không hộ thân, không giữ các căn, tâm không cột niệm, thấy các nữ nhân khởi tư duy bất chánh, liền nắm bắt tướng sắc mà phát khởi lòng tham dục.”
Cho nên đừng ỷ lại, đừng nghĩ tu hành ở trên núi một thời gian rồi thì không sợ gì nữa. Phật dạy Tỳ-kheo nào chưa chứng quả vị A-la-hán thì đừng tin cái tâm của mình. Có những lúc tâm mình rất thánh thiện, nhưng có những lúc tâm mình bất chánh, cho nên thấy các nữ nhơn khởi tư duy bất chánh, liền nắm bắt tướng sắc mà phát khởi lòng tham dục.
“Khi tham dục đã phát khởi, lửa dục cháy bừng thiêu đốt thân tâm. Khi thân tâm bị thiêu đốt, tâm rong ruổi cuồng phóng, không thích ở Tinh xá, không thích nơi rừng vắng, không thích dưới bóng cây, bị tâm ác bất thiện ăn vào khắp bên trong mà xả giới thối thất.”
Quý thầy đủ phúc duyên nên được ở trong nội viện. Ở trong nội viện, trong tăng chúng tu tập nhưng nếu không khéo mình ỷ lại, không biết chuyển hóa những tập khí xấu ác của mình thì sẽ có lúc quý thầy không còn đủ duyên ở đây nữa. Chẳng hạn như đi xuống phố hay là đi ở những cái cốc, cái hang gì đó. Gặp những trường hợp này mình cũng bị thối thất. Khi thân tâm bị thiêu đốt, tâm rong ruổi cuồng phóng rồi thì không còn thích ở tinh xá, có nghĩa là mình không thích ở thiền viện, không thích ở trong nội viện nữa.
“Người ngu này chịu khổ đau lâu dài. Cho nên Tỳ-kheo cần phải học như vậy, khéo hộ thân mình, giữ gìn các căn, buộc tâm chánh niệm mà vào thôn khất thực.”
Bây giờ, không có pháp khất thực nhưng quý thầy đi vào chợ hay vào trong thôn xóm, nhớ luôn luôn chánh niệm để thu thúc sáu căn.
“Hoặc bị người lấn giành phải phương tiện lánh đi, đừng theo trả giá. Đã hứa mua vật người trước, người sau tuy có rẻ hơn cũng đừng bỏ kia mua đây khiến người chủ có giận.”
“Dè dặt chớ bảo lãnh những người mắc nợ nần.”
Thấy ai thiếu nợ, bị người ta đòi rồi đứng ra lãnh thì không được. Dân gian có câu, trên đời có bốn cái ngu. Cái ngu thứ hai là lãnh nợ. Người tu, tiền đâu mà hứng nợ, cho nên là không khởi lòng từ bi như thế. Nợ nần là do nhân duyên, mình không khéo quán chiếu rồi vô hứng nợ thì trong giới luật không cho phép.
22. Phàm Chỗ Ra Làm Không Được Tự Ý
Bài này quan trọng nhất.
“Phàm khi ra vào qua lại, trước phải thưa Thầy.”
Làm bất cứ sự việc nào là trước phải thưa Thầy. Ở đây chúng ta học phần sự và phần lý. Theo tinh thần của Pháp Bảo Đàn Kinh, Thầy ở đây tức là thiện tri thức, mà thiện tri thức tìm ở đâu? Tìm ngay nơi mình.
Đi ra chợ, thấy cái đồng hồ mình khởi lòng tham thì thầy Trụ trì đâu có mặt ở đó mà ngăn cấm. Thiện tri thức là ngay nơi mình, mình chánh niệm, biết rờ vào là phạm giới. Cho nên là trước phải thưa Thầy.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghĩa là thân này quy mạng ở nơi Thầy, mình chẳng là có mình. Phàm mỗi việc đều nghe lời Thầy chỉ dạy, chẳng dám lộng quyền. Những việc bình thường hằng ngày đều phải bạch Thầy để tròn hiếu hạnh.”
Chúng ta học phần sự trước.
Quý vị để ý thấy quý Thầy lớn, như Thầy chúng tôi là thầy Trụ trì Thường Chiếu, cất cái nhà bếp cũng phải đích thân lên xin Hòa thượng Trúc Lâm. Rồi cất cái thiền đường, Hòa thượng cho phép mới dám cất. Thầy Trụ trì cũng vậy, làm việc gì cũng phải trình Hòa thượng tức là Thầy của mình.
Sau này thầy Trụ trì Trúc Lâm làm cố vấn hay làm gì đó, quý thầy là đệ tử thì phải lên thưa, chứ không phải tự quyền. Có nhiều người không biết, nói là tri sự hay là tri khố,… tự quyết định hết thì không đúng trong giới luật. Tức làchẳng dám lộng quyền, làm bất cứ việc gì phải lên trình Thầy của mình. Chẳng hạn, cưa gốc thông quý thầy phải lên trình Hòa thượng hay thầy Trụ trì chứ không có tự động. Bởi vì Cổ Đức nói:
Ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng,
Nghĩa ân sư muôn kiếp khó đáp đền.
Ơn giáo dưỡng một đời được thân huệ mạng này cho nên phải nghe, phải vâng lời Thầy. Thầy chúng tôi là thầy Thường Chiếu, mỗi lần Hòa thượng hẹn điện thoại xuống là Thầy mặc áo hậu, trước khi nghe xá ba xá rồi mới bắc điện thoại lên nghe. Người có hiếu hạnh với Thầy thì mới làm được việc lớn, mới độ chúng được. Mình nghe lời Thầy thì chúng mới nghe lời mình, nhân quả là như vậy.
Kinh A Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung nói Phật dạy:
“Nghĩa thầy trò là cái nghĩa cảm tự nhiên, phải tin tưởng lẫn nhau.”
Đâu có ai bắt quý thầy cạo tóc xuất gia. Nhưng nhân duyên đời trước, vào thời quá khứ mình đã có túc duyên (như từng gặp, chào hỏi, cúng dường, rồi được nghe thầy giảng bài pháp) với vị thầy đó, rồi phát nguyện đời sau sẽ gặp, thì tự nhiên khi gặp mình cảm mến và tìm cách xuất gia với vị đó, rồi thọ pháp. Cho nên nghĩa thầy trò là cái nghĩa cảm tự nhiên.
Có người từ nước Pháp về, chưa từng biết Hòa thượng Trúc Lâm, khi gặp tự nhiên họ khóc giống như cha với con, mà người này là người Pháp chứ không phải người Việt. Là do nhân duyên đời trước, bây giờ gặp rồi cảm, cảm cho nên tin tưởng.
“Xem người như mình, việc gì mình không thích thì đừng làm cho người. Tôn sùng lễ nghi, giới luật, dùng đạo đức chỉ dạy, hòa thuận trung thành, không oán giận tranh chấp với nhau. Đệ tử và thầy có hai nghĩa chân thành: Thầy phải xứng đáng làm Thầy, đệ tử phải giữ đúng bổn phận của đệ tử. Chớ phỉ báng lẫn nhau, cẩn thận chớ mang lòng ác độc, oán nhỏ thành lớn, trở lại thiêu đốt bản thân.”
Phải giữ bổn phận của đệ tử. Chớ phỉ báng lẫn nhau, nghĩa là có những khi thầy hiểu lầm mình do một sự việc gì đó. Nếu có buồn hay giận thầy, thì nhớ đừng nói thêm những lời ác độc. Vì nếu nói, thì từ oán nhỏ thành lớn, trở lại thiêu đốt bản thân mình. Nhiều khi có những chuyện mình tưởng mình giỏi hơn Thầy nhưng thật ra không phải. Bởi vì tuổi đời của Thầy lớn hơn mình, kinh nghiệm sống trong tùng lâm cũng nhiều hơn mình nữa.
Trong kinh Bách Dụ quyển ba kể Phật đưa ví dụ:
Trong một khu rừng có con rắn rất lớn, một hôm cái đuôi nói với cái đầu con rắn:
– Hồi đó tới giờ lúc nào anh cũng dẫn đầu, bây giờ anh phải để tôi dẫn đầu.
Cái đầu rắn nói:
– Không được, anh dắt đi là tôi với anh chết luôn.
– Không! Hôm nay tôi phải dẫn đầu mới được.
Cuối cùng cái đuôi rắn nó dẫn đi, đi một đoạn đường rớt xuống hầm lửa chết.
Đầu rắn ví dụ cho người thầy, đuôi rắn ví dụ cho đệ tử. Nhiều khi mình tưởng giỏi hơn Thầy, nhưng mình mà dẫn đường là chết. Các pháp đều ở trong trạng thái như thị, tức là bản nhiên nó như thị. Vừa khởi niệm đây là đầu rắn, đây là đuôi rắn, đây là vọng, đây là chơn, đây là phiền não, đây là Niết-bàn… thì tự nó thoát đi cái bản thể thanh tịnh của nó.
Qua ví dụ này Phật muốn nhắc nhở, đệ tử dầu gì cũng thua thầy. Thiền sư Bách Trượng nói: “Trò bằng thầy thì thua thầy nửa đức, trò giỏi hơn thầy thì mới kham việc truyền trao”, tức là truyền thừa tông môn. Đức đây là đức hạnh của thầy, chắc chắn là hơn rồi. Công hạnh giáo hóa độ sanh thì mình cũng không bằng thầy, cho nên kém thầy nửa đức. Chẳng hạn Hòa thượng, thầy Trụ trì Trúc Lâm đức rất là lớn, sức độ sanh của các ngài, mình không thể nào bằng. Tài đức phải vượt xa thầy thì mới được gánh vác Tông môn.
Theo tinh thần của Thiền sư Bạch Ẩn, có ba bậc theo thầy học đạo:
1- Bậc hạ căn, là một người kém cỏi, sẽ đi theo một người có nhiều quyền uy.
Thấy vị thầy có danh vọng, chức tước gì đó mà đi theo thì đó là bậc hạ căn.
2- Bậc trung căn, là người đi theo người ơn của họ.
Có nghĩa là xưa quý thầy làm cư sĩ rồi cúng dường vị thầy đó, bây giờ lớn tuổi rồi đủ nhân duyên, quý thầy vào xuất gia, thì đó là bậc trung căn.
3- Bậc thượng căn, là một người siêu đẳng, sẽ đi theo kẻ thù của mình. Kẻ thù là gì? Kẻ thù là người mắng chửi thật phũ phàng, dùng tay chân đấm đá, đoạt mất hết ruột gan, lục phủ, ngũ tạng của bạn. Đó không phải kẻ thù là gì?
Bậc thượng căn bây giờ hiếm lắm, bây giờ người thầy mà nói nặng nặng một chút thôi là bảo đảm mình lên tác bạch đi liền. Cho nên mình không phải là bậc siêu đẳng.
Những bậc siêu đẳng như Thiền sư Lâm Tế, ngài bị ngài Hoàng Bá đánh mà vẫn trung thành thưa hỏi ba bốn lần; hoặc như ngài Vân Môn, ngài đi hành cước đến gõ cửa ngài Trần Tôn Túc, bị Trần Tôn Túc đóng cửa dập nát bàn chân. Những vị này là những bậc siêu đẳng, tức là theo người mắng chửi hoặc dùng tay chân đấm đá, đoạt mất hết gan ruột.
Vào niên đại này có thiền sư Lai Quả, trụ trì chùa Cao Mân. Nhiều người tu hai ba chục năm, xem bản nội quy của ngài xong run sợ không dám vô, bởi vì trong nội qui đó ngài khai giới sát. Bên đó tu về công án, chẳng hạn trong buổi tham thiền, quý thầy chạy hương mà mệt quá té xỉu là bị quăng xuống đơn, nếu chết thì sau khi chạy hết cây hương mới kéo quý thầy lên đem chôn. Nếu phạm quy củ thì bị đánh, chết thì đem chôn. Thiền sử có ghi ngài khai giới sát bốn vị, có một vị vào tòng lâm không tuân theo quy củ ngài đánh chết luôn, chết rồi đem chôn. Chính quyền không hỏi han gì hết, bởi vì trong nội quy đã ghi rồi. Quý thầy vào thiền viện đó phải thực hành. Dưới Pháp hội của ngài có năm mươi hai người ngộ đạo. Vào đó là bắt buộc ngộ đạo, không thể nào không ngộ. Những người đến đó toàn là những bậc Thượng tọa, những bậc trụ trì những tùng lâm lớn, vì cảm thấy tâm chưa an nên tìm đến Thiền viện Cao Mân, mà tìm đến rồi thì chắc chắn sẽ ngộ đạo.
Thiền thoại có ghi:
Một lần thiền sư Nghi Sơn đi tắm, vì nước nóng quá nên sai đệ tử mang nước lạnh châm thêm. Trích Thủy pha nước xong, tiện tay hất nước còn thừa ra đất. Nghi Sơn không vui liền quở: “Nhân địa tu hành, âm đức là bậc nhất, ông vì sao không biết tiếc phước? Tuy là một giọt nước, tưới cây cây cũng vui, tưới cỏ cỏ cũng mừng, nước cũng không mất đi giá trị của nó, vì sao không tiếc vật như thế?”. Cảm công đức chỉ dạy của thầy, sư đổi pháp hiệu thành Trích Thủy.
Mình đổ nước mà thầy Trụ trì kêu nói như thế thì buồn, nhưng ngược lại, thiền sư Trích Thủy ghi khắc trong lòng và đổi pháp hiệu luôn thì đây gọi là bậc thượng.
Một lần, Trích Thủy dùng giấy trắng lau nước mũi. Thiền sư Nghi Sơn hét: “Lỗ mũi của ông sao mà trọng đến thế! Giấy trắng sạch sẽ, được nó đâu phải dễ. Ông thật là pháp tặc tổn đức, tu hành cái gì!” Tặc là trộm cướp, pháp tặc là trộm pháp. Mình bị nói như vậy thì sao? Chắc chịu không nổi, sau đó xin xuất chúng! Nhiều khi đi ra còn nói xấu thầy nữa: “Thầy gì đâu mà lạ kỳ, có một tờ giấy mà cũng nói!”
Ở đây thầy nói vậy còn đỡ hơn cư sĩ nói mình, bản thân tôi bị. Tôi được Hòa thượng dạy qua thiền viện bên Canada, vì không rành địa phương bên đó nên có một cô Phật tử được Hòa thượng giao phụ giúp. Một hôm tôi bị cảm sổ mũi, tôi lấy tờ giấy trắng chùi, cô Phật tử nói: “Quý thầy mới làm Phật sự mà quý thầy chùi tờ giấy trắng như vậy tổn phước quý thầy.” Lúc đó thật không phải chuyện đơn giản. Quý thầy chịu nổi không? Tôi cũng không chịu nổi. Sau này nghiên cứu thiền thoại mới biết là cổ bắt chước chứ không phải cơ phong.
Cơ phong của người thầy là biết người đệ tử mình căn cơ bậc nào, siêu đẳng cỡ nào thì mới dồn ép. Chính sự dồn ép thì tự nhiên người đệ tử bật phát lên.
“Do thừa hưởng gia phong nghiêm khắc của Thầy cho nên về sau lúc tiếp đãi người học thì Thiền sư cũng rất là nghiêm khắc, có lắm lúc thậm chí đánh người. Rất nhiều học tân chịu không nổi thiền phong này mà đành rút khỏi Thiền viện, chỉ có Thiền sư Nga Sơn là kiên trì ở lại.”
Tức là chỉ có một vị Thiền sư, sau này rất nổi tiếng, nối pháp thiền sư Trích Thủy là Thiền sư Nga Sơn. Ngài nói Tăng có ba loại:
– Tăng hạ đẳng: Dùng ảnh hưởng của thầy.
Chẳng hạn, nghe Trúc Lâm này mát mẻ, có đủ điều kiện tu học, Hòa thượng có danh có tiếng nên mình xin lên. Lên mà chưa hình dung được Hòa thượng như thế nào, cơ phong Hòa thượng ra sao, hễ mình thấy có cái gì khác khác lạ lạ là xin xuất chúng. Đó là, chịu ảnh hưởng của ông thầy.
Thiền sử có ghi:
Dưới trướng của Thiền sư Thiện Chiêu Phần Dương, có năm trăm đệ tử mà ngài không chịu thăng Pháp đường. Một buổi tối thần Hộ pháp hiện lên báo mộng nói: “Trong này có sáu bậc pháp khí mà sao Hòa thượng không khai pháp?”
Năm trăm người biết ai là pháp khí, nên ngài nghĩ ra một kế, ngài nói: “Mai là giỗ cha của tôi, bây giờ mấy ông ra chợ mua mười ký thịt về nấu cà-ri ăn.” Chúng giải tán hết còn sáu người ở lại, trong đó có Thiền sư Từ Minh. Ngài biết sáu vị này là bậc pháp khí. Sáu vị này không qua ảnh hưởng của thầy. Biết thầy mình có căn cơ trình độ nào đó nên ở lại, sau này trở thành bậc pháp khí, nối pháp cho Thiền sư Thiện Chiêu Phần Dương. Ngài nói, tôi dùng một bữa ăn mà đuổi hết những hạng Tăng phàm phu.
– Tăng trung đẳng: Vui hưởng từ bi của thầy.
Tức là thầy dạy dỗ nhỏ nhẹ thì chịu.
– Tăng thượng đẳng: Dưới sự rèn luyện của thầy ngày càng thêm mạnh mẽ.
Tăng thượng đẳng thì rất khó.
Trong quyển Tổ Đình Kiềm Chùy, Thiền sư Duy Thâm khai thị:
“Người học đời nay chưa thoát sanh tử, bệnh tại chỗ nào? Bệnh tại tâm trộm chưa chết. Nhưng không phải tội của họ mà là tội của ông thầy.”
Vào thời mạt phát này hiếm có thầy căn cơ cao. Kiềm chùy là cái kềm, cái kẹp nhổ gốc cho đệ tử. Biết tâm thức của đệ tử đi đến đâu thì thầy dồn ép để lúc đó người đệ tử bừng vỡ lên, tự mình ngộ đạo.
Cho nên ở đây nói người học đời nay chưa thoát sanh tử là bệnh tại chỗ nào? Bệnh tại tâm trộm chưa chết. Tâm trộm là gì? Nhiều khi quý thầy vào mùng chuẩn bị ngủ nhưng vẫn còn đi dạo đầu này đầu nọ, đó là tâm trộm chưa chết. Tâm trộm chưa chết thì chưa thoát được sự sanh tử. Ngồi trên thiền đường, nhưng thật ra mình đang đi dạo. Hồi xưa đi biển Nha Trang hay là Bến Tre, Cần Thơ gì đó, bây giờ ngồi thiền cũng đi một vòng như vậy. Hoặc từng làm bệnh viện thì mình ngồi thiền nhưng đi chích thuốc, có khi lại đi dạo sửa xe hay lái xe…Tức là tâm trộm chưa chết!
Quý thầy coi trong sử sách, hay trong kinh luận của chư Phật chư Tổ thường nói đến chánh niệm và quán niệm. Chánh niệm và quán niệm là một hay là hai?
Trong Kinh A Hàm nói rất rõ về con đường chánh niệm. Nhà Phật nói chánh niệm là chúng ta đặt mình trong giờ phút hiện tại, chẳng hạn mình rửa chén thì biết mình đang rửa chén… Khổng Tử nói: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị.” Tâm mà chẳng ở yên một chỗ, xem mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe, ăn mà chẳng biết mùi vị. Có nghĩa là mất chánh niệm, luôn luôn bị thất niệm.
Ví dụ đưa cái đồng hồ lên hỏi thấy không thì nói thấy. Theo nhân duyên mình thấy, mình tưởng như vậy là đúng, nhưng theo tinh thần Kinh Tương Ưng Bộ, những bộ Kinh A Hàm, trong lúc nhìn mình tưởng thấy nhưng nếu trong giờ phút đó mình mất mình, tâm lang thang ở đâu đó thì không phải là thấy, cái đồng hồ không có mặt.
Cổ học Tinh Hoa có câu chuyện:
Có anh thanh niên đeo cây kiếm rất tốt, khi bước lên thuyền bất cẩn đánh rơi cây kiếm xuống sông. Anh khắc lên mạn thuyền để đánh dấu chỗ rớt kiếm, nghĩ rằng căn cứ vào dấu khắc trên thuyền là tìm được kiếm. Thuyền chạy một hồi tới gần bờ anh kêu lái đò ngừng lại để tìm cây kiếm. Anh lái đò nhảy xuống tìm không thấy:
– Sao anh nói rớt kiếm ở đây mà tôi tìm hoài không thấy?
Anh thanh niên:
– Đây nè, trên mạn thuyền tôi khắc dấu rồi nè!
Nhà thiền nói người tu mà không khéo đặt mình trong giờ phút hiện tại thì giống như người “khắc chu tầm kiếm” vậy. Bởi vì quá khứ qua rồi mà kéo lại thì nó không có mặt, cho nên các Thiền sư nói mỗi lần cảnh đến mỗi lần mới tinh. Đặt mình trong giờ phút thực tại rồi thì ngày nào cũng mới, không có ngày cũ. Cho nên ở đây nói chánh niệm là chúng ta luôn luôn đặt mình trong giờ phút thực tại. Nhưng đó chưa phải là cứu cánh, mà đi qua bước thứ hai là tinh thần quán niệm.
Quán niệm là phải nhận diện những hạt giống xấu ác để chuyển hóa. Chẳng hạn, mình không thích ông thầy này, bảo đảm khi quý thầy đang ngồi thiền hoặc đang làm việc thì những hạt giống đó nó sanh khởi. Quý thầy phải theo dõi xem nó tồn tại bao lâu, rồi đến giai đoạn nào thì nó hủy diệt, để tìm cách chuyển hóa thì đó gọi là quán niệm. Chánh niệm là ban đầu, nhưng quán niệm là đi đến chỗ cứu cánh rốt ráo, là tìm cách chuyển hóa những hạt giống xấu ác.
“… Nhưng không phải tội của họ mà là tội của ông thầy, như Hán Cao Đế gạt Hàn Tín mà giết, Hàn Tín tuy chết mà tâm ông ta đã chết thật ư? Người học ngày xưa nghe một câu liền thoát sanh tử, hiệu quả tại đâu? Hiệu quả nhờ tâm trộm đã chết. Nhưng không phải do khả năng của người học mà thật là nhờ sự khéo léo kín đáo của ông thầy.”
Ngày xưa những người có túc duyên sâu, gặp vào thời tượng pháp thì căn cơ của ông thầy có năng lực rất lớn. Rồi căn cơ của đệ tử nữa, vừa nói một câu là tâm trộm chết liền. Nhưng nhờ sự khéo léo của ông thầy. Chẳng hạn như Thiền sư Lâm Tế, đến hỏi Thiền sư Hoàng Bá thế nào là đại ý Phật pháp, Thiền sư Hoàng Bá là bậc cao tay ấn biết người này còn tâm trộm lang thang nên đập cho tâm trộm chết.
Còn mình yếu tay ấn quá, hỏi thế nào là đại ý Phật pháp, nói ngồi đây, rót ly nước trà ra, là tâm trộm lúc này nó đi lang bang rồi. Rót nước trà ra mời là lúc này tâm trộm của người hỏi đạo đi lang bang, mà chính quý thầy tâm trộm nó cũng đi luôn. Rồi uống, uống một hồi mới nói: Đại ý Phật pháp hả? Đại ý là gì, Phật pháp là gì, phân tích Phật là sao, Phật là tự giác giác tha, pháp là…, tâm trộm nó đi cả dòng luôn. Còn người xưa đến là các ngài đập, đập để tâm trộm chết chứ đâu có gì!
Bây giờ quý thầy làm được không? Muốn được như thế thì cơ phong, năng lực phải có, giới hạnh phải đầy đủ. Giới hạnh đầy đủ thì có năng lực lớn để nhiếp phục người học, tự nhiên người học có niềm tin lớn với mình, lúc này mới dùng những thủ thuật.
Những thủ thuật, đó là người xưa dồn ép cho tâm trộm của đệ tử chết chứ không có gì lạ hết. Chẳng hạn như đến các Thiền sư mà vừa mở miệng là các ngài bịt miệng và đập cho tâm trộm chết luôn. Hỏi là thua rồi, hỏi là đã mất rồi. Cho nên Thiền sư Đức Sơn nói: “Lúc ông bước xuống thuyền là đáng ăn ba mươi gậy rồi, huống chi là cỡi thuyền qua đây hỏi!” Ở xa rồi! Cho nên ở đây là nhờ ông thầy, sự khéo léo của ông thầy, đó là bậc thượng căn.
Thiền sư Thông Dung nói:
“Thuyết về tâm trộm là bệnh chung của người học, từ nhỏ nhiệm đến nổi bật, nằm ngồi đều còn. Họ đối với vật ngăn trong ngực chưa bỏ, ứng duyên tiếp vật ánh sáng không thấu thoát là thế. Nếu bậc thiện tri thức có đủ chánh tri kiến, cởi niêm mở trói, nhổ đinh tháo chốt cho họ, cố nhiên từ thủ đoạn kiềm chùy diệu mật, khiến cho họ người người như sư tử, như voi, như cọp, như rồng, khổ vui tự tại. Từng có người như thế, thử kể ra xem.”
Ai học thiền học đạo cũng đều có tâm trộm, từ nhỏ nhiệm đến nổi bật. Nhỏ nhiệm, như quý thầy ngồi đây nhưng nghĩ tưởng lang bang đầu này đầu nọ, hoặc xuống bếp thấy trái xoài trong kho định lấy nhưng mình biết cách chuyển hóa những hạt giống đó liền: lấy là trộm của Tam Bảo. Thấy trái xoài, mình lấy ăn, đó là nổi bật, có nghĩa là trong tâm đã ứng ra hành động. Ra hành động là nổi bật, còn chuyển hóa liền là nhỏ nhiệm.
Có được túc duyên gặp thầy sáng mắt dồn cho, sau khi bừng vỡ tức là tháo đinh mở chốt cho mình rồi thì quý thầy như sư tử, như voi, như cọp, như rồng, khổ vui đều tự tại. Sống trong cảnh khổ, cảnh vui hoặc sống trong cảnh thuận nghịch gì cũng được. Như vậy là nhờ đức độ, nhờ sự khéo léo của người thầy.
Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục có ghi:
Thiền sư Phù Sơn Viễn, Thiên Y Nghĩa Hoài cùng với mọi người đồng đến thưa hỏi ngài Qui Tỉnh ở huyện Diệp, cả thảy hơn bảy mươi người. Đến nơi bị ngài Qui Tỉnh đánh, mắng rồi đuổi:
– Các ông là Tăng bảo thành thị đến đây làm gì, ở đây ta đâu có cơm thừa để nuôi kẻ nhàn rỗi như các ông.
Mọi người vẫn bất động, ngài lấy nước lạnh tạt vô mặt, mọi người cũng không đi. Cuối cùng ngài Quy Tỉnh lấy tro hất vô mặt. Bảy mươi người đi hết sáu mươi tám người, chỉ còn hai người là Thiền sư Hoài và Thiền sư Viễn ngồi im như cũ. Thiền sư Qui Tỉnh mới nói:
– Chúng nó đi hết rồi, còn hai ông sao chẳng chịu đi?
Thiền sư Viễn thưa:
– Đã lâu mến mộ đạo đức của Hòa thượng, chúng con chẳng ngại ngàn dặm đến đây, lẽ nào vì một gáo nước lạnh, một nắm tro liền bỏ đi?
Ngày xưa xin lên Trúc Lâm tu khó lắm. Ở Thường Chiếu có một thầy xin không được, thầy chặt ngón tay gởi cho Hòa thượng thì Hòa thượng cho lên. Còn một người từ thành phố đạp xe đạp lên Thiền viện Trúc Lâm, Hòa thượng cảm kích quá mới nhận. Ngày xưa tụi tôi ở Thường Chiếu muốn lên Trúc Lâm là phải đăng ký trước, có vị nào đi làm Phật sự trống một hai đơn Hòa thượng kêu lên mới có chỗ ở.
Ngài Quy Tỉnh nói:
– Hai ông đã thật sự vì Phật pháp, ở đây thiếu điển tọa, các ông có thể làm được không?
Viễn nói:
– Con tình nguyện làm.
Điển tọa là nấu nướng, như bây giờ tri khố nấu ăn cho đại chúng gọi là điển tọa. Còn thủ tọa là coi chúng, chẳng hạn như quản chúng trong viện, coi hết tất cả. Thiền sư Hoài được vào chúng tu học.
Một hôm Ngài Quy Tỉnh đi vắng, thương Tăng chúng ăn cực khổ, vì lòng từ bi nên thầy điển tọa nấu cháo nêm cho đại chúng.
Ngày xưa rất là khổ, nấu một bữa cháo nêm không phải dễ, chờ Hòa thượng đàng đầu đi vắng rồi mới dám nấu chứ ngài không cho. Như Thiền sư Đạo Giai, trong chúng hằng ngày nấu hai ký gạo, hôm nào bất ngờ có thêm khách đến xin cơm ngài nói đổ thêm nước lạnh chứ không có gạo. Hôm nào, nấu cháo mà thêm một trăm người thì ngài nói đổ hai thùng nước vô nấu cháo lỏng húp, không bao giờ cho thêm gạo. Như vậy mà dưới Pháp hội của ngài không ít hơn năm trăm người tu học, tức là người ta trọng đạo đức chứ không phải trọng cái ăn. Còn mình, bữa nào mà thấy trên bàn toàn rau muống luộc là thấy nản!
Cháo chín thì Hòa thượng về, ngài lên quả đường ăn luôn. Ăn xong ngài gọi tri sự lại hỏi:
– Hôm nay có thí chủ cúng dường phải không?
Tri sự đáp:
– Dạ không phải.
Thiền sư Quy Tỉnh nói:
– Như vậy thì trong chúng góp lại cúng phải không?
– Dạ cũng không phải.
Thiền sư Quy Tỉnh hỏi tiếp:
– Thế thì cháo này từ đâu mà có?
Tri sự nói:
– Xin Hòa thượng hỏi điển tọa.
Do đó Viễn tự thú:
– Con thấy đại chúng ăn cực khổ quá nên tự con nấu cháo.
Thiền sư Quy Tỉnh nói:
– Lòng tốt của ông đợi ngày sau ông ra làm trụ trì cũng chưa muộn, sao được ăn trộm vật của thường trụ để lấy lòng đại chúng?
Bao nhiêu đó thôi là xin xuất chúng mình nói liền: “Hòa thượng cũng ăn, mà con nấu là nấu cho đại chúng chứ có phải cho con đâu!”
Quý thầy thấy làm vậy phải ăn trộm không? Ngài làm điển tọa thì ngài có quyền chứ. Nhưng mà phải ép vô để tâm trộm chết.
Ngài sai tri sự tính y bát đáng giá bao nhiêu quy về thường trụ rồi đuổi Viễn ra khỏi chúng không cho tu học nữa. Thiền sư Viễn khẩn cầu hai ba lần ngài đều chẳng chấp nhận. Rồi sư cầu các bậc tôn đức cùng đàn việt ở các nơi đến xin cho, ngài Quy Tỉnh giận dữ nói:
– Ta bảo ông chẳng phải là người tốt, ông muốn dùng thế lực áp bức ta ư? Hãy đi mau!
Viễn thưa:
– Như vậy thì con không dám mong Hòa thượng cho ở, chỉ khi thuyết pháp mong Hòa thượng cho được nghe là đủ rồi.
Tôi từng chứng kiến, có những người thích nghe băng giảng của thầy mình, nhưng thầy nói nặng rồi là đem băng của thầy cho hết, có khi bỏ thùng rác luôn, huống chi là bị thầy mắng chửi đuổi đi. Vậy mà ở đây thiền sư Viễn mặc dù bị đuổi, vẫn một bề năn nỉ cho được nghe Hòa thượng thuyết pháp.
Ngài Quy Tỉnh chấp nhận. Thiền sư Viễn ra ở nơi hành lang ngôi chùa khác phía dưới núi. Một hôm Quy Tỉnh thấy hỏi rằng:
– Ông ở đây bao lâu rồi?
Viễn thưa:
– Đã nửa năm.
Qui Tỉnh bảo:
– Trả tiền phòng của thường trụ chưa?
Viễn thưa:
– Dạ chưa.
Qui Tỉnh bảo:
– Đây là phòng của thường trụ, ông sao dám trộm ở? Hãy mau hoàn lại cho chùa! Nếu không ta sẽ đi báo quan bắt ông.
Như mình chắc là giận thầy, phát nguyện muôn đời sau không gặp. Bởi vì mình là bậc hạ đẳng. Ở đây là ép dồn cho tâm trộm chết luôn.
Thiền sư Viễn lặng lẽ đi hóa duyên trả lại cho chùa, rồi vào thành ở chứ không dám ở dưới mái chùa nữa. Mỗi lần đi hóa duyên mà trông thấy Quy Tỉnh lại càng thêm kính trọng. Lúc này Quy Tỉnh trở về núi nói với đại chúng:
– Huyện Diệp có Cổ Phật ra đời, các ông có biết chăng?
Như vậy là biết tâm trộm chết rồi. Câu chuyện trên hợp với bài này: “Phàm Chỗ Ra Làm Không Được Tự Ý.”
Đại chúng thưa:
– Cổ Phật là ai?
Quy Tỉnh bảo:
– Như ông Viễn mới thật là Cổ Phật.
Cả chúng đều kinh hãi, liền sắp đặt hương hoa, trang nghiêm vào thành đón Viễn trở về. Quy Tỉnh đặc biệt thượng đường đối diện truyền trao Phật pháp.
Thiền sử có ghi, trong lịch sử Thiền tông có hai lần đặc biệt truyền pháp, lần thứ nhất là Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền cho Lục Tổ Huệ Năng, truyền cho cư sĩ, nhưng mà truyền lén lút. Ngược lại, Thiền sư Phù Sơn Viễn được thầy truyền trao Phật pháp trước đại chúng.
Thiền sư Viễn về làm trụ trì thì bảo đảm nói gì chúng cũng nghe. Sức nhẫn của ngài làm cho tâm thiên hạ phát huy lên, mà tâm trộm thì chết. Bị đánh bị đuổi, bị nói nặng, nói nhẹ nhưng vẫn kính trọng thầy, đây đúng là Cổ Phật.
Sau khi học pháp với Thiền sư Bạch Ẩn ngộ đạo rồi, Thiền sư Nga Sơn tán thán những biện pháp nghiêm khắc, rồi đẩy dồn đệ tử đến chỗ bế tắc cuối cùng của Thiền sư Bạch Ẩn:
“Tôi không quý trọng ngài về đức hạnh vĩ đại hay danh tiếng, tôi không quý trọng sự nhận thức siêu việt của ngài hay trí tuệ uyên áo của ngài đối với công án khó thấu của cổ nhân, tôi không thấy tầm quan trọng đối với bài giảng lưu loát hay những lời bình vô ý của ngài, tôi không thấy giá trị trên sĩ số môn đồ của ngài. Tôi chỉ nể phục ngài ở chỗ trong khi tất cả Thiền sư khác trong nước không thể làm gì được tôi, bằng những biện pháp nghiêm khắc, Bạch Ẩn đã đẩy dồn tôi đến chỗ bế tắc, cuối cùng khiến tôi hoàn tất việc lớn.”
Thiền sư Nga Sơn cơ phong rất giỏi nhưng Thiền sư Bạch Ẩn biết người này chưa ngộ, chỉ là đến bờ vực của sanh tử thôi, nên ngài đẩy dồn đệ tử đến chỗ bế tắc, cuối cùng ngộ đạo.
Thiền sư Tuyết Đàm sau khi nghe câu nói của Thiền sư Nga Sơn, ngài viết một bản qui chế cho những Thiền viện:
“Học thiền đòi hỏi phải đủ ba yếu tố lớn: Có tín căn lớn, có nghi vấn lớn, có kiên định lớn.”
1- Có tín căn lớn:
Như Thiền sư Đại Mai đến hỏi Mã Tổ:
– Thế nào là Phật?
Ngài trả lời:
– Tức tâm là Phật.
Rồi về ở núi. Sau khi ở núi một thời gian thì Thiền sư Mã Tổ sai vị Tăng lên nói:
– Bây giờ Hòa thượng không dạy tức tâm là Phật nữa, mà nói “phi tâm phi Phật.”
Lúc này Thiền sư Đại Mai nói:
– Mặc ông già nói mớ mê hoặc người trong thiên hạ, ta cứ tức tâm tức Phật.
Vị Tăng về trình với Mã Tổ, Mã Tổ nói:
– Đại chúng! Trái mai đã chín.
Nghĩa là tín căn lớn. Tín căn lớn là ngày xưa thầy dạy như thế nào, bây giờ dầu ai nói tu cách gì mau thành Phật mình cũng không tin. Chỉ quyết định đi theo một con đường, đó gọi là tín căn lớn, điều này rất cần cho người tu thiền. Quý thầy có tín căn lớn, tin tưởng nơi thầy, phó mạng mạch cho thầy rồi thì tu mới tiến. Chứ nửa tin nửa ngờ khó tu.
Trong Nhiếp Đại Thừa Luận nêu ba việc cần phải tin:
– Tin tự tánh thật có Phật tánh.
– Tin có khả năng chứng đắc.
– Tin tự tánh có công đức vô cùng.
Có nghĩa là tin mình có khả năng chứng đắc về pháp môn thiền này, một ngày nào đó phải triệt chứng. Triệt chứng rồi mình tin có tự tánh và tự tánh có công đức vô cùng.
2- Có nghi vấn lớn.
Học trong kinh điển hay thầy dạy mình phải có nghi vấn.
3- Có kiên định lớn.
Chẳng hạn như quý thầy vào thiền viện tu một thời gian rồi nản bỏ đi chỗ khác, học pháp khác, nhà thiền nói sáng Tần, chiều Sở. Không lập chí tin tưởng pháp môn, tu một thời gian mình suy nghĩ, thôi bây giờ mình đi học ở học viện hay học ở đâu đó. Quý thầy lớn tuổi thì không chứ quý thầy trẻ tuổi có. Quý thầy không hiểu phương pháp của thiền, có những người tu mười năm, hai chục năm, ba chục năm, có người tu cả đời chưa xong, mà các ngài phát nguyện đời này không xong, đời sau tu nữa.
Trong thiền viện của Ngài Ajahn Chah có một thiền sinh tu mười năm không thấy kết quả gì, ông nản quá bỏ đi thiền viện khác, ông đi nhiều nơi cuối cùng trở về xin tu học lại với Thiền sư Ajahn Chah. Được một thời gian ông lại đi nữa, rồi lại trở về, Thiền sư cũng cho. Nhưng ông đi tới đi lui hoài, cuối cùng Thiền sư kêu ông lại nói: “Tôi nói thật anh đừng buồn, người mà bỏ cục cứt chó trong túi thì đi chỗ nào cũng hôi thúi hết. Muốn hết hôi thúi thì anh làm ơn liệng cục cứt chó đi.”
Thiền sư dạy rất là đơn giản, mà quý thầy nghe thấm không? Có nghĩa là tâm mình còn tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, tật đố đủ hết, bây giờ lên cõi trời tam thiên, đại thiên thế giới cũng hôi thúi. Muốn đến chỗ nào cũng an ổn, an lạc thì phải vất bỏ hết những thứ đó đi.
Trong Mật Truyền Tham Thiền Yếu Pháp của Thiền sư Thiên Cơ dạy:
“Hạ thủ công phu tu thiền điều cốt yếu thứ nhất phải lập chí vững chắc, bởi vì chí là vị nguyên soái của khí lực. Nếu người lập chí vững chắc như thống lãnh trăm vạn quân, uy thế dậy trời, còn việc gì chẳng thành. Người hay sợ khó là tại lập chí không có vững. Người chạy theo cảnh cũng là tại lập chí không có vững. Người nghe chê, khen bèn dời đổi giữa đường tự lùi, trước siêng sau lười, đều là chí không vững.”
Nghĩa là theo vị thầy đó rồi mình phải lập chí. Không phải mới vào là được an ổn liền, quý thầy mới xuất gia mà nói ngồi thiền được an ổn là khó lắm. Trừ trường hợp người nào có túc duyên sâu, không thì cũng mười năm, có khi hai chục năm. Phải lập chí cho vững, tức là chưa được mình phải cố gắng. Mới vào thì rất siêng tu, tụng kinh ngồi thiền cái gì cũng làm hết không bỏ nhưng tu một thời gian rồi nghe chê, nghe khen, nghe này, nghe kia thì mình thối lui.
“Chí vững thì sự ắt thành. Tôi mượn việc đời để bàn điều này, ví như vua Việt phục thù vua Ngô, Trương Lương trả hận nước Hàn, Địch Nhân Kiệt tái hưng nhà Đường, thảy đều do chí quyết định mà việc được thành công đúng sở nguyện. Phật pháp cũng như thế.”
Ngài dẫn việc đời, vua Việt phục thù vua Ngô, tức là vua Việt Câu Tiễn, sau khi bị Ngô Phù Sai bắt về nước Ngô, ông chịu nhiều khổ nhục, kể cả việc nếm phân của Phù Sai để đoán bệnh. Ông lập chí phục thù vua Ngô, cuối cùng đánh thắng nước Ngô.
Rồi chuyện Trương Lương trả hận nước Hàn. Trương Lương ở nước Hàn nhưng nước Hàn bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt, cho nên ông đi lang thang, cuối cùng ông làm quân sư cho Hán Cao Tổ đem quân đánh phá tan quân Tần.
Địch Nhân Kiệt tái hưng nhà Đường. Đời nhà Đường, Hoàng hậu Võ Tắc Thiên chiếm ngôi vua rồi lập nhà Chu, nhưng trong quan thần có Địch Nhân Kiệt, nhờ bền chí nên ông tái hưng nhà Đường.
“Ngạn ngữ nói: Người nam không chí như sắt lụt không cứng, người nữ không chí như cỏ thúi không tươi. Công phu tu thiền chí này rất là tối yếu.”
Đại sư Trung Phong ca rằng:
Cũng không khó cũng không dễ,
Chỉ quí nam nhi thật có chí.
Thật chí sức đạo mới vững mạnh,
Sức mạnh tiến đạo như trò chơi.
Đây là phương pháp ứng nghiệm vậy.
Ngài nói, tu thiền hay đến học thầy mình phải lập chí cho vững. Lập chí vững rồi thì đạo không khó, giống như trò chơi vậy thôi.
“Sắm pháp y mới trước phải thưa thầy, mặc pháp y mới trước phải thưa thầy, cạo đầu trước phải thưa thầy, bệnh tật uống thuốc phải thưa thầy, làm việc chúng tăng trước phải thưa thầy.”
Hồi xưa rất là khó, chẳng hạn như sắm Pháp y mới mình nói: “Bạch thầy! con sắm Pháp y mới rồi, bây giờ con mặc.” Cạo đầu mình khỏi thưa thầy nhưng phải biết ngày nào chúng cạo tóc. Ở đây ngày mười bốn toàn chúng ai cũng cạo tóc, nhưng quý thầy ngày mười một cạo, ai tóc cũng còn dài chỉ quý thầy cạo láng nhìn thấy giống như ở đâu lạc đến vậy.
Luật hồi xưa rất khó, làm gì cũng phải thưa thầy, nhưng nhớ kỹ trừ năm trường hợp không thưa:
1- Xỉa răng.
Giống như thằng Bờm làm gì nó cũng thưa, đưa hai cái tô kêu nó đồng mua mắm, đồng mua tương, nó hỏi tô nào đựng mắm, tô nào đựng tương! Nghe nói làm gì cũng thưa thầy, mình ăn cơm xong đến thưa: “Bạch thầy con ăn cơm rồi xỉa răng” là không được.
2- Uống nước.
3- Đi đại tiện.
4- Đi tiểu tiện.
5- Nội ranh giới của chùa trong 49 tầm, lễ Phật hoặc lễ Pháp, tụng kinh thì không thưa thầy.
23. Đi Tham Học Phương Xa
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghĩa là tham lễ các phương thiện tri thức. Muốn làm bậc thượng nhơn ắt phải hướng ở trong sự mài giũa lớn, ngàn lần mài, trăm lần luyện. Một phen đào thải các cặn bã của tri thức, thì mới có thể ra vào tự tại.”
Câu chuyện của Thiện Tài Đồng Tử tham vấn 53 thiện tri thức, trong lý thiền là đi qua 53 cảnh giới của tâm thức. Cho nên ở đây nói là đi tham vấn các bậc thiện tri thức. Sau này quý thầy muốn làm thầy thiên hạ phải ở dưới sự mài giũa, ngàn lần mài, trăm lần giũa, rồi một phen đào thải cặn bã của tri thức thì mới có thể ra vào tự tại được.
Mình không có đi tham học phương xa như ngày xưa nữa, ở đây gần chín chục người thì tám mươi chín thiện tri thức mài giũa. Bữa nào xuống trị nhật sáu người mà năm người ngồi uống trà bắt mình rửa rau, cứ rửa đi, đó là mài giũa. Mình muốn sau này làm thầy thiên hạ thì mình phải cho năm sư huynh mình mài giũa mình, ngay đó mà quý thầy nổi sân là hết! Bây giờ khỏi cần đi tham các phương thiện tri thức gì hết. Ngày xưa các chùa chỉ có một thầy một trò, đệ tử mới xin thầy đi tham học phương xa để mài giũa bản ngã của mình. Bởi vì ngày xưa toàn là tướng là quan đi tu, mà muốn mài giũa là phải vô Đại tùng lâm, trong Đại tùng lâm mài giũa bản ngã dữ lắm. Người mới xuất gia, các ngài ví dụ giống như hòn sỏi còn nhiều đá ngạnh, phải bỏ xuống biển cho sóng đánh, sóng mài giũa. Một thời gian thấy tâm mình yên yên thì biết sau này mình làm thầy được. Nên Cổ Đức nói: “Muốn hướng qua đầu ngàn người, trước phải đi dưới chân vạn người.”
“Đi xa phải nương bạn lành.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Bạn lành nghĩa là nhơn phẩm đoan chánh, ngôn hạnh khả ái nên gọi là bạn lành.”
Người oai nghi phép tắc, giới luật đầy đủ, lời nói ra rất là dễ mến, dễ gần gũi, thì đó gọi là bạn lành.
Trong Đại Luật ghi có mười loại bạn nên thân cận:
1- Bạn ưa thích chỗ an lạc, nhàn tịnh ở chốn núi rừng nên thân cận, vì có thể ngăn chặn tâm vọng động của hành giả.
Người bạn nào mà thích chỗ nhàn tịnh ở chốn núi rừng thì mình nên gần gũi. Mình ở gần người thích chốn yên tịnh, chốn núi rừng thì mình muốn đi ra chợ, ra phố cũng khó. Cho nên phải thân cận với người này.
2– Bạn nghiêm trì giới luật nên thân cận, vì có thể làm giảm bớt dục vọng điên cuồng của hành giả.
Người giữ giới luật nghiêm túc mình nên thân cận để học hỏi, để làm giảm bớt dục vọng của mình. Chẳng hạn tối mười giờ, mình muốn ăn, người bạn này giữ giới nói đừng ăn, nên mình dừng lại được, từ từ mình giữ giới được như bạn.
3- Bạn có trí huệ rộng lớn nên thân cận, vì có thể đưa hành giả vượt thoát khỏi bến mê.
Trong Thiền sử có ghi, chơi bạn phải như Thiền sư Nham Đầu và Thiền sư Tuyết Phong. Trong Thiền sư Trung Hoa Tập I có ghi:
Một hôm Thiền sư Nghĩa Tồn nói:
– Tôi thật còn chưa ổn.
Nham Đầu bảo:
– Nếu ông thật chưa ổn, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ nào phải tôi sẽ chứng minh, chỗ chẳng phải tôi sẽ vì ông đuổi đi.
Nghĩa Tồn nói:
– Khi tôi mới đến Diêm Quan thấy thượng đường nói nghĩa sắc không liền được chỗ vào.
Nham Đầu bảo:
– Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên nói đến.
Nên chơi với người bạn có tâm thức lớn, năng lực lớn. Nếu công phu mình bất ổn, thì đến tâm sự với bạn. Nhiều khi quý thầy không dám lên Hòa thượng, không dám lên thầy Trụ trì, mình chia sẻ với bạn, bạn phá những điểm đó, nhờ đó mình có chỗ đi.
Nham Đầu bảo:
– Nếu cùng như thế tự cứu cũng chẳng được.
Nghĩa Tồn nói tiếp:
– Sau tôi hỏi Đức Sơn việc trong tông thừa từ trước con có phần chăng? Đức Sơn đánh một gậy bảo: Nói gì? Tôi khi đó như thùng sơn lủng đáy.
Thùng sơn lủng đáy cũng là khá rồi đó, nghĩa là có sự chuyển biến lớn trong nội tâm.
Toàn Khoát nạt:
– Ông chẳng nghe nói từ cửa vào chẳng phải là của báu trong nhà?
Nghĩa Tồn hỏi:
– Về sau làm thế nào mới phải?
Nham Đầu bảo:
– Về sau nếu muốn xiển dương tông thừa mỗi mỗi phải từ trong hông ngực mình mà lưu xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi.
Nghĩa Tồn nhân câu này đại ngộ, liền đảnh lễ đứng dậy kêu luôn:
– Sư huynh! Ngày nay mới thành đạo ở Ngao Sơn.
Cho nên trong luật nói: “Chơi bạn phải chơi như Thiền sư Nham Đầu và Thiền sư Tuyết Phong,” nhờ bạn khai thị mà Tuyết Phong mới ngộ đạo.
4- Bạn có văn tự tổng trì nên thân cận, vì có thể giải tỏa các điều nghi ngờ của hành giả.
Chẳng hạn như Tôn giả A-nan. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Tôn giả A-nan rất được các huynh đệ thân cận. Ngày xưa không có sách vở như mình, cũng không có thu băng gì hết, mỗi khi Phật thuyết một bài pháp, chẳng hạn bài “Quán niệm về hơi thở”. Ngày hôm sau quý thầy phải trùng tuyên lại để học – nhớ – thực tập. Nhưng có những người nghe xong rồi quên, phải nhờ Tôn giả A-nan nhắc lại. Cho nên Tôn giả A-nan rất được nhiều người kính mến, bởi vì Ngài có văn tự tổng trì, có thắc mắc gì thì đến hỏi ngài.
Sở dĩ Tôn giả A-nan có năng lực lớn như thế, nghe đâu hiểu đó, nghe đâu nhớ đó vì Ngài có sức định, khi Phật nói ngài lắng tâm nghe. Còn nhiều khi mình nghe băng Hòa thượng giảng, trên thì thấy hình bóng Hòa thượng giảng mà dưới này quý thầy coi sách gì đó thì nghe mà không nhớ gì hết.
5- Bạn trầm tĩnh nên thân cận, vì có thể đưa hành giả đến trình độ điềm đạm.
Chẳng hạn như Tôn giả Bạc-câu-la vào thời Đức Phật rất điềm đạm, rất trầm tĩnh.
6- Bạn khiêm tốn nhẫn nhục nên thân cận, vì có thể làm tiêu tan tâm ngã mạn của hành giả.
Đi phương xa mình nhớ gần những người bạn khiêm tốn nhẫn nhục.
7- Bạn tâm thẳng nói thật nên thân cận, vì có thể kềm chế điều lỗi lầm của hành giả.
Người bạn này chơi rất tốt nhưng quý thầy dám chơi không? Bản ngã mình lớn quá cũng khó lắm. Thiền thoại có ghi:
Một hôm Ngài Linh Nguyên cùng Tử Tâm vào thành trở về, ngài Hối Đường hỏi đi đâu, ngài Linh Nguyên nói qua chùa Đại Minh. Lúc này Ngài Tử Tâm nhìn thẳng nói: “Người tham thiền cốt là vượt thoát sanh tử, sao sư huynh lại không thành thật?” Ngài Linh Nguyên đỏ mặt, từ đó về sau không vào thành nữa và quyết chí thành Phật, lúc này ngài Hối Đường nói: “Linh Nguyên, Tử Tâm đều tốt, hai người đều chịu mài giũa.” Sau này dưới trướng của ngài Thảo Đường có hai vị kiệt xuất nhất đó là ngài Linh Nguyên và Tử Tâm.
Bạn như vậy dám chơi không? Chẳng hạn như bữa nào quý thầy đi đâu mới về, thầy Trụ trì hỏi đi đâu, quý thầy ra chợ mà nói con ra chùa Linh Sơn thăm Hòa thượng gì đó, hoặc thăm tháp của Hòa thượng tịch, người bạn kế bên nói: Sư huynh ơi! Tham thiền là cốt vượt thoát sanh tử mà sư huynh nói dối đâu được! Bảo đảm quý thầy đỏ mặt và giận bạn.
Chơi với người thành thật có lợi ích lắm, nhưng mà phải chịu mài giũa bản ngã của mình thì chơi mới được. Cho nên Khổng Tử nói: “Người ham học hỏi thì gần được đức trí, người cố gắng làm được chuyện phải thì gần đức nhơn, người biết xấu hổ thì gần được đức dũng.”
8- Bạn tinh tấn dũng mãnh nên thân cận, vì có thể giúp hành giả thành tựu đạo quả một cách nhanh chóng.
Người siêng tụng kinh, siêng ngồi thiền thì mình nên làm bạn. Bữa nào mình bỏ ngồi thiền, bỏ tụng kinh mình thấy kỳ, cho nên gần gũi người như thế rất tốt.
9- Bạn xem thường của cải, ưa thích bố thí nên thân cận, vì có thể phá bỏ tánh keo kiệt của hành giả.
Đừng nghĩ rằng mình có tiền, có của là thích bố thí. Nếu trong thời quá khứ, túc duyên xưa, quý thầy chưa từng bao giờ phát nguyện bố thí, cúng dường, thì ngày hôm nay làm chuyện đó không được. Tôi chứng kiến có một vị thầy ở Úc về, ông ra ngoài nhà trưng bày mua sách cho chúng, trong chúng xin ông hai ba cuốn sách gì đó. Ông hỏi:
– Cuốn sách này bao nhiêu?
– Năm chục ngàn.
Ông hỏi tiếp:
– Photo thì bao nhiêu?
– Hai chục ngàn.
Ông nói thôi photo giùm tôi ba cuốn sáu chục ngàn, mua uổng quá!
Quý thầy thấy không phải chuyện đơn giản. Năm chục ngàn mua cuốn sách luôn thì tốt biết bao nhiêu mà ông không chịu, ông kêu photo cho rẻ. Tiền ông biết bao nhiêu mà kể, ông dám cất cái thiền thất của ông gần một triệu đô-la nhưng bỏ ra vài chục ngàn không được. Cho nên bạn xem thường của cải, ưa thích bố thí thì mình thân cận, mình thấy người đó làm thì mình bắt chước.
Duy Thức Học nói:
“Phàm phu sanh ra trong đời này vốn có đầy đủ mười hai gốc thiện tâm, tám tham tâm, hai sân tâm, hai si tâm, một trăm lẻ tám loại tham ái, một ngàn năm trăm loại phiền não. Họ không có duyên lành gặp được bậc thiện tri thức, không được lắng nghe chánh pháp, học hỏi chánh pháp của bậc thiện trí nên không hiểu biết thế nào là thiện pháp hoặc ác pháp, thế nào là biết bố thí, cúng dường nên không có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.”
Mình có tâm biết bố thí cúng dường Tam bảo là biết túc nghiệp ngày xưa đã có. Duy thức học nói mình sanh ra đời đã có sẵn tâm tham ái, tâm tật đố, tâm ích kỷ, tâm sai biệt.
Kinh Pháp Cú có ghi:
Ở trong kinh thành Xá Vệ có một ông phú hộ rất giàu, nhưng chưa từng biết cúng dường Tam bảo hay bố thí cho những người nghèo khổ. Khi chết, do năng lực của nghiệp quả nên tái sanh làm con của hai vợ chồng mù ăn xin. Do ác nghiệp ông nặng quá nên khi mẹ ông thụ thai thì bị chồng bỏ vì chán ghét, ông sanh ra đời cũng bị mù. Ông có một người con cũng là phú hộ giàu có, bởi vì ông để lại của cải rất nhiều. Một hôm ông lang thang đến nhà người con xin ăn, bị người con lấy gậy đánh chảy máu té xỉu. Lúc này Đức Phật đi ngang qua, ngài nói với người con:
– Ông biết người này là ai không? Chính là cha của ông ngày xưa, do túc nghiệp không biết bố thí cúng dường và do tâm tật đố ích kỷ nên bây giờ tái sanh trong một gia đình rất nghèo, ăn xin lại còn bị mù mắt.
Người con không tin. Phật nói:
– Nếu không tin ông kêu đứa nhỏ này chỉ cho hai hầm châu báu.
Quả tình nó chỉ, đào lên đúng hai hầm châu báu. Lúc này người con mới tin. Phật nói bài kệ:
Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu mãi rộn ràng,
Ta còn không thật có,
Lo gì của và con.
Mình tu chưa đến chỗ giác ngộ giải thoát cuối cùng của Đạo Phật, thì mình nhờ thiện pháp này để mai kia tái sanh vào những cảnh giới tốt đẹp hơn. Quý thầy đừng nói có tiền mới biết bố thí cúng dường, mà mình thấy người nào làm việc được, có năng lực lớn trong đại chúng quý thầy cứ tùy hỉ, đó là bố thí, bố thí từ nơi tâm thức của mình. Tức là mình luôn luôn tùy hỉ những người nào có năng lực hơn mình dầu người đó nhỏ tuổi đạo hơn. Nhờ những hạt giống thiện pháp này bảo đảm quý thầy vào thất tu rất là nhẹ. Còn mình tật đố, ích kỷ, xan tham, nhiều khi trên đường tu chướng duyên rất nặng.
10- Bạn có tâm nhân từ che chở loài vật không tiếc thân mạng nên thân cận, vì có thể bẻ gẫy sự chấp chặt về nhân ngã của hành giả.
Mình đi xa phải nương tựa mười loại bạn lành này. Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể:
Ở nước Kinh có một người xem tướng rất giỏi, nói câu nào trúng câu đó, trong nước xa gần đâu cũng biết tiếng. Một hôm vua Sở Trang Vương đến hỏi:
– Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?
Người xem tướng thưa:
– Thần không có thuật gì lạ, thần chỉ xem bạn người ta mà biết được người ta hay hoặc dở.
Như thần xem cho người dân mà thấy chơi với người bạn hiếu cha mẹ, kính bậc sư trưởng, biết giữ lễ phép thì thần đoán người dân ấy là người hay, thân tất một ngày một vẻ vang, nhà tất một ngày một thịnh vượng.
Đây tôi rút kinh nghiệm, kể lại trong tùng lâm. Ngày xưa, chúng tôi ở Thường Chiếu chơi bạn với nhau, tụi tôi ở Đông đường chơi với nhau rất thân, cùng nhau tu học, cùng nhau làm việc. Bây giờ nhìn lại ở Thường Chiếu quý thầy đó làm việc được hết, một số làm giáo thọ giảng dạy, như Bảo Tú bây giờ làm việc rất là tốt. Có một số quý thầy thì bây giờ dịch thuật, dịch các bộ kinh lớn. Cho nên mình thấy chơi với bạn rất là quan trọng, người bạn mà ham học, ham tu thì bảo đảm mai kia quý thầy làm việc được hết.
Còn một số người cũng cỡ đó chơi với nhau, nhưng phá phách chỗ này chỗ nọ, nhiều khi vào Thiền đường nằm dài không chịu ngồi thiền, số này tính ra cũng mười mấy người bây giờ không còn người nào tu trong tùng lâm được hết. Thầy tôi được thầy Tỉnh Thuần cho cây lan quý, Thầy để trong trai đường. Buổi chiều Thầy giảng bài pháp vô thường, nhóm đó phá đến mức độ dậy thật sớm bẻ gãy cây lan. Vô thường mà, vô thường phải gãy thôi! Sáng Thầy ra ăn cơm, thấy cây lan bị bẻ gãy Thầy biết do nhóm đó liền, Thầy nói: “Đó, nó dạy tôi bài pháp vô thường.”
Nhưng mà không phải chuyện đơn giản, những người đó cuối cùng bị tổn phước ra đời hết. Cho nên mình vào tùng lâm chơi bạn phải dè dặt. Những người quậy phá, không giữ oai nghi phép tắc, giới luật của tùng lâm mà mình chơi chung thì có ngày mình cũng bị nhiễm. Mình chưa phải là thánh mà! Nhiễm rồi thì bảo đảm quý thầy tu không đứng vững được trong tùng lâm, một thời gian cũng hoàn tục vì không có đủ phước.
Như thần xem cho quan lại mà thấy chơi với những bạn thành tín có phẩm hạnh đều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi ích.
Như thần xem cho vua chúa mà thấy quan gần có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc có lỗi nhiều người can ngăn, thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một quy phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem bạn người mà biết được người hay hoặc dở.
Hòa thượng nổi tiếng xa gần là nhờ đệ tử ai cũng giỏi, có năng lực. Người Thầy dùng người là những bậc có năng lực lớn, có tài có đức thì các ngài được an ổn.
Bài này Chư Phật, Chư Tổ dạy chúng ta muốn đủ duyên đi tham học phương xa là phải nương với bạn lành, nương với bậc thiện tri thức.
Trong Kinh Hoan Dự Phật nói:
“Người bạn lành là nền tảng của muôn phước, có thể làm cho ta hiện đời khỏi lao ngục nhà vua, và sau khi chết qua khỏi cửa nẻo tam đồ. Đắc đạo thăng thiên cũng nhờ bạn lành giúp đỡ.”
Mình có phúc duyên, nhân duyên lớn nên được gặp các bậc thiện tri thức lớn, rồi mình vào các thiền viện gặp những người bạn tốt giúp đỡ. Trong Kinh A Hàm, Đức Phật nói rất rõ, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên là đôi bạn tri kỷ nhiều đời nhiều kiếp, có nghĩa là sanh ra ở kiếp nào thì Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cũng là đôi bạn tri kỷ giúp đỡ lẫn nhau đến con đường Thánh đạo.
Cổ Học Tinh Hoa kể câu chuyện:
Quản Trọng và Bảo Thúc Nha là đôi bạn chơi rất thân. Lúc còn nghèo khổ hai người đi buôn, tiền lãi lúc nào Quản Trọng cũng lấy phần nhiều hơn, cho nên một số người nói với Bảo Thúc Nha rằng Quản Trọng là người tham lam. Bảo Thúc Nha nói sở dĩ Quản Trọng lấy tiền nhiều vì nhà rất nghèo chứ không phải tham. Khi đi đánh trận thì lúc nào Quản Trọng cũng đi phía sau. Nhiều người nói Quản Trọng sợ chết, nhưng Bảo Thúc Nha nói sở dĩ Quản Trọng lúc nào cũng đi sau vì ông còn mẹ già. Cho nên Quản Trọng cảm động nói: “Sanh ta ra là cha mẹ, biết được ta là Bảo Thúc Nha.”
Tổ Quy Sơn dạy:
“Đi xa phải nương bạn lành, thường thường để nơi tai mắt. Nên có câu: Sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Nghĩa là sanh thân ta đây là nhờ cha mẹ, thành thân ta đây là do bạn lành.”
Quý thầy ở trong đạo nghiệm lại thấy rất rõ điều này. Sanh thân mình ra là nhờ cha mẹ, thành thân là nhờ bạn lành giúp đỡ trên bước đường đạo.
Trong bộ Xả Duyên Minh Ký có ghi:
“Sợ thầy tà, bạn ác như sợ cọp sói! Bạn lành, thầy hay thương mến như cha mẹ.”
Phật dạy gặp thầy tà, bạn ác mình phải sợ như sợ cọp sói. Còn bạn lành, thầy hay thì thương mến như cha mẹ. Trong Đại Trí Độ Luận, Bồ-tát Long Thọ nói, trên bước đường đi đến Phật quả có nhiều khúc khuỷu, tức là ngã tẻ. Các ngài nói rất rõ: “Thà một ngàn năm không ngộ còn hơn một ngày đi lạc đường.” Tức là bị thầy tà huân vào trong tàng thức của mình rồi thì kiếp sau mình gặp thầy tà này nữa. Người hành giả phải luôn luôn phát nguyện đời đời kiếp kiếp sanh ra nơi nào, ở quốc độ nào cũng được gặp thầy lành, bạn tốt hướng dẫn mình tu hành chứ không gặp thầy tà, bạn ác.
Kinh Tâm Địa Quán có ghi:
Tất cả Bồ-tát tu tập con đường Thánh đạo phải biết bốn loại pháp yếu cần phải nhớ:
1- Thân cận thiện tri thức là đệ nhất.
Mình thân cận thiện tri thức tức là gặp thầy lành, bạn tốt là đệ nhất.
2- Lắng nghe chánh pháp là đệ nhị.
Chẳng hạn mình có phúc duyên học hỏi về con đường thiền, mà con đường thiền tập này chính là con đường chánh pháp. Mình lắng nghe chánh pháp là đệ nhị.
3- Như lý tư duy là đệ tam.
Chẳng hạn như quý thầy đến đây nghe Hòa thượng chỉ dạy về con đường thiền tập, con đường chánh pháp, mình tư duy, thể nhập cái lý đó thì như lý tư duy là đệ tam.
4- Như pháp tu chứng là đệ tứ.
Như pháp mình tu mà mình chứng đắc, thể nghiệm thì là đệ tứ.
Đệ nhất là phải luôn luôn thân cận thiện tri thức.
“Mười phương tất cả bậc Đại Thánh Vương tu bốn pháp này đều chứng nhập con đường Vô thượng Bồ-đề.”
Mười phương tất cả Đức Như Lai đều dùng bốn pháp này mới đạt đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Kinh Nhân Quả nói:
Bạn lành có ba việc cần yếu:
1- Thấy mình có lỗi liền biết can cho nhau.
Chơi với người bạn nào đó, mà thấy mình có lỗi, người bạn này khuyên can, nhắc nhở thì mình biết đây là bạn lành. Chẳng hạn như quý thầy muốn xuống kho lấy món đồ gì đó thì bạn khuyên không được lấy, nhắc mình đây là tội trộm cướp, thì đó chính là bạn lành. Còn xúi lấy, thì mình biết đây không phải bạn lành mà là bạn ác.
2- Thấy mình có việc tốt liền sanh tâm tùy hỉ.
Mình được hạnh phúc, an ổn hay mình có năng lực để dìu dắt những người khác, mà bạn mình luôn luôn sanh tâm tùy hỉ thì biết đó là bạn tốt. Nhưng mà rất hiếm. Quý thầy bây giờ còn nhỏ, sau này lớn lên đủ duyên đi làm Phật sự mà người bạn mình chơi thân từ nhỏ, khi quý thầy ra làm Phật sự vẫn còn thân, tức là còn có tâm tùy hỉ, thì biết đây là người bạn thân chí cốt. Còn thiệt ra kể cả anh em ruột mà ra làm Phật sự cũng không được như ý.
Hòa thượng ở đây với Hòa thượng Huyền Vi là đôi bạn rất thân, từ lúc vào Phật Học Viện cho đến khi ra làm Phật sự. Hòa thượng Huyền Vi giảng rất hay, được rất nhiều người cung kính cúng dường, nhưng Hòa thượng luôn luôn phát tâm tùy hỉ. Tâm tùy hỉ có năng lực thiện pháp, cho nên sau này Hòa thượng bỏ trường Huệ Nghiêm xuống Vũng Tàu nhập thất chuyên tu thì mới phát minh được tâm địa, ngộ được lý sắc không. Còn mình mà có tâm tật đố, tâm ích kỷ với bạn thì bảo đảm chướng ngại đường tu rất lớn.
Mình chơi với người nhỏ tuổi đạo hơn, nhưng mình đâu biết họ có năng lực lớn. Mai kia họ dìu dắt chúng sanh, dìu dắt môn đồ, mình có tâm tùy hỉ vui theo thì người kia biết mình là bạn tốt, sẽ phát nguyện đời đời kiếp kiếp gặp mình.
3- Lúc mắc khổ nạn không bỏ rời nhau.
“Người xưa tâm địa chưa thông suốt, chẳng sợ nhọc đường xa nghìn dặm cầu thầy.”
Người xưa sau khi vào tùng lâm, mà thấy tâm địa mình còn những uẩn khúc gì đó, là phải đi đến ngôi tùng lâm khác lớn cầu các bậc thiện tri thức chỉ dạy.
Có một số giáo sư người Ba Lan đến Thiền viện Trúc Lâm tìm Hòa thượng xin tu học về con đường thiền tập. Họ kể bên Ba Lan không có thiền viện nhiều và không có Đạo Phật, bởi vì bên đó 99% theo đạo Công giáo. Có một vị giáo sư rất giỏi, ông cho rằng thương yêu mà không khởi niệm thì chưa phải là thương yêu, chưa phải là hạnh phúc. Ông thử nghiệm bằng cách đo điện tâm đồ, chẳng hạn khi người A thương mến người B thì có những làn sóng li ti hiện lên, như vậy ông mới chấp nhận là con người hiện hữu.
Trong số những vị giáo sư Ba Lan có một cô đã nghiên cứu thiền của Hòa thượng đến vấn đề: “Người chứng đắc Thánh quả, đạt đến con đường vô ngã vô niệm rồi, tuy có tâm thương mến những người khác nhưng vẫn không dấy niệm, không khởi niệm.”
Cho nên các vị giáo sư đó qua tìm học pháp của Hòa thượng.
Mới thấy rằng không chỉ người xưa, mà người thời nay tâm địa chưa thấu thoát được điểm nào đó thì người ta cũng chẳng sợ nhọc đường xa nghìn dặm mà cầu thầy. Thiền sư Tuyết Phong ba lần lên Đầu Tử, chín lần lên Động Sơn để tìm thầy học đạo. Chưa sáng được việc thì các ngài cũng bỏ hết tất cả để đi cầu thầy.
Trong tinh thần của thiền, người tu phải biết pháp học, pháp hành. Pháp học là bản đồ mà pháp hành là thiền tập. Nhiều khi mình nghe Hòa thượng giảng tức tâm tức Phật hay là đối cảnh vô tâm gì đó, mình tưởng ngộ rồi nhưng mà không phải. Mình học cho biết bản đồ chư Phật, chư Tổ chỉ dạy, mình chiêm nghiệm, tư duy, quán chiếu rồi đi đến con đường pháp hành, trải qua một thời gian rất lâu, có người thì ba chục năm, có người bốn chục năm. Có một người tôi giấu tên, nói với chúng tôi:
– Tháng tới con lên con trình với Thầy Trụ trì là khỏi thỉnh nguyện.
Tôi hỏi:
– Tại sao khỏi thỉnh nguyện?
– Vì quý thầy còn tâm nên còn lỗi, còn con bây giờ đối cảnh vô tâm rồi cho nên là thôi xin khỏi thỉnh nguyện luôn!
Quý thầy thấy cái đó là gì? Người ta nói đó là bệnh thiền. Thật ra đối cảnh vô tâm không phải vậy. Ở đây đối cảnh vô tâm mà các ngài vẫn thực thi các phương tiện thiện xảo vào cuộc đời này. Cho nên đúng theo nội qui, thì vẫn đi thỉnh nguyện.
Cho nên Khổng Tử nói:
“Ta mười lăm tuổi để trí hết vào sự học, ba mươi tuổi thì trụ vững, bốn mươi tuổi thì quán thân, năm mươi tuổi thì hết nghi, sáu mươi tuổi thì tri thiên mệnh, bảy mươi tuổi tùy lòng muốn mà không ra ngoài phép tắc.”
Mười lăm tuổi để trí hết vào sự học là pháp học, có nghĩa là mình phải biết bản đồ. Ba mươi tuổi trụ vững rồi thì bốn mươi tuổi thấu suốt hết. Năm mươi tuổi không còn ngờ gì nữa, tức là không còn ngờ trong kinh, trong sách hay tất cả vũ trụ vạn hữu. Sáu mươi tuổi thì biết thiên mệnh, tức là biết mệnh trời. Bảy mươi tuổi thì tùy lòng muốn mà không ra ngoài phép tắc.
Ở đây cũng vậy, mình làm hết tất cả việc nhưng không ra ngoài phép tắc, có nghĩa là Giới, Định, Tuệ. Mình vẫn đi thỉnh nguyện, vẫn làm hết tất cả. Nhưng quý thầy phải nhớ kỹ, sau này ra làm Phật sự hay tu tập khỏi bị lạc đường, tức là khỏi bị bệnh thiền, thì quý thầy phải nhớ tinh thần tứ tất đàn.
Tứ tất đàn là gì?
1- Thế giới tất đàn:
Tức thuận theo pháp thế gian mà nói nghĩa nhân duyên hòa hợp; cũng tức là dùng những phương pháp phổ thông ở thế gian như tư tưởng, ngôn ngữ, quan niệm…để thuyết minh chân lý duyên khởi. Chẳng hạn như: Con người là do nhân duyên hòa hợp mà có, vì thế nên chẳng phải là thực thể. Cho rằng con người có thật xưa nay vốn là cái thấy phổ thông của thế tục, nên Phật nói pháp thích hợp với thế tục để thuận theo mọi người, khiến cho phàm phu vui mừng mà được chánh trí thế gian, cho nên Tất đàn này còn được gọi là Lạc dục tất đàn.
2- Các các vị nhân tất đàn:
Tức tùy theo căn cơ và năng lực khác nhau của mỗi chúng sanh mà nói các pháp thực tiễn xuất thế, khiến chúng sanh sanh khởi thiện căn, cho nên cũng gọi là Sanh thiện căn.
3- Đối trị tất đàn:
Đối với phiền não của chúng sanh như tham, sân, si…tùy bệnh mà cho thuốc pháp để đối trị. Đây là giáo pháp nhằm diệt trừ phiền não và ác nghiệp của chúng sanh. Vì giáo pháp này có công năng dứt các điều ác của chúng sanh, cho nên cũng gọi là Đoạn ác tất đàn.
4- Đệ nhất nghĩa đế tất đàn:
Tức dẹp bỏ tất cả ngôn ngữ, luận nghị mà trực tiếp dùng Đệ nhất nghĩa để giải thích rõ lý thực Tướng của các pháp, khiến chúng sanh chân chính khế nhập giáo pháp, cho nên cũng là Nhập lý tất đàn.
Bốn tất đàn đó người tu thiền phải biết chứ không khéo là bệnh. Trong kinh Phật nói, giống như một nhà du hành đi xa mà muốn về nhà là phải đi. Tuy rằng mình biết bản đồ, nhưng chỉ đọc mà không đi thì mình cũng không đến.
Thiền sư Ajahn Chah nói:
“Chứng ngộ Phật pháp là một việc mà mỗi chúng ta phải tự mình làm lấy, bởi không ai có thể làm điều đó cho chúng ta. Và chúng ta phải đi đúng đường, con đường của đức hạnh, thiền định và trí tuệ cho đến khi chúng ta đạt được một đầu óc thuần khiết, chiếu diệu và bình an. Đây là kết quả hành trình tầm đạo của chúng ta.”
Chứng ngộ con đường Phật pháp là việc mỗi chúng ta tự mình làm lấy, tự mình đi. Mình chưa thấu thoát được thì phải học, hiểu, tư duy, rồi từ đó mình thực hành. Ngày xưa có một số người nhập thất ra rồi lên trình kiến giải Hòa thượng, Hòa thượng chứng minh nhưng Hòa thượng nói: “Trình kiến giải xong thì phải y đó tu tập, thể hiện ra hành động hằng ngày.” Chứ không phải trình kiến giải xong rồi thì mình sống khác khác, cái đó là bệnh của thiền.
“Nhưng nếu một người chỉ có kiến thức từ sách vở và kinh điển, chỉ nghe thuyết pháp và tụng kinh, có nghĩa là chỉ có bản đồ và kế hoạch cho cuộc hành trình, kẻ đó sẽ chẳng bao giờ biết được sự thuần khiết chiếu diệu và bình an trong tâm thức. Dầu sống cả một trăm kiếp, kẻ đó chỉ lãng phí thời gian và không bao giờ nhận được lợi ích từ sự tu hành. Vị thầy chỉ có thể trình bày đạo pháp cho nên chúng ta có tầm đạo bằng sự tu hành và có đạt kết quả hay không tùy thuộc vào chúng ta.”
Thiền sư Ajahn Chah nói rất rõ, người có kiến thức từ sách vở và kinh điển, chỉ nghe thuyết pháp và tụng kinh thôi thì giống như người có bản đồ mà không đi. Nghĩa là mình học, hiểu rồi phải thực tập. Thiền sư Bá Trượng nói:“Tâm địa thông rồi thì còn phải huân tu nhiều kiếp nữa mới tròn được Phật quả.”
Có người vào thất được hai mươi mốt ngày, bốn mươi chín ngày tưởng mình xong rồi nhưng mà không phải, tập khí còn rất nhiều. Tập có nghĩa là nhóm họp, khí là hơi. Cũng giống như con cá quý thầy gói lại rồi liệng con cá nhưng giấy gói cá vẫn còn hôi. Cho nên các ngài nói là tâm địa thông suốt rồi vẫn còn phải tu nữa.
Trong quyển “Tu Tâm Quyết” có một vị Tăng hỏi Thiền sư Phổ Chiếu:
– Đã nhận được lý này trọn không có giai cấp, thì đâu cần sau tu huân tập dần dần để thành tựu?
Ngài đáp:
– Nghĩa tu dần sau khi ngộ, trước đã nói đủ mà nghi ngờ cũng chưa hết, vậy thì chẳng ngại nói lại, ông nên tịnh tâm lắng nghe. Phàm phu từ vô thủy kiếp đến nay, trôi lăn trong năm đường, chết đi sống lại, chấp chặt thân tướng cùng vọng tưởng điên đảo, huân tập vô minh lâu đời trở thành tánh.
Phàm phu mình từ vô thủy trôi lăn trong năm đường: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la, rồi chết đi sống lại. Cho nên trong Kinh A-hàm Phật nói, giả như xương của mình chất thành đống mà còn hiện hữu thì cao hơn núi Tu-di, và nước mắt thì nhiều hơn biển cả. Như vậy mình biết rằng mình luân hồi trong ba đường, sáu nẻo rất nhiều, từ sự luân hồi đó lại chấp chặt cái thân tướng cùng vọng tưởng điên đảo, huân tập vô minh lâu đời trở thành tánh.
Chẳng hạn như bây giờ mình nói cái này là cái nhà, cái kia là cái bàn, ai nói khác đi mình cũng không chịu, bởi huân tập thành tánh rồi. Như bây giờ đưa cái máy ghi âm lên quý thầy nhìn, khỏi cần vọng tưởng cũng biết là cái gì. Mình tưởng đây là tri kiến thanh tịnh nhưng thiệt ra không phải, nó huân tập thành tánh lâu đời rồi, ai mà nói khác mình cãi liền.
“Tuy đến đời này chóng ngộ, tánh mình xưa nay rỗng lặng không khác với Phật, nhưng thói cũ vẫn khó đoạn trừ, nên gặp cảnh thuận, nghịch, mừng, giận, phải, trái vẫn khởi diệt mạnh mẽ. Nếu không lấy công phu Bát-nhã mà nỗ lực thì sao có thể đối trị vô minh được đến chỗ thôi nghỉ?”
Có nghĩa là tuy đời này mình có chủng duyên Bát-nhã rất sâu, nghe Hòa thượng giảng, nghe chư Phật nói, mình biết là trong tâm có một vị Phật vô sanh bất diệt không khác với Phật, nhưng mà thói cũ vẫn còn, rất khó đoạn trừ! Có những người vào đây, nghe hiểu rồi tưởng rằng mình với Hòa thượng cũng bằng nhau, Hòa thượng có Phật tánh, mình cũng có Phật tánh. Nhưng chỉ cần một niệm ngã mạn trong đó thôi, thì tự nhiên mình mất phước, hoặc quả báo nó chiêu cảm đến. Cho nên ở đây nói “nhưng thói cũ vẫn khó đoạn trừ”.
Quý thầy vào thất ngồi nghiệm lại, tập khí mình còn nhiều hay ít tự bản thân mình biết. Có những người tập khí tham thì ít, nhưng tập khí sân lại nhiều. Có những người tập khí sân ít, nhưng thèm ăn, thèm uống cũng là tập khí thôi. Quý thầy ngồi nhịp chân huýt sáo hát một bài cũng là tập khí. Hoặc đang đi yên tịnh chánh niệm, tự nhiên nghe một bài hát quen thuộc rồi mình huýt sáo hát theo cũng là tập khí. Khó đoạn lắm chứ không phải dễ! Người xưa rất sợ cái sóng thức này. Chỉ có Đại Bồ-tát, Bồ-tát Đăng Địa Phật mới dám khai thị chỗ này.
Cho nên có những người mới vào đạo mười năm, hai chục năm, thấy sao mình tập khí vẫn còn nên nản, nhiều khi không chịu tu nữa xin hoàn tục. Mà họ không hiểu đây không phải đơn thuần là tập khí nhiều đời nhiều kiếp mà nó đã ăn sâu, các ngài nói giống như dầu hắc dính vô trong tàng thức, gọi là Như Lai tàng. Như Lai tàng mà chưa thấu thoát, chưa phát minh, chưa phát khởi, thì cũng gọi là Như Lai tại triền. Nó bị nhốt, bị kín bít lại, cho nên gặp cảnh thuận, nghịch, mừng, giận, tự nhiên tâm mình khởi mạnh mẽ. Chẳng hạn mình được mọi người khen mình cũng vui vui. Rồi gặp nghịch cảnh đến, mình bị huynh đệ nói nặng mình cũng buồn, đây gọi là tập khí. Ai vượt ra khỏi chỗ mừng, giận, thương, ghét, phải, quấy, hơn, thua? Chưa được! Nó vẫn còn tiềm ẩn. Cho nên nói:
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Đa sanh tập khí thâm,
Phong đình ba thượng dũng,
Lý hiện niệm vô xâm.
Có nghĩa là mình đốn ngộ tuy đồng với Phật rồi, nhưng mà nhiều đời tập khí sâu, gió dừng rồi nhưng sóng vẫn vỗ. Quý thầy hôm nào đủ duyên xuống biển, mình thấy bữa đó không có gió, gió dừng hết rồi nhưng trong bờ sóng nó vẫn vỗ lăn tăn. Hoặc quý thầy nhìn lên ti-vi, tắt rồi nhưng vẫn còn những cái hột li ti, li ti. Tâm thức của mình nó cũng như vậy.
Thiền sư Đại Huệ nói:
“Thường thường hạng người lợi căn chẳng phí nhiều công sức mà phát minh được việc này liền sanh tâm cho là dễ dàng. Từ cái dễ dàng đó lại không tu hành, lâu ngày chầy tháng vẫn y như trước, trôi nổi chưa khỏi luân hồi.”
Có những người được phúc duyên tốt, trong thời quá khứ họ cũng đã từng tu tập về con đường Thiền tông này, thì tự nhiên ngồi tu họ phát minh tâm địa. Sau khi phát minh rồi họ thấy sao việc này dễ quá. Thấy dễ quá thôi bây giờ khỏi cần ngồi thiền, khỏi cần tụng kinh, có những người khỏi cần thỉnh nguyện luôn. Không tu, lâu ngày chầy tháng rồi thì vẫn y như trước.
Ngày xưa ở đây có những vị thầy tu hành rất miên mật, có phát minh rồi tưởng rằng đã như Thiền sư, có người nói vị này là tái lai, nhưng một thời gian làm Phật sự rồi thì cũng trôi nổi trong sanh tử. Ở miền Tây ngày xưa có một chú bé sáu tuổi thuyết pháp Pháp Bảo Đàn Kinh ai cũng khen, nói người này tái lai, nhưng được bảy tuổi là ra đời hoàn tục. Quý thầy thấy không, đâu phải chuyện đơn giản. Nhiều khi mình tu mình phát minh được cái gì lạ lạ rồi mình sanh tâm ngã mạn, mình coi mình hơn những người khác. Chính điểm đó thì không thoát khỏi được tập khí.
“Thế thì há có thể lấy chỗ ngộ nhất thời mà bác bỏ việc tu về sau ư?”
Bản thân chúng tôi vào thất rất nhiều lần, mười mấy lần. Trong mười mấy lần đó có những cái hoặc khóc hoặc cười cũng như ai vậy, mà bây giờ nhìn lại tập khí vẫn là tập khí. Bản thân mình kinh nghiệm, có những lúc mình ngồi thiền nó đứng lặng lại hết, trong sự đứng lặng đó tự nhiên mình phát minh một chuyện gì đó, đây mình không thể nói ra được, nhưng nếu không chịu công phu tu tập thì nó vẫn y như ngày mình mới vào chùa. Cho nên các ngài nói, như những lúc cọ cây lấy lửa, mình đang cọ nóng nó hơi phựt lửa mà mình bỏ thì nó y như cũ.
“Thế nên sau khi ngộ cần phải luôn luôn chiếu soi. Vọng niệm chợt khởi đều không theo, giảm rồi lại giảm cho đến vô vi mới là cứu cánh.”
Sau khi ngộ rồi cần luôn luôn chiếu soi, luôn luôn thực tập, tức là cần luôn luôn chánh niệm quán chiếu, vọng niệm chợt khởi đều không theo. Ngày xưa vọng tưởng rất nhiều, mình theo rồi tạo tác. Bây giờ cũng có vọng tưởng chứ không phải không, nhưng mình không theo. Giảm rồi lại giảm cho đến vô vi mới là cứu cánh, có nghĩa là không còn tạo tác, không còn tác ý nữa thì đúng là cứu cánh.
Cho nên có những người tu tập một thời gian tự nhiên họ thấy vọng niệm càng ngày càng thưa. Quý thầy mới vào xuất gia, ngồi thiền vọng tưởng rất nhiều. Có những người sợ vọng tưởng, ngồi thiền thấy vọng tưởng họ nạt: “Đi, đi không. Lì quá vậy!” Công phu kiểu đó sao? Mình chỉ theo dõi tiến trình của vọng tưởng thôi. Có những người mới vào họ nói vọng tưởng nhiều quá, tôi nói đang tiến chứ không phải lùi. Bởi vì ngày xưa quý thầy không biết được vọng tưởng và không thấy được vọng tưởng, mà bây giờ mình thấy được tiến trình của vọng tưởng nhiều hay là ít là mình tiến rồi. Mình là chủ mà, khách đến khách đi mình biết hết. Cho nên nói vọng niệm chợt khởi đều không theo là đúng. Còn vọng chứ không phải là hết, từ từ nó giảm.
Tu một thời gian có những người vào thất vọng tưởng tự nhiên thưa dần, thưa dần giống như một sợi chỉ đi lên đi lên, nhưng mình vẫn theo dõi, vẫn chiếu soi. Khi thấy yên yên rồi nếu quý thầy không quán chiếu nữa, buông xuôi luôn là rớt vào hôn trầm, ngủ gục. Đố quý thầy trong lúc hôn trầm có vọng tưởng không? Nhiều người nói hôn trầm thì không có vọng tưởng nhưng mà không phải, nhớ kỹ điểm đó. Thiền sư Hám Sơn nhấn mạnh: “Trong lúc hôn trầm thì ngay đó vọng tưởng nó theo.”
Cho nên mình đang ngồi lim dim mình thấy nhớ nhà, bị đánh trên vai cái bốp, mình biết mình vừa vọng tưởng vừa hôn trầm. Thầy giám thiền nhìn từ xa là biết mình đang hôn trầm. Trong hội của Thiền sư Lai Quả Cao Mân có những người ngồi thiền không ngủ gục, có vị thiền sinh đang ngồi thì Thiền sư Lai Quả đi ngang đánh cái bốp, vị này nhìn lên nói: “Bạch Hòa thượng, con đâu có ngủ mà Hòa thượng đánh?” “À! Ông không ngủ mà ông về thăm nhà chi vậy?” Ngài thấy từng vọng tưởng của đệ tử, mình tu gần những người đó mình rất là tiến.
“Những bậc thiện tri thức trong thiên hạ thực hành pháp chăn trâu sau khi ngộ chính là điều đó vậy.”
Sau khi ngộ rồi thì thực hành pháp chăn trâu. Quý thầy ngồi đây mà nhớ đi về nhà hay nhớ làm gì đó, tức là ăn lúa mạ của người rồi, phải kéo cái mũi ra.
Cho nên Thiền sư Hương Hải nói:
Tìm trâu phải theo dấu,
Học đạo quí vô tâm,
Dấu đâu trâu theo đó,
Vô tâm đạo dễ tầm.
Tìm trâu phải theo dấu, dấu trâu đây tức là vọng tưởng điên đảo, là những vọng niệm của mình. Mình theo dấu có nghĩa là thấy được từng vọng tưởng, từng niệm điên đảo của mình. Học đạo quí vô tâm, dấu đâu trâu theo đó, nghĩa là vọng tưởng đến đâu tâm chiếu soi của mình đến đó thì đúng. Buông dần dần không theo nữa thì đến chỗ Hòa thượng dạy là Biết Có Chơn Tâm. Đi đến chỗ thuần thục rồi nhìn cái đồng hồ không khởi một niệm nào nữa nhưng đều có tâm chiếu soi vào. Biết nhưng không khởi niệm là chơn tâm, còn biết mà có vọng niệm là trật rồi đâu phải là biết có chơn tâm nữa.
“Tuy có tu sau nhưng trước đã ngộ. Vọng niệm vốn không, tâm tánh vốn tịnh. Đoạn điều ác, đoạn mà không đoạn. Tu việc lành, tu mà không tu. Đó chính là chơn tu chơn đoạn. Nên nói tuy tu đủ muôn hạnh mà chỉ lấy vô niệm làm tông.”
Ở đây ngài chỉ dạy rất rõ, tuy có tu sau nhưng trước đã ngộ rồi. Vọng niệm vốn không, tâm tánh vốn tịnh. Đoạn điều ác, đoạn mà không có gì để đoạn. Như hồi nãy tôi kể có người ngồi thiền mà vọng tưởng nhiều quá kêu “Đi, đi!”, là thấy điều ác, thấy có cái gì đó mình chặt, mình đoạn thì công phu đó chưa phải tinh thần của thiền đốn ngộ. Mà ở đây đoạn điều ác, đoạn mà không có gì để đoạn, có nghĩa là thấy rõ biết mà không theo, đó là đoạn mà không đoạn. Tu việc lành, tu mà không tu, có nghĩa là mình làm hết tất cả các hạnh lành nhưng không chấp trước, không dính mắc.
“Nên người ngộ tức là tâm địa thông suốt, tuy có khách trần phiền não mà đều thành đề hồ. Chỉ cần chiếu soi vọng hoặc không có cội gốc, ba cõi tợ hoa đốm trong không, như gió cuốn mây mù, sáu trần huyễn hóa, như nước sôi làm tan băng. Nếu có thể niệm niệm tu tập như thế chẳng quên soi lại, định huệ đồng tu thì yêu ghét tự nhiên phai nhạt, bi trí tự nhiên tròn đủ.”
Người ngộ tức là tâm địa thông suốt, tuy có khách trần phiền não đều thành đề hồ. Có nghĩa là hàng nhị thừa đoạn cái thức để đạt đến chỗ không tịch, nhưng ngược lại Bồ-tát dùng cái thức này để đi vào cuộc đời, tức là thức chuyển thành trí. Đi vào cuộc đời các ngài làm đủ hết tất cả hạnh nhưng các ngài không chấp, mà chính cái không chấp đó thì tự nhiên biến thành đề hồ, gọi là trí dụng.
Chỉ cần chiếu soi vọng hoặc không có cội gốc. Có nghĩa là mình nhìn vọng tưởng nó không có cội, không có gốc gì hết. Nếu nó có thật thì sáng vọng, trưa vọng, chiều vọng. Còn sáng mình ngồi thấy vọng nhưng nhiều khi canh trưa mình ngồi bớt vọng, thì rõ ràng vọng nó không cội gốc.
Ba cõi tợ hoa đốm trong hư không, như gió cuốn mây mù, sáu trần huyễn hóa, như nước sôi làm tan băng. Nếu có thể niệm niệm tu tập như thế chẳng quên soi lại, định huệ đồng tu thì yêu ghét tự nhiên phai nhạt, bi trí tự nhiên tròn đủ. Lúc này tự nhiên mình có năng lực, có công năng đi vào cuộc đời này.
“Tội nghiệp tự nhiên đoạn trừ, công hạnh tự nhiên tăng tiến, phiền não hết thì sanh tử dứt.”
Mình tu tập một thời gian, bi trí tròn đầy rồi thì nghiệp trong thời quá khứ tự nhiên dần dần nó hết. Tự quý thầy nghiệm lại thấy rất là rõ, có những người khi mới vào đạo bệnh rất nhiều, thân bệnh rồi tâm bệnh đủ thứ, nhưng tu tập một thời gian thì tự nhiên bệnh bớt dần.
“Nếu dứt hẳn dòng thức trôi chảy thầm lặng thì trí rộng lớn viên giác riêng ngời sáng, liền hiện trăm ngàn ức hóa thân trong mười phương thế giới, giao cảm ứng cơ như trăng hiện trên chín tầng mây mà bóng phân khắp cả vạn dòng. Ứng dụng vô cùng, độ sanh không có duyên, được vui vẻ tự tại, gọi đó là Thế Tôn đại giác.”
Ngài nói tâm địa mình thông suốt, mình ngộ rồi thì tu tập một thời gian phiền não dần dần nó bớt. Phiền não bớt thì tự nhiên mình cảm ứng với mười phương Chư Phật.
“Tuổi nhỏ giới luật còn thiếu, Thầy chưa cho đi xa, như đi đường không nên đồng với bạn không có lành.”
Ngài dạy tiếp là tuổi nhỏ giới luật mình còn yếu kém thì Thầy chưa cho mình đi xa. Nhưng giả như Thầy cho đi xa thì phải nhớ không nên đồng đi với bạn không lành.
Tổ Quy Sơn nói:
“Gần quen người ác thì thêm chỗ tri kiến ác. Ngày đêm tạo ác, mắc quả báo, chết rồi trầm luân, một phen mất thân người, muôn kiếp khó mà trở lại.”
Tổ Quy Sơn dạy là mình gần với người ác thì thêm lớn tri kiến ác, có nghĩa là cái thấy biết ác. Ngày đêm mình chơi với người ác mình tạo nghiệp ác thì mắc quả báo, chết rồi thì trầm luân một phen mất thân người, muôn kiếp khó mà trở lại.
Trong Pháp Uyển Châu Lâm có kể:
Quốc vương Hoa Để, Hoa Để là tên một bộ lạc giống mọi rợ ở cõi tây nước Trung Hoa ngày xưa, có một con voi trắng hay diệt được giặc thù, hoặc kẻ phạm tội khiến voi giẫm đạp mà giết. Bấy giờ người quản tượng dời voi đến gần chùa. Nghe Tăng tụng kinh Pháp Cú làm thiện được sanh thiên, làm ác đọa địa ngục, thì lúc này tâm bạch tượng nhu nhuyến, khởi từ bi. Sau có một người bị tội đem đến cho voi, voi chỉ dùng mũi mà ngửi, lấy lưỡi mà liếm rồi bỏ đi. Vua thấy việc này rất lạ mới triệu tập các đại thần, các đại thần nói voi này ở gần chùa nghe pháp nên như vậy.
Con voi rất là hung ác nhưng ở gần chùa nghe Tăng tụng kinh làm thiện được sanh thiên, làm ác đọa địa ngục thì trở nên hiền lành không còn tâm sát hại. Người tập khí sâu dày cách mấy mà vào thiền viện chịu khó tu tập một thời gian lần lần cũng hết. Người mà ngày xưa có tâm tật đố, ích kỷ nhưng chịu tu, chịu chuyển hóa thì lần lần nó hết. Có những người mới vào đạo tâm sân rất mãnh liệt nhưng đủ phúc đủ duyên gần thầy lành bạn tốt chịu khó tu tập, nhập thất nữa thì tự nhiên một thời gian tâm rất là nhu nhuyến.
Sau dời gần bọn đồ tể thì tâm sát hại liền tăng. Thì vua nói: Phải biết tất cả chúng sanh trí tánh không có định, súc sanh còn như vậy huống nữa người ư? Thế nên người trí phải nên giác biết, thấy ác phải xa lánh.
Cho nên mình phải luôn luôn phát nguyện lớn là nếu chưa đủ phúc duyên đạt đến chỗ giải thoát thì được sanh vào gia đình biết kính tin Tam bảo, biết học hỏi chánh pháp, rồi phát nguyện xuất gia sớm, không gần những người ác. Nếu mình không phát nguyện mà sanh vào gia đình đồ tể thì rất khó phát triển tâm thức từ bi của mình, chừng nào là đại Bồ-tát thì họa may.
Nên Phật dạy:
“Chớ cùng ác tri thức, cùng người ngu làm việc. Nên cùng thiện tri thức giao thiệp với người trí. Nếu người vốn không ác, gần gũi với người ác sau ắt thành nhân ác, tiếng ác đồn khắp nơi.”
“Phải lo tìm thầy học đạo, quyết dứt đường sanh tử, đừng có xem non ngắm biển, lòng tính dạo trải chỗ rộng xa để khoe khoang với người.”
Ở đây dạy mình đừng đi chơi đầu này đầu nọ mà không lo tu tập.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Muốn cầu đạo Vô Thượng Bồ-đề không có bậc tri thức chẳng có thể khai đạo nên phải tìm thầy hỏi đạo. Sanh tử dài lâu, mê ngộ do mình nên phải quyết đoán.”
Ngài dạy mình phải luôn luôn khắc khoải tìm thầy học đạo và phát nguyện gặp những bậc thiện tri thức khai đạo cho mình.
24. Danh Và Tướng Của Y Bát
Sa Di Học Xứ ghi:
“Sao gọi là y? Y nghĩa là y này dùng để che lạnh.”
Trong quyển Y Kiền Độ có ghi:
“Một hôm Phật thấy các thầy Tỳ-kheo đi trên đường mang rất nhiều vật y, thì Thế Tôn mới suy nghĩ như thế này: Có thể vì các thầy Tỳ-kheo mà chế y nhiều hay ít, chẳng được chứa nhiều.”
Trong Lục quần Tỳ kheo có thầy Tỳ-kheo tên Ca-lưu-đà-di, ông đi đến một nước khác được cúng y rất nhiều, trong kinh diễn tả một hôm Phật thấy ông vác trên vai hai chục lá y đủ màu. Đây mình thấy cũng là Đại Bồ-tát thị hiện ra để cho Phật chế giới.
“Bấy giờ vào lúc đầu hôm Thế Tôn đắp một y, đến giữa đêm biết có lạnh liền đắp y thứ hai, rồi đến cuối đêm lại biết lạnh nên đắp y thứ ba liền an ổn mà trụ. Bấy giờ Phật bảo các thầy Tỷ-kheo: Các đệ tử lắng nghe, thọ trì ba y chẳng được cất chứa nhiều.”
Sau này quý thầy thọ giới Tỳ-kheo thì lúc nào cũng phải có ba y bên mình.
Trong Trí Độ Luận có ghi:
“Bạch y cầu khoái lạc nên cất chứa mỗi mỗi áo, ngoại đạo khổ hạnh nên lõa hình không có tàm quý. Cho nên đệ tử Phật xả bỏ hai bên, đi con đường trung đạo, thiểu dục tri túc, chỉ cất chứa ba y.”
Trong Trí Độ Luận, Bồ-tát Long Thọ có nói, hàng cư sĩ bạch y thì áo quần rất nhiều bởi vì cầu khoái lạc. Ngoại đạo khổ hạnh, ở Ấn Độ bây giờ vẫn còn một nhóm Ni-kiền-tử lõa hình đi xuống phố khất thực, không biết tàm quý. Nhưng đệ tử Phật xả bỏ hai bên, đi con đường trung đạo, thiểu dục tri túc chỉ cất chứa ba y.
“Y Ngũ điều theo tiếng nói cõi trời Phạm thiên kêu là An-đà-hội, còn tiếng Hán gọi là Trung túc y.”
Sa Di Học Xứ ghi, trong Tăng Kỳ Luật có nói:
“Phật ở tại thành Xá Vệ, kinh hành trước hang đá Đế Thích, thấy ruộng lúa phân minh mới dạy bảo A-nan rằng: Chư Phật quá khứ tướng y như thế, từ nay nương đây mà chế tác ba y. Đệ tử các Đức Phật quá khứ đắp y như thế, đệ tử Chư Phật vị lai cũng đắp y như thế, như ta ngày nay dùng dao cắt rọc thành y Sa-môn chẳng bị oán tặc cướp đoạt, đây là Giải thoát phục, đây là y Phước điền.”
Mới thọ giới Sa-di thì không có ruộng, không có ô ngăn, chỉ là y trơn thôi. Nhưng sau này, quý thầy thọ giới Tỳ-kheo rồi, thì đắp y Ngũ điều, nó có ô giống như ô ruộng, Phật gọi y này là y Giải thoát, hay là y Phước điền. Quý thầy muốn gieo giống mà có lúa thì quý thầy phải xuống ruộng. Chúng sanh muốn gieo giống mà có nhân duyên với Phật pháp thì họ gieo ruộng phước vào Chư Tăng. Y Phước điền đây, nếu người nào bỏ tiền của cúng dường đại chúng, cúng dường Chư Tăng thì giống như gieo ruộng phước. Ruộng này bão lụt, sóng thần cũng không mất.
Khi ông Cấp Cô Độc nằm trên giường bệnh sắp qua đời, Tôn giả Xá-lợi-phất kêu ông nhìn lên trời. Ông nhìn lên thấy sáu cung điện hiện ra. Ngài Xá-lợi-phất nói, chỉ có cung điện thứ sáu ở cõi trời Đâu Suất là có Phật pháp, còn năm cung điện kia không có. Ngài hỏi ông chọn cung điện nào? Ông Cấp Cô Độc chọn cung điện có Phật pháp. Năm cung điện kia biến mất, còn một cung điện duy nhất. Trong kinh diễn tả ông vừa chết tức khắc tái sanh lên cung trời Đâu Suất. Đêm đó, ông xuống hầu Phật, mà ánh sáng chiếu diệu tỏa sáng hơn các chư thiên khác, Tôn giả A-nan ngạc nhiên nói:
– Bạch Đức Thế Tôn! Hồi đầu hôm có vị chư thiên nào đến mà ánh sáng tỏa diệu hơn hẳn những chư thiên khác?
Phật nói:
– Ông không biết sao? Đó là ông Cấp Cô Độc, chết rồi sanh lên cõi trời Đâu Suất, bây giờ xuống thăm ta.
Ông đã gieo ruộng phước rất thù thắng, mà gieo ruộng phước thì khi chết ứng hiện ra liền. Nên ở đây, nói y này, gọi là y giải thoát mà cũng gọi là y phước điền.
Truyện Ngạ quỷ Huyễn Sự có ghi:
Vào thời Đức Phật có hai vợ chồng sống với nhau. Người chồng thích bố thí, nhờ năng lực bố thí đó, nên sau khi chết ông tái sanh làm Thọ thần có đại oai lực. Người vợ thì có tâm bỏn xẻn, mỗi lần ông bố thí bà hay nguyền rủa: “Cầu cho thức ăn này biến thành phẩn, mủ và máu”. Do ác nghiệp như thế, nên bà chết tái sanh trong loài ngạ quỷ, thức ăn bà ăn toàn là phẩn, máu và mủ. Một hôm Tôn giả Mục-kiền-liên thấy thế mới hỏi Thọ thần:
Nàng ta ăn toàn phẩn,
Nước tiểu, mủ và máu,
Đây là quả nghiệp nào?
Nghiệp gì nàng đã làm,
Khiến nàng luôn luôn ăn
Những khối máu và mủ?
Những y phục mới mẻ,
Xinh đẹp và mềm mại,
Sạch bóng và như tơ,
Nhưng khi cho đến nàng
Thì như những tấm sắt,
Người đàn bà này đã
Làm những ác nghiệp gì?
Thọ thần trả lời Ngài Mục-kiền-liên:
Nàng là vợ của tôi,
Bất nhân và keo kiệt.
Khi tôi kính cúng dường
Đến những vị Sa-môn,
Bà ta lăng mạ tôi,
Bà ta chửi mắng tôi.
Phẩn nhơ và nước tiểu,
Cùng với máu và mủ,
Cầu cho ông luôn luôn
Ăn cái gì nhơ uế.
Cầu cho điều này hãy,
Là số phận của ông
Ở trong kiếp sống sau.
Và áo quần của ông,
Hãy thành những tấm sắt.
Khi có các hạnh ấy,
Bà ta đã đến đây,
Để phải ăn đồ nhơ,
Trong một thời gian dài.
Hai vợ chồng, một người thì siêng năng bố thí cúng dường ruộng phước cho Chư Tăng, ngược lại một người thì rất keo kiệt. Mỗi lần ông chồng cúng dường bố thí, thì bà chửi mắng, nguyền rủa, nên bà tái sanh vào trong loài ngạ quỷ, ăn phẩn nhơ và nước tiểu.
Thấy huynh đệ cúng dường Chư Tăng, mình không có tiền thì tùy hỉ theo. Nếu mình nổi tâm tật đố ích kỷ và nguyền rủa: Ông đó mà cúng dường gì…, tâm tác ý tạo thành nghiệp, từ cái nghiệp chiêu cảm.
Trong Tứ Phần Luật có ghi:
“Ba đời Như Lai đều đắp y này, nếu có chúng sanh khởi một tâm ác hướng đến ba đời Chư Phật, Bích Chi, La Hán và người đắp y vô nhiễm thì gặt hái vô lượng tội lỗi. Vì cớ sao? Vì y hoại sắc là tiêu biểu của Thánh hiền, nếu hay phát tâm kính người đắp y vô nhiễm thì gặt hái vô lượng phước đức.”
Ba đời Như Lai, nghĩa là quá khứ, hiện tại và vị lai, các ngài thị hiện trong cõi đời đều đắp y này. Lúc lên thỉnh nguyện hay tụng kinh, khi đã đắp y, bảo đảm quý thầy không dám khởi một niệm ác. Không khởi niệm ác thì cái y đó là vô nhiễm – không nhiễm những tạp niệm. Khởi một niệm xấu ác đến người đắp y thì gặt hái vô lượng tội lỗi.
Kinh Bi Hoa ghi:
“Như Lai phát đại nguyện ở chỗ Phật Bảo Tạng, ngài phát nguyện rằng: Lúc thành Phật áo cà-sa của ta chắc chắn sẽ có năm công đức thù thắng.”
Lúc còn hành Bồ-tát đạo, Đức Phật Thích-ca ở trước Phật Bảo Tạng phát lời nguyện lớn: Khi ngài thành Phật, áo cà-sa của ngài sẽ có năm công đức thù thắng:
1- Đã vào trong pháp của ta thì tứ chúng dầu là có phạm giới nặng hoặc có tà kiến đi chăng nữa, chỉ cần trong một niệm biết kính tín Tam bảo, tôn trọng cái y thì ta cũng nhất định thọ ký cho về tam thừa.
Tam thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa. Quý thầy đủ phúc duyên cạo tóc, mặc áo nhuộm, nhưng nếu chán cảnh tùng lâm không muốn tu nữa, tôi khuyên quý thầy một điều, ráng thọ giới cụ túc xong rồi tính. Quý thầy nghiên cứu trong Kinh, Luật, Sa-di chỉ là đi theo các hàng thầy Tỳ-kheo thôi chứ chưa có công đức và năng lực gì hết. Cạo tóc, đắp y Sa-di mà không có tâm tu hành, chán nản ra đời thì gieo cái duyên rất mỏng, rất ít. Vì vậy làm gì làm, quý thầy phải đắp cái y Tỳ-kheo lên rồi tính tiếp. Tôi quen huynh đệ rất nhiều, có những người còn Sa-di hoàn tục ra đời thì người đó vĩnh viễn không bao giờ có thể bước vào trong đạo nữa. Nhưng có những người thọ giới Tỳ-kheo, thọ buổi sáng, buổi chiều ra đời, sau một thời gian họ quay lại. Đó là năng lực, công đức mà Đức Phật Thích-ca lúc hành Bồ-tát đạo đã phát nguyện. Khi phát lời nguyện đó tâm ngài thanh tịnh, hạt giống đó ứng tác vào, phổ vào cái y. Nên phải ráng thọ giới, đắp được y Ngũ điều rồi tính tiếp.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 47 có ghi:
Đề-bà-đạt-đa phạm tội ngũ nghịch, làm thân Phật chảy máu, có tà kiến là xúi vua A-xà-thế giết cha, xô đá đè Phật, thả voi say, giết chết Tỳ-kheo Ni chứng A-la-hán. Trong lúc ông thả voi say, có một Tỳ-kheo Ni nói với Đề-bà-đạt-đa: “Ông ác lắm, ông dám thả voi say, rồi xô đá đè Phật.” Ông nổi giận đấm vị Tỳ-kheo Ni đã chứng quả A-la-hán này ngã xuống chết tại chỗ.
Khi ông chuẩn bị sám hối Phật, thì đất rút ông xuống, ông chết đọa địa ngục rất là khổ. Lúc này Tôn giả A-nan, là em ruột của Đề-bà-đạt-đa, thương anh mình quá nên đến khóc với Phật, ngài hỏi Phật khi Đề-bà-đạt-đa ra khỏi địa ngục sẽ sanh về đâu. Phật nói:
– Nhờ năng lực đắp y ca-sa của Phật, trong lúc rớt xuống cõi địa ngục tự nhiên ông phát tín tâm hướng về Đức Phật nói “Nam-mô.”
Ông chỉ nói được hai chữ Nam-mô, thì bị đất rút rồi, nên không nói được gì thêm. Do năng lực ông phát niệm kính tâm, tôn trọng Tam bảo, nên sau khi ở cõi địa ngục xong, ông sanh lên cõi Trời Tứ Thiên Vương. A-nan lại hỏi, sau khi mạng chung ở cõi Trời này lại sanh về đâu, Phật nói:
– Sau khi mạng chung ở đó, ông lần lượt sanh lên cõi Trời Tam Thập Tam, Trời Diệm Thiên, Trời Đâu Suất, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại.
Phật bảo A-nan:
– Đề-bà-đạt-đa từ địa ngục sanh vào cõi lành, sanh lên trời, trải qua sáu mươi mốt kiếp không rơi vào ba đường dữ, qua lại cõi trời, cõi người. Đến thân cuối cùng thì sẽ cạo bỏ râu tóc, khoác ba y với trí tín kiên cố, xuất gia học đạo thành Bích Chi Phật hiệu là Nam Mô.
Nhờ năng lực đắp y cà-sa của Phật mà dù phạm tội ngũ nghịch (đã làm thân Phật ra máu và giết A-la-hán), bị đọa địa ngục chỉ có một lần, rồi tái sanh về những cảnh giới nhàn cảnh, sau này xuất gia học đạo thành vị Bích Chi Phật.
Phật bảo A-nan:
– Tâm ý thiện trong khoảnh khắc búng ngón tay mà phước ấy khó có thể ví dụ, huống hồ Đề-bà-đạt-đa thông kim bác cổ, tụng tập rất nhiều, ghi nhớ tổng trì các pháp, điều gì đã nghe rồi thì không quên. Lại trước khi mạng chung đã khởi tâm vui vẻ Nam-mô Phật, vì thế sau này thành hiệu Bích Chi Phật hiệu là Nam Mô.
2- Trời, rồng, người, quỷ nếu biết cung kính một phần nhỏ chiếc áo cà-sa của người này thì lập tức sẽ chứng được đạo tam thừa và chẳng bị thối chuyển.
Bà Liên Hoa Sắc trong thời quá khứ làm kỹ nữ. Một hôm bà đi ngang qua Tinh xá, thấy cái y của Tỳ-kheo Ni bà đắp vào. Bà đi ba vòng Tinh xá phát nguyện, sau này gặp Phật tu chứng được Thánh quả. Bà chỉ phát nguyện chơi thôi nhưng mà thành sự thật. Nên ở đây nói, chỉ có tâm cung kính một phần nhỏ chiếc áo cà-sa thôi, cũng được chứng đạo quả tam thừa.
3- Nếu có quỷ thần các người nào đó mà được áo cà-sa, dù chỉ được bốn tấc đi nữa thì sẽ được ăn uống sung túc.
Ở Sông Bé có cả một xóm người ăn xin mướn y bát, rồi cạo tóc đắp y đi vòng vòng. Vậy mà cũng sung túc, người ta cúng dường ăn đầy đủ!
Vào thời Đức Phật có Tỳ-kheo Thất Lai, ông ra đường thấy làm thầy Tỳ-kheo sao dễ quá, được người cung kính cúng dường. Ông phát tâm xuất gia, sau đó hoàn tục rồi lại xuất gia, vào ra tới bảy lần. Ở đây, ý nói dầu cho một người tu hành như thế nào không biết, nhưng chỉ cần đắp y cà-sa của Phật thì Phật thọ ký cũng được ăn uống đầy đủ. Nghiệp quả sau này mình phạm giới thì gánh chịu, nhưng hiện thời vẫn có thức ăn, thức uống đầy đủ.
4- Nếu chúng sanh đều cùng nhau vi phạm, chống lại, thì niệm cà-sa lực ít lâu cũng sẽ nảy sanh tâm từ bi xót thương họ.
5- Ở chỗ binh đao trận mạc chỉ cần giữ một phần nhỏ của áo cà-sa, cung kính tôn trọng thì sẽ luôn luôn được thắng địch.
Nếu áo cà-sa của ta mà không có năm lực này thì là dối Chư Phật mười phương.
Ở chỗ binh đao trận mạc không phải chỉ cho quốc gia này hay quốc gia kia, mà khi gặp nghịch cảnh khốn cùng thì hãy luôn nhớ nghĩ đến áo cà-sa. Sau này đi làm Phật sự đến nhà tín thí nữ, lúc nói chuyện, quý thầy nhớ mặc áo hậu, và trong đãy phải có một tấm y cà-sa chín điều để kế bên. Khi đó người đối diện với quý thầy, họ không khởi tà niệm, mà chính quý thầy cũng không dám khởi niệm tà luôn, thì đúng nghĩa này, đúng với nghĩa lúc vào trận mạc chỉ cần giữ một phần nhỏ áo cà-sa, cung kính tôn trọng thì sẽ luôn luôn thắng quân địch.
“Khi đắp y đọc bài kệ:
Lành thay áo Giải thoát,
Y Vô thượng phước điền,
Ta nay đầu đội chịu,
Đời đời chẳng bỏ rời.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Nghĩa là tán thán công đức của y bất khả tư nghì, mở niêm, tháo chốt nên nói là giải thoát. Nghĩa là sanh tử phiền não do sự giải thoát này.”
Vô Thượng Luận Tát Bà Đa nói:
“Y này là chín mươi lăm thứ ngoại đạo thảy chẳng biết tên, chỉ có Như Lai khai thị vị tằng hữu pháp này nên nói là Vô thượng.”
Chín mươi lăm thứ ngoại đạo không biết tên y này, chỉ có Như Lai khai thị cho mình một cái pháp vị tằng hữu cho nên gọi là Vô thượng.
“Y này cũng gọi là Y Liên Hoa, vì mặc y này khỏi bị bùn ngũ dục nhơ nhiễm.”
Mặc y này rồi, mình phải phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn gặp được y này để khỏi bị ngũ dục làm nhơ nhiễm.
“Y này cũng gọi là Y Cứu Long vì loài rồng được một sợi chỉ của y này khỏi bị chim đại bàng cánh vàng bắt ăn.”
Trong kinh diễn tả, có những con rồng bị chim đại bàng cánh vàng bắt ăn nên cầu cứu Đức Phật. Đức Phật cho một tấm y rồi cắt ra từng miếng nhỏ, treo lên thân thì không bị chim đại bàng cánh vàng bắt ăn thịt. Ý nghĩa sâu hơn: Mình muốn không bị chim bắt, tức là phải tiêu trừ tập khí. Thiền sư Lai Quả nhấn mạnh chỗ này, một người mặc y Ngũ điều rồi, thì phải luôn luôn phát nguyện đời đời được mặc cái y này.
“Y Thất điều theo tiếng cõi trời Phạm thiên gọi là y Uất-đa-la-tăng, tiếng Hán gọi là Thượng Trước y, cũng gọi là y Nhập Chúng. Phàm lạy Phật, sám hối, tụng kinh, ngồi thiền, đi chứng trai, đi nghe kinh, ngày Bố tát, ngày Tự tứ phải mặc y này.”
“Khi đắp y đọc bài kệ:
Lành thay áo giải thoát
Y Phước điền Vô thượng
Con nay đầu đội chịu,
Đời đời hằng được đắp.”
Trong Luận Đại Trí Độ, Bồ-tát Long Thọ nói, có người hỏi:
– Nếu giới tại gia được sanh lên cõi trời, được Bồ-tát đạo, cũng được Niết-bàn thì còn cần gì đến giới xuất gia?
Bồ-tát đáp:
– Tuy cùng đắc độ nhưng có khó dễ khác nhau. Tại gia bị các nghiệp sanh kế, nếu muốn chuyên tâm vào đạo pháp thời gia nghiệp bị bỏ phế. Nếu muốn chuyên lo gia nghiệp thời đạo nghiệp phải bỏ phế. Không lấy không bỏ mới là cách đáng nên làm, ấy gọi là khó. Nếu xuất gia lìa tục dứt các lỗi một bề chuyên tâm hành đạo tức là dễ.
Vì vậy, mình phải phát nguyện đời đời kiếp kiếp sanh ra đều được đắp y này.
– Do vậy nên biết xuất gia tu giới, hành đạo là dễ. Lại nữa xuất gia tu giới được vô lượng thiện lực, nghi, tất cả được đầy đủ. Vì vậy hàng áo trắng nên xuất gia thọ giới.
Bồ-tát Long Thọ khuyên mình phải xuất gia, thọ giới, đắp y thì mới được thù thắng viên mãn.
– Lại nữa trong Phật pháp, xuất gia pháp là khó tu nhất. Như Phạm Chí Diêm Phù Khưu Đề hỏi Xá-lợi-phất:
– Trong Phật pháp, việc gì là khó nhất?
Xá-lợi-phất đáp:
– Xuất gia là khó.
Lại hỏi:
– Xuất gia khó gì?
Đáp:
– Xuất gia vui thích pháp là khó.
Cái khó thứ nhất của xuất gia là vui thích nghe chánh pháp. Vui thích nghe chánh pháp không phải chuyện đơn giản. Có những người không thích đọc kinh, xem sách, nghe chánh pháp mà tìm thú vui khác. Nếu có nghe thì họ cũng ngủ gục. Mình được túc duyên xuất gia, lại ham thích nghe chánh pháp thì điều này rất hiếm.
– Đã được vui thích nghe pháp còn có gì khó?
Ngài đáp:
– Tu các thiện pháp là khó, vì vậy nên cần xuất gia.
Mình được phúc duyên vào tùng lâm làm các việc thiện pháp. Hành đường, trị nhật, chẻ củi cũng là thiện pháp, làm được vậy không phải là chuyện đơn giản. Có một năng lực, hạt giống trong thời quá khứ nên ngày hôm nay mình mới thích và vui làm. Nên ngài nói, tu các thiện pháp là khó.
– Lại nữa, nếu người khi xuất gia thì ma vương kinh hãi, nghi rằng người này các kiết sử sắp mỏng, chắc chứng được Niết-bàn đứng vào số Tăng bảo. Lại nữa, trong Phật pháp, người xuất gia tuy hủy phá giới, đọa vào chỗ tội, mà khi tội hết được giải thoát.
Trong Phật pháp người xuất gia tuy hủy phá giới tức là phạm ba-la-di: sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, phạm những tội đó bị đọa vào địa ngục mà khi tội hết, được giải thoát.
Như trong Kinh Uất-bát-la-hoa, Tỳ-kheo Ni Bổn Sanh nói:
Lúc Phật còn tại thế Tỳ-kheo Ni này chứng được A-la-hán, đủ sáu thần thông, đi vào nhà quí nhơn thường khen ngợi pháp xuất gia, nói với phụ nữ rằng:
– Chị em nên xuất gia.
Các phụ nữ quí nhơn nói:
– Chúng tôi tráng kiện, dung sắc đầy đủ, tốt đẹp, giữ giới rất khó hoặc sẽ phải phá giới.
Tỳ-kheo Ni nói:
– Chỉ cần xuất gia, phá giới thì phá.
Hỏi:
– Phá giới sẽ bị đọa địa ngục, làm sao dám phá được.
Đáp:
– Đọa địa ngục thì đọa.
Các phụ nữ quí nhơn đều cười rằng:
– Ở địa ngục chịu tội rất là khổ làm sao dám.
Tỳ-kheo Ni nói:
– Tôi tự nhớ thân kiếp trước là con gái làm trò, có lúc mặc áo Tỳ-kheo Ni để làm trò cười.
Do nhân duyên ấy, vào thời Đức Phật Ca-diếp cô làm Tỳ-kheo Ni, rồi ỷ mình dòng họ cao quý sanh tâm kiêu mạn phá cấm giới của Phật, bị đọa địa ngục chịu vô lượng tội. Do được phúc duyên đắp y cà-sa vào thời Đức Phật Ca-diếp, nên đời này cô gặp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, xuất gia chứng quả vị A-la-hán.
Nên bà mới nói: “Tuy phá giới và do giới nhân duyên nên được chứng đạo quả A-la-hán.”
Mình được phúc duyên xuất gia tu đạo, nếu lỡ phạm giới, chẳng hạn như phạm giới ba-la-di chắc chắn đọa địa ngục. Hết tội địa ngục, lên rồi đi tu, thì chứng quả.
Một câu chuyện nữa:
Ở tại Kỳ Hoàn, có một vị Bà-la-môn say rượu đến xin Phật làm Tỳ-kheo, Phật liền sai A-nan cạo tóc. Khi tỉnh rượu, vị Bà-la-môn thấy mình đầu trọc lại mặc áo cà-sa nên ông la chửi. Tôn giả A-nan đến bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, tại sao vị Bà-la-môn này say rượu mà Phật lại cho làm Tỳ-kheo.
Phật dạy:
– Vị Bà-la-môn này trong vô lượng kiếp không hề có một niệm xuất gia, nay nhân say rượu nên mới tạm thời phát tâm chút ít.
Chỉ cần khởi một niệm xuất gia, được cạo tóc rồi, thì do nhân duyên này, trong thời vị lai gặp các bậc Thánh ra đời, ông tu tập chứng được đạo quả.
Quý thầy dám cho người say rượu xuất gia không? Chỉ năng lực của Phật mới thấy được tâm niệm và thọ ký cho họ. Sau này, họ xuất gia đắc đạo cũng do nhân duyên đó.
Nên lúc đắp y, mình phát nguyện đời đời hằng được đắp y ca-sa này. Mình được phúc duyên xuất gia học pháp với Hòa thượng, dù trong tùng lâm cũng có chuyện này chuyện nọ, nhưng nghiệm lại cũng an ổn hơn người thế tục. Các chuyện gia đình, làng xóm không còn làm phiền nhiễu nữa.
Trong Giới Đàn Kinh có ba nghĩa:
1- Mặc y ngũ điều dứt tâm tham của thân nghiệp và chứng Ngũ phần pháp thân hương.
Nhưng có nhiều người đắp y bảy, y chín rồi mà có dứt đâu. Nghĩa ở đây rất sâu. Trong Kinh Phật dạy:
“Chúng sanh lòng tham không có bờ bến, giống như uống nước biển, càng uống càng khát.”
Lòng tham này là tham cho cái gì? Quý thầy nghiệm kỹ đi, chẳng hạn các nước trên thế giới họ tranh đấu để làm gì? Cũng chỉ là ăn, mặc, ngủ nghỉ, bồ đắp cho cái thân ngũ uẩn này thôi, không có gì khác. Tại sao nói mặc y ngũ điều dứt tâm tham của thân nghiệp? Ở đây, không nằm trên sự nữa mà đi vào phần lý rất sâu: Mặc y ngũ điều là phải đi đến tinh thần quán chiếu: Mang cái thân nghiệp ngũ uẩn này, là luôn luôn mình tham chấp tham đắm. Nên nói mặc y ngũ điều dứt tâm tham của thân nghiệp.
Ngài A-na-luật đã chứng thiên nhãn đệ nhất, một hôm ngài nhìn xuống cõi địa ngục thấy người nữ rất nhiều, ngạc nhiên ngài đến bạch với Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Những vị nữ tín thí bố thí rất nhiều, cúng dường rất nhiều, đi nghe pháp cũng nhiều hơn người nam nhưng tại sao người nữ lại đọa địa ngục nhiều như thế?
Phật nói người nữ đọa vào địa ngục có ba nguyên nhân chính:
– Buổi sáng họ khởi niệm mong muốn của cải toàn thế giới, vũ trụ này về cho một mình họ hưởng.
Tức là dấy niệm tham. Dấy niệm tham là ngay trong giờ phút thực tại đó đi vào lục đạo rồi. Giữ tâm như thế thì cận tử nghiệp chắc chắn họ phải rơi vào đường ác. Nhìn cha mẹ mình là biết, tội người mẹ lắm, trong gia đình người mẹ luôn mong muốn của cải về cho con mình, có khi còn tạo ác nữa.
– Buổi trưa dấy niệm tật đố.
Thấy con người ta đỗ đạt, hạnh phúc họ chịu không nổi.
– Buổi chiều lại dấy niệm tham dục, mong muốn hết tất cả mọi người đến với mình thôi, đừng đến ai.
Mình đủ phúc duyên mặc y ngũ điều mình phải quán chiếu để phá tan ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Nếu muốn dứt lòng tham phải quán chiếu, thực hành sâu. Năm uẩn là tiêu biểu cho ngũ điều. Tức là dùng Ngũ phần pháp thân hương.
Mình đừng nghĩ Bồ-tát Quán Tự Tại là Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ-tát Quán Tự Tại đây là đòi hỏi người hành giả phải luôn luôn an trú trong giờ phút thực tại. Khi hành sâu Bát-nhã ba-la-mật rồi, Ngài chiếu kiến ngũ uẩn đều không, liền qua hết khổ nạn. Khi đắp y ngũ điều, mình phải luôn luôn quán chiếu. Hành sâu là phải hành liên tục, không xen tạp một niệm nào hết, thì lúc này dù đi làm việc quý thầy cũng như đang mặc y ngũ điều. Còn mặc y ngũ điều, mà mình có tâm tạp niệm, thì chưa phải là mặc y ngũ điều.
Thiền thoại có ghi:
Ngài Tăng Triệu sắp bị vua chém đầu, ngài xin hoãn bảy ngày để làm một bộ luận, gọi là Triệu Luận, tức là luận của ngài Tăng Triệu.
Trước khi bị chém đầu ngài làm một bài kệ:
Ngũ ấm nguyên phi hữu,
Tứ đại bổn lai không.
Tương đầu lâm bạch nhẫn,
Nhứt tợ trảm xuân phong.
Nghĩa là:
Năm ấm vốn chẳng có,
Bốn đại xưa nay không.
Kê đầu kề gươm bén,
Dường như chém gió xuân.
Sắp bị chém đầu mà ngài xin hoãn bảy ngày để viết bộ luận, như vậy ngài đã quán chiếu thành tựu, nghĩa là ngài luôn luôn đắp y Ngũ điều. Nhờ đắp y Ngũ điều ngài thấy được năm uẩn, bốn đại đều không.
Chư Phật, Tổ luôn luôn dạy mình đắp y Ngũ điều. Trong lúc đắp y Ngũ điều, quý thầy phải phát tâm nguyện lớn đi vào cuộc đời này.
2- Mặc y Thất điều dứt tâm sân của khẩu nghiệp.
3- Mặc Đại y là dứt cái tâm si của ý nghiệp.
“Đắp y hai mươi lăm điều đọc bài kệ:
Lành thay áo Giải thoát
Phước điền y vô thượng
Ta nay đầu đội chịu
Rộng độ các quần mê.”
Sa Di Học Xứ ghi:
“Hai bài kệ trước là tự lợi, một bài kệ này chính là lợi tha. Chư Phật đã ngộ nên gọi là đại giác, chúng sanh còn mê nên gọi là quần mê.”
Nghĩa là đắp y này, ngay đó là gánh vác huệ mạng của Như Lai, giáo hóa lợi lạc quần sanh.
Trong Đại Bát-nhã nói:
“Tâm đại bi của Bồ-tát hằng rải trên khắp cả quần sanh, ngài luôn luôn sẵn sàng thực hành từ bi hỉ xả, bình đẳng đối với hết thảy mọi loài.”
Đắp y này rồi, thì các ngài luôn luôn phát tâm hạnh Bồ-tát đi vào cuộc đời này, để mà dìu dắt chúng sanh.
Kinh Tạng Nghĩa nói:
“Cà-sa có mười điều lợi ích lớn:
1- Vì Bồ-đề đạo.
2- Chúng ở cõi nhơn thiên.
3- Cha mẹ trở lại lạy.
Đắp y cà-sa này, thì cha mẹ trở lại lạy mình chớ mình không được lạy cha mẹ nữa. Khi chuẩn bị xuống tóc xuất gia, quý Thầy lớn kêu mình về nhà đảnh lễ cha mẹ. Sau này cha mẹ mất, thì mình cũng không được đứng trước quan tài đảnh lễ, vì giới của mình bây giờ lớn hơn cha mẹ. Mình giữ mười giới hoặc hai trăm năm mươi giới, trong khi cha mẹ chỉ giữ có năm giới thôi.
4- Sư tử bỏ thân.
5- Rồng mang khỏi nạn.
6- Quốc vương kính tín.
7- Chúng sanh lễ bái.
8- Quỷ La-sát cung kính.
9- Trời, rồng ủng hộ.
10- Đắc thành Phật đạo.
Sa Di Học Xứ ghi:
“Ba y như trên nguyên là Pháp phục của Tỳ-kheo, bậc Sa-di còn không cho mặc huống là người mới phát tâm ư? Nay muốn cho biết trước để đọc kệ chú, trước hiểu hạnh nguyện Bồ-tát thù thắng như vậy.”
Ba y này Sa-di không được mặc, chỉ hàng Tỳ-kheo thọ giới mới được mặc. Nhưng tại sao ở đây Sa-di học? Học để hiểu những hạnh nguyện của Bồ-tát đi vào cuộc đời này, để từ đó quý thầy kính tín Tam bảo.
Đến đây là bài cuối cùng, kết thúc phần Hai Mươi Bốn Oai Nghi.