THIỀN TÔNG QUYẾT NGHI – TẬP 1

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG THIỀN HỌC BẮC TRUYỀN

THÍCH ĐẠT MA KHẾ ĐỊNH

THIỀN TÔNG QUYẾT NGHI

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

Mục lục
Lời Phi Lộ
Phần 1: Tham vấn Thiền
Phần 2: Tham vấn Giới Luật
Phần 3: Tham vấn Giáo lý và Tu tập

Lời Phi Lộ

Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ và giải thoát, vì giải thoát là cốt tỷ của đạo Phật. Ví như biển chỉ có một vị, vị đó là vị mặn. Đạo Phật cũng thế, chỉ có một vị, vị đó là vị giải thoát. Mà giải thoát cái gì?

Tất cả mọi khổ đau trong cuộc đời đều từ vọng tưởng điên đảo mà sanh ra. Muốn chuyển vọng tưởng thành đại trí thì phương pháp tọa thiền là thù thắng nhất. Nên kinh Thiền Môn nói: “Cầu trí thánh của Phật, cốt phải thiền định. Nếu không thiền định, thì niệm tưởng xao động, phá hoại căn lành kia.”

Do đó, những năm gần đây hành giả có trí hướng thượng đều tìm hiểu về thiền học. Song buổi ban sơ học thiền hay học giáo lý trong nhà Phật có vị còn bở ngỡ nên trong tâm vẫn còn những điều nghi vấn. Vì vậy, khi chúng tôi đến các đạo tràng giảng pháp, sau buổi giảng có những vị Phật tử đứng lên thưa hỏi. Xét thấy những câu hỏi sẽ làm lợi ích cho những người mới bước chân vào cửa thiền, nên chúng tôi góp nhặt ghi lại thành sách, lấy tựa đề là Thiền Tông Quyết Nghi”.

Những việc làm trên, nếu hợp với Thánh ý, nguyện đem công đức lành này hồi hướng cho chánh pháp được trường tồn, người người hết khổ và khắp trong cõi ta-bà ai ai cũng thấm nhuần mưa pháp. Nguyện khắp tất cả chúng sanh nhận lại bản tâm thanh tịnh của mình. Từ đó tiến thẳng công phu, vuông tròn Phật quả.

Viết tại Thiền viện TL Chánh Thiện

Mùa thu năm Canh Tý – 2020

Tỳ kheo Thích Đạt Ma Khế Định cẩn bút

Phần 1: Tham vấn Thiền

Hỏi: Có những người nói tại sao những người tu thiền không làm từ thiện, không làm lợi ích cho tha nhân. Như vậy, người tu thiền được lợi ích gì trong cuộc sống?

đáp: Thật ra, họ làm rất nhiều. Làm ở chỗ nào? Khi một người chứng quả vị, toàn cõi giới từ cỏ cây, ngọn cỏ đều được ảnh hưởng. Đơn cử như Hòa thượng Trúc Lâm, từ khi Ngài chứng nghiệm về con đường thiền năm 1970 đến bây giờ là năm 2017, có thể nói Hòa thượng là tỷ phú vì Ngài cho mãi mà không hết. Còn mình làm từ thiện, chẳng hạn có mười bao gạo thì chỉ phát được cho mười người. Một người ngộ đạo rồi, chỉ một lời pháp ban xuống thôi thì tỷ tỷ người hết khổ.

Mình ăn xong nhiều khi cái khổ cũng không hết, nhưng nghe học hỏi giáo pháp, thì có những lúc chúng ta bớt khổ được vui. Phật dạy khổ không phải do vấn đề ăn uống, mà khổ vì luân hồi trong ba cõi, khổ vì phiền não. Theo những số liệu thống kê của tổ chức nghiên cứu kinh tế xã hội, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam được xếp thứ năm, vì người Việt có tu, có hiểu.

Phật dạy khi bố thí mà thiếu thiền định, trí huệ thì đó là việc làm bằng ngã chấp mà ngã chấp thì đem đến sự đau khổ cho mình và người. Trì giới, tinh tấn hoặc nhẫn nhục mà không có thiền định, trí huệ thì đây cũng là xa rời cái Đạo chân thật.

Nên có vị Tăng đến hỏi Thiền sư Duy Khoan:

– Đạo ở chỗ nào?

Sư đáp:

– Trước mắt ông.

Tăng nói:

– Sao con không thấy?

Sư đáp:

– Vì ông có ngã nên không thấy.

Như vậy, chúng ta tu thiền là phát huy trí tuệ Bát-nhã, bố thí mà không thấy mình bố thí; trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn mà không thấy mình tinh tấn, nhẫn nhục. Tu thiền rất có lợi ích, tu thiền được rồi thì chúng ta làm việc gì ba nghiệp cũng đều thanh tịnh. Còn nếu làm mà không tu là làm vì chấp ngã, vô minh, vì hơn thua, danh lợi, đủ thứ chen vô hết.

Ngày xưa, tôi làm từ thiện, đi một lần rồi không bao giờ đi lần thứ hai. Có một bà đi theo chửi thầy, chửi cô… Tôi nói thẳng, thôi cô đừng có làm, về ngủ sướng hơn. Bà hỏi sao vậy, tôi nói, cô làm từ thiện mà sân quá! Cô sân thì đời sau giỏi lắm, cô thành thần. Hỏi thần gì, tôi nói thần mãng xà. Bà hỏi, thầy y cứ đâu. Tôi nói, tôi y cứ trong Cao Tăng truyện.

Sư huynh ngài An Thế Cao bố thí cúng dường, tu tập ngang bằng sư đệ, nhưng ngài hay sân. Hôm nào người ta cúng dường thức ăn hơi lạt là ngài úp bình bát xuống chửi, mặn ngài cũng chửi. Một hôm ngài An Thế Cao nói “Sư huynh tu hành rất đắc lực, làm việc thiện pháp rất nhiều không thua gì đệ mà có tật hay sân. Đệ biết chắc chắn rằng sau này khi huynh chết sẽ trở thành thần mãng xà.” Quả tình sau khi chết ông thành thần mãng xà ở trong đình Hồ Động Đình, ngài An Thế Cao đến khai thị và giúp đỡ.

Cho nên Lục Tổ nói:

Đừng nói cúng dường đó là đạo,
Bố thí cúng dường phước vô biên,
Trong tâm ba ác xưa nay tạo,
Nghĩ đến cúng dường đó là đạo,
Đời sau được phước tội vẫn còn.

Có những người buôn bán xì ke ma túy, tiền nhiều quá nhưng sợ tội. Họ hỏi, ngày xưa làm tội, bây giờ cất chùa có phước không. Tôi nói phước nhiều lắm, nhưng cái này nằm trong nhân quả bổ đồng. Đời sau nhiều khi sanh vào nhà giàu mà làm thú cưng sung sướng hơn cả người nghèo. Hồi tôi ở Canada, một bà có con mèo bị thất lạc, bà mướn bốn chiếc trực thăng, bốn chiếc tàu thủy để tìm con mèo. Đó là đời trước có bố thí cúng dường nhưng tạo nghiệp xấu nên đời này sanh vào loài thú mà được phước.

Vả lại, mỗi người tu mỗi hạnh. Ví dụ, những người tu thiền cũng làm các việc thiện pháp như bản thân chúng tôi làm các việc khuyến học, giúp đỡ những người nghèo khổ, những học sinh sinh viên học rất giỏi mà không có điều kiện, chúng tôi cũng tìm cách giúp đỡ mà không có dính mắc.

Vì sao? Vì kinh Kim Cang Phật dạy: “Chẳng nên trụ sắc sinh tâm, chẳng nên trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Tâm đó là tâm gì? Bổn lai vô nhất vật.

Bởi vậy, khi chúng ta tu thiền tốt rồi thì làm việc gì cũng lợi ích, làm việc gì cũng cho tha nhân chớ không phải cho mình. Lợi mình lợi người cả hai cùng lợi.

Nên trong Sử 33 vị Tổ ghi:

Vua Võ Đế hỏi:

– Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng Ni, không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng?

Tổ đáp:

– Đều không có công đức.

– Tại sao không có công đức?

– Bởi vì những việc ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người, cõi trời, nhưng bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.

– Thế nào là công đức chân thật?

– Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.

Nên Thiền sư Huyền Giác nói:

Bố thí trụ tướng phước trời hưởng

Giống như tên bắn trên hư không

Đà bắn hết mũi tên rơi

Kiếp sau hận cũ lại bời bời

Chi bằng thẳng tiến vô vi ấy

Một nhảy vào liền đất Như Lai.

Khi chúng ta ngồi thiền một tiếng, cái này không phải nằm trong phước đức nữa, mà gọi là công đức chân thật từ bản thể. Cho nên khi Ngũ Tổ nói Lục Tổ xuống nhà trù làm thì ngài nói: “Tự tánh con thường sanh trí huệ.” Khi tu được rồi thì làm việc gì cũng xứng pháp hạnh, làm việc gì cũng trong vô sở cầu hạnh. Hiểu như thế rồi thì chúng ta thấy người tu rất là thiết thực.

Hỏi: Ngồi thiền cứ buông vọng tưởng là con bị hôn trầm ngay. Con kính mong thầy từ bi chỉ con phương pháp ngồi thiền không bị hôn trầm.

đáp: Khi ngồi thiền, chúng ta “quán” thì dễ vọng tưởng, mà “chỉ” tức là dừng lại, dừng một hồi thì dễ hôn trầm, nên trong nhà thiền dạy chỉ quán song tu. Mình thấy vọng tưởng thưa dễ hôn trầm thì chấn chỉnh lại bắt đầu quán chiếu, chẳng hạn quán thân thể mình. Ai tu thiền mà không hôn trầm thì chưa phải là người đích thực tu thiền, phải qua cửa này mới gọi là người tu thiền. Vọng tưởng thưa bớt rất dễ vào trong hôn trầm. Người nữ rớt trong hôn trầm nhiều hơn người nam.

Ở đây, chúng ta phải dùng cách quán về thân, quán về tâm để bớt ngủ, hoặc xoa mặt…. Ngài Từ Minh khi ngồi thiền hôn trầm, ngài cầm cái dùi đâm vào đùi chảy máu cho tỉnh. Thiền Sư Bạch Ẩn ngồi trên gác rớt xuống, ngài ngộ đạo. Muốn khỏi hôn trầm, các ngài nói phải dán chữ tử lên trán nghĩa là mình quyết chí tu cho sáng được việc. Chúng ta phải sám hối, mình hổ thẹn là đời trước mình đã tạo một nghiệp mê mờ nên đời này phải thành tâm tha thiết sám hối, lạy Phật.

Hỏi: Những trở ngại biểu hiện khi ngồi thiền như đau nhức thân thể, thì do chướng duyên gì tạo nên?

đáp: Ba chướng người tu hay gặp: nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng.

Báo chướng là thân mình bị bệnh ngặt nghèo làm chướng ngại tu không được. Phải thành tâm tha thiết sám hối thời gian dài mới vượt qua được.

Nghiệp chướng thì khi ngồi thiền chuẩn bị vào thiền định thì thân hoặc tâm mình ray rứt trạo cử giống như có con gì bò nhưng thật ra không có gì hết. Hoặc sắp vào thiền định thì đau bụng bắt buộc mình phải xả ra để đi vệ sinh. Nếu không khéo chuyển thì thành thông lệ, cứ đúng giờ đó là nó làm cho mình bứt rứt khó chịu. Đó cũng là nghiệp chướng từ đời quá khứ của mình, phải dụng công nhiều hơn nữa để vượt qua. Cố Sư bà Hải Triều Âm kể, mỗi lần tâm yên yên chuẩn bị vào thiền định sâu thì bỗng nhiên thấy có một người cầm cây đao đứng kế bên giơ lên giống như chém xuống, có những lúc sư bà phải xả thiền.

Thân mình bị chướng thứ nhất là do nghiệp chướng nên mình ngồi vừa yên thì bắt đầu sanh ra như vậy; thứ hai là mình kiểm soát lại xem mình ngồi thiền có bị chèn ép thần kinh hay không. Trước khi ngồi thiền mình phải xoa bóp cho thật kỹ rồi ngước lên ngước xuống như Sư ông dạy khoảng ba lần. Nếu khuôn mặt mình bị ngứa thì theo kinh nghiệm của tôi, trước khi ngồi thiền mình chà khuôn mặt, rửa mặt và xoa bóp thật nóng.

Hỏi: Khi con đang tịnh tâm, đang yên thì tự nhiên con thấy mình sụp xuống. Con thấy con nằm đó, thân con đang ngủ nhưng mà tâm con vẫn thức. Xin hỏi tình trạng như vậy là gì?

đáp: Mỗi hành giả đều mang những nghiệp lực hoặc những công phu thời xa xưa, bây giờ có chút ít dụng công thì cảnh giới lạ biến chuyển ra. Cảnh giới này không phải là xấu mà do sự dụng công tha thiết. Chẳng hạn khi ngồi thiền cảm giác bị mất thân tâm hoặc có ánh sáng. Tất cả những cảnh giới lạ đó, chúng ta đừng theo, đừng dính mắc mà chú tâm theo dõi cái biết, quy chiếu về bản tâm của mỗi người. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Bất khởi thánh tâm tức thiện cảnh giới.” Nếu cảnh giới biến hiện ra mình cho là chứng thánh thì rớt trong đường tà. Chẳng khởi việc chứng thánh thì đó là việc thiện, là việc tốt, dụng công đã có biến chuyển về thân tâm.

Có cô Phật tử ở Sài Gòn đến trình với tôi là khi ngồi thiền thấy thân mình mất luôn, cô hoảng sợ xả thiền và đến trình một người thầy. Vị thầy nói, tu thiền không có thầy là không được nên cô tìm đến chúng tôi. Tôi khai thị:

– Ngay trong giờ đó, thấy mất thân mà vẫn có cái biết, biết là đang mất nên ông chủ vẫn còn.

Tổ thứ mười lăm đến đất nước Trung Ấn gặp một vị Bà-la-môn, vị này nghe nói về đạo Phật sợ quá chạy về nhà. Tổ đến gõ cửa hỏi:

– Có ai trong nhà không?

Vị Bà-la-môn nói:

– Không có.

Tổ nói:

– Nếu không có, ai trả lời?

Ngay đó ông ngộ đạo và đi tu. Chứng tỏ là tánh biết lúc nào cũng có.

Hỏi: Khi con thoát ra, con thấy thân con đang ngủ mà tâm con vẫn thức, có phải đó là tánh biết không?

đáp: Không phải. Trường hợp đó Tổ Lâm Tế nói là nghiệp dụng đời trước của mình còn sót chút ít, giống như hiện tượng các nhà ngoại cảm, hơn người thường một chút vậy thôi chứ chưa phải chỗ tu tập, chưa phải chỗ thẳng tiến vào con đường công phu của nhà thiền. Đại chúng phải lưu ý điểm đó. Những nhà ngoại cảm biết này biết kia là còn sót nghiệp dụng đời trước có tu tập về pháp ngoại đạo. Vào thời Đức Phật, những người ngoại đạo Bà-la-môn gõ đầu lâu là họ biết sanh về đâu, nhưng khi họ gõ đầu lâu của vị A-la-hán lại mờ mịt, tại vì A-la-hán không sanh về đâu hết.

Hỏi: Xin Thầy giải thích về Thiền khán thoại đầu và Thiền Trúc Lâm Việt Nam khác nhau như thế nào?

đáp: Nói đến Thiền tông Việt Nam là nói đến một bậc long tượng trong hàng tăng lữ. Người đó là ai? Là Phật hoàng Trần Nhân Tông, là sơ Tổ của dòng thiền Trúc Lâm nước Việt.

Bình sanh vào thời đó nước Việt cũng đã có ba dòng thiền chính:

1- Tỳ-ni-đa-lưu-chi

2 – Vô Ngôn Thông

3 – Thảo Đường

Tổ dung nhiếp ba dòng thiền này trở thành thiền Trúc Lâm nước Việt.

Vì sao? Vì Phật hoàng Trần Nhân Tông là người Việt Nam thấm nhuần thuần phong mỹ tục người Việt, lại được pháp nơi Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi còn là thái tử, một hôm đến hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Yếu chỉ của Thiền là gì?” Tuệ Trung đáp: “Phản quan tự kỷ, bổn phận sự bất tùng tha đắc” tức là soi lại chính mình là bổn phận chính của người tu, chẳng từ bên ngoài mà được.

Sau gần 700 năm Thiền tông Trúc Lâm vắng mặt trên đất Việt, Hòa thượng Tông chủ nhờ cơ duyên nhập thất trên núi Tương Phùng ngộ lý sắc không, thâm nhập cốt tỷ của Thiền phái. Ngài mở cửa thất xiển dương Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử để cho người học dễ dàng chứng nghiệm vào con đường thiền, Ngài cũng lấy ba tư tưởng lớn làm nền tảng cho người tu học.

1- Tổ Bồ-đề-đạt-ma: Khi đến Trung Quốc, Tổ Bồ-đề-đạt-ma gặp Tổ Huệ Khả, còn gọi là Tổ Thần Quang. Lúc đó ngài Thần Quang thao thức tại sao tâm mình vọng động, ngài đến gặp Tổ Bồ-đề-đạt-ma để xin pháp an tâm. Tổ bảo: “Đưa tâm ra ta an cho”, ngài tìm tâm không được. Tổ nói “Ta đã an tâm cho ông rồi.”

Tinh thần của nhà thiền lấy từ Lục diệu pháp môn: sổ tức, tùy tức, chỉ, quán, hoàn và tịnh. Người sơ cơ căn bản ban đầu thì phải đếm hơi thở.

2- Lục Tổ Huệ Năng: Tinh thần thiền của ngài Lục Tổ Huệ Năng là thiền giáo song hành tức là học giáo để rõ thiền, tu thiền để rõ giáo.

3- Sơ Tổ Trúc Lâm: Thiền của Sơ Tổ Trúc Lâm đốn ngộ rồi mới bắt đầu tiệm tu. Từ tiệm tu quét sạch hết vọng tưởng điên đảo, nhận được rồi sống luôn, tức là đi từng bước vào. Khi đếm hơi thở là chỉ biết hơi thở không có nghi tình gì hết. Đến giai đoạn tùy tức là hít vào biết rõ mình hít vào, hơi thở dài biết hơi thở dài, hơi thở ngắn biết hơi thở ngắn, ra vào đều rõ biết. Tất cả các pháp đều nghe biết mà không dính mắc pháp nào, chỉ biết hơi thở thì đó là đúng.

Thiền Tông của Sơ Tổ Trúc Lâm không phải vào chùa, cũng không phải ngồi trên bồ đoàn mới tu. Mà đi đứng nằm ngồi đều tu, nấu cơm, quét nhà, rửa chén cũng tu tức là lúc nào cũng tỉnh, không có vọng tưởng. Sở dĩ mình rơi xuống ba đường, sáu nẻo là cũng từ vọng tưởng lôi kéo tạo vô số nghiệp lực. Bây giờ mình dừng lại không chạy theo nữa thì vọng tưởng thưa dần, nghiệp lực mình không tạo tức là thành tựu pháp môn đại giải thoát.

Thiền của khán thoại đầu là không được học gì hết gọi là độn công phu. Khi chưa có vọng tưởng mà nghi tình phát gọi là thoại đầu, vọng tưởng lên mình niệm gọi là thoại vĩ là cái đuôi, tức là vọng tưởng ra rồi. Trong đầu mình lúc nào cũng tự động nổi lên một câu, chẳng hạn “Ta là ai, ta là ai, ai là người niệm Phật?” thì vọng tưởng sẽ không có. Nghi tình thành khối thì bùng vỡ gọi là ngộ đạo, kiến tánh.

Hỏi: Xin thầy giải thích cho con thêm về câu “Biết vọng không theo.” Đã biết vọng, vọng tự tan rồi mà còn khởi niệm không theo làm chi nữa?

đáp: Trước khi giải thích câu này tôi đọc một bài thơ của vua Trần Thái Tông:

Không nhân ngõ tía hoa cười sớm,
Đâu có hoàng oanh đậu liễu xanh.

Nếu không có hoa nở vào mùa xuân thì chim hoàng oanh không bao giờ đến hót. Nghĩa là nhờ nhân duyên mình trồng hoa, chim mới đến đậu hót líu lo, nếu không trồng thì không có.

Chúng ta nhiều khi hiểu lầm trên văn tự, bởi vì văn tự tải không hết ý. Ví dụ mình có cái kiếng dính bụi dơ, lấy khăn lau cũng giống như ban đầu cái biết này gọi là trí dụng, dùng trí dụng để biết vọng. Biết vọng mà không khởi niệm “không theo”, vọng tự lặng thì trở về trí thể, gọi là tánh biết vọng. Vọng đến tự nó lìa, đó là cảnh giới thứ hai, là cảnh giới cao của bậc thượng, vọng tự lên tự xuống.

Cũng giống như trong nhà có đứa con nít khóc, muốn nó hết khóc thì mình đóng các cửa lại chỉ trừ một cửa, đứng chặn cửa rồi thả cho nó bò tới bò lui một hồi mệt, nó ngủ. Người giữ cửa là ông chủ, vọng lên vọng xuống kệ nó nhưng không qua mắt ông chủ. Một thời gian vọng lặng thì cảnh giới đó gọi là tánh biết vọng, không còn khởi niệm “không theo” nữa.

Mình hay lầm trên văn tự, nghe nói biết vọng không theo là mình khởi “không theo”. Đúng là không theo nhưng không phải khởi, mà chỉ cần biết vọng tức lìa vọng, gọi là “tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác, không qua tiệm thứ.” Biết huyễn tức lìa, lìa huyễn tức là giác không thêm bớt gì hết. Khi ngồi thiền thuần thục rồi, biết vọng vọng tự lìa đó là một cảnh giới. Có ai hỏi ngồi thiền để làm gì thì người đó trả lời “ngồi thiền là ngồi chơi” gọi là vô công dụng hạnh, có nghĩa là hết dụng công. Từ đó vọng bắt đầu thưa dần, luôn luôn sống trong tánh Bát-nhã, người đó tu giống không tu, như là không tu nhưng họ đang tu, vọng lên là tự lìa.

Ở Đà Lạt thường thường sương đọng trên gương. Có người lau, có người không cần lau, bởi vì mặt trời lên là sương tan. Mặt trời Bát-nhã rọi xuống thì bao nhiêu phiền não, vọng tưởng mất hết, với điều kiện là mình phải nhận được tánh Bát-nhã. Muốn được vậy đòi hỏi phải có sự dụng công. Giống như người võ sư đã học thuần thục, xuất một đòn biết là hở, còn mình mới học thì không biết. Người mà cảnh giới cao thì vọng lên sẽ tự lìa, bao nhiêu nghiệp lực trong quá khứ không làm chủ được mình mà mình làm chủ và hóa giải được nghiệp lực.

Hỏi: Thầy nói ngồi thiền lúc ba hay bốn giờ sáng mới tốt mà con nghe nói ngồi thiền lúc mười một, mười hai giờ đêm mới linh thiêng.

đáp: Quý Phật tử có điều kiện nên đọc quyển Yếu Chỉ Tu Thiền của ngài Thiên Cơ. Hạ thủ công phu tu thiền điều tiên quyết nhất là không quá mức cũng không lùi lại. Ngủ làm sao cho đủ giấc. Ví dụ mình nấu một nồi cơm, lửa ít quá thì cơm không chín còn lửa nhiều quá thì cơm cháy khét; nước nhiều quá thì nhão mà ít quá thì cơm khô. Cho nên mình sắp xếp thời giờ sao cho thích hợp.

Tu thiền cũng như thế. Chẳng hạn chín giờ đi ngủ mà mười một, mười hai giờ ngồi thiền thì hôn trầm. Mười một, mười hai giờ không phải là giờ linh thiêng, mà mình ngồi cũng không cần linh thiêng. Ba hoặc bốn giờ sáng thì khí trời thanh sảng, quang đãng, có những luồng gió hoặc luồng sương tẩy uế những bụi trần, mà giờ đó mình dễ tỉnh. Mục đích ngồi thiền là để cho mình không bị mê muội trong giấc ngủ say. Cái gì mình đắm chìm thì dễ rớt vào những đường khổ.

Cho nên Phật dạy làm việc gì cũng đừng có đam mê, cái gì cũng biết đủ. Ăn, ngủ, mặc biết đủ gọi là tri túc. Mình ăn cũng vừa chừng, đừng ăn no quá mà cũng đừng để đói quá; mặc và ngủ cũng thế. Phật dạy người biết đủ là người giàu nhất.

Tu thiền cũng vậy, ba giờ sáng là giờ ngon giấc, vậy tại sao mình thức dậy để ngồi thiền? Là vì để chiến thắng lòng tham dục của mình. Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy:

Tinh tấn giữa những người buông lung,
Tỉnh táo giữa những người mê ngủ,
Ta giống như con ngựa hay,
Bỏ sau lưng những con ngựa gầy hèn.

Giờ đó ai cũng mê ngủ mà mình tỉnh táo, ai cũng phóng túng buông lung mà mình không phóng túng buông lung thì mình là người chiến thắng. Đức Phật dạy: Thắng ngàn quân địch tại chiến trường chưa phải là chiến công oanh liệt, chiến thắng chính mình mới là chiến công oanh liệt nhất.

Mình làm chủ được giấc ngủ là chiến thắng được chính mình. Giờ đó đang ngon giấc mà nghe tiếng kiểng dậy. Ở nhà thường mình không dậy được mà đến thiền viện mình dậy được là nhờ tiếng kiểng, tiếng khánh, nhờ tiếng chuông, tiếng mõ và nhờ đại chúng. Nghiệp thức của mình nặng lắm nên phải nhờ nhiều thứ. Ở nhà chuẩn bị thức dậy rồi mình nghĩ: đi, đứng hay nằm cũng thiền, nằm một hồi là ngủ luôn.

Hỏi: Thưa Thầy, cách đây hai năm con nhập thất ở Tịnh Thất Bát Nhã. Khi ngồi thiền con thấy hai con ma hiện ra ngay ở đầu gối và dưới áo tràng của con. Thưa thầy đó là do tâm mình hay do mình thấy ma bên ngoài?

đáp: Trong Thiền thoại có câu chuyện: Có ông tăng nhập thất, khi ngồi thiền đến độ hơi định thì ông thấy một con nhện to hiện trước mặt, ông vào trình thầy và nói rằng nếu tối nay con nhện hiện ra thì ông sẽ giết nó. Vị thầy nói:

– Khoan giết nó. Thầy cho con cục phấn, khi nó hiện lên, con vẽ vòng tròn lên bụng nó, ngày hôm sau nếu nó hiện lên nữa con hãy đâm thì nó mới chết.

Tối hôm đó con nhện hiện lên, ông cầm cục phấn vẽ một vòng tròn ngay bụng nó thì con nhện biến mất. Sáng hôm sau ông đến trình thầy:

– Tối qua con thấy con nhện, con đã vẽ vòng tròn lên bụng nó, tối nay nó mà hiện ra con sẽ đâm nó.

Vị thầy bảo ông giở áo lên xem thì thấy một vòng tròn trên bụng. Vị thầy nói:

– Nếu con đâm là đâm bụng con chứ không phải đâm con nhện.

Ma là từ nơi tâm của mình. Có lần tôi nhập thất ở Thường Chiếu, trời mờ mờ tôi nhìn thấy rõ ràng một người xõa tóc dài, tôi tới nắm tóc thì ra cây chuối. Cây chuối xà xuống mình nhìn mắt nhắm mắt mở tưởng đâu là ma xõa tóc dài, trong nhà thiền gọi là thức tâm biến hiện. Sợi dây thừng mà tưởng con rắn. Biến kế sở chấp, y tha khởi tánh mà không thấy được viên thành thật tướng. Khi mình nhìn lại thì không thấy ma nữa, mà tâm của mình.

Bởi vì khi vào thất, nhiều khi tâm mình hơi lộn xộn, tâm mình nghĩ ma nhiều quá thì nó hiện ra ma, tâm mình nghĩ gì thì hiện ra cái đó. Nhập thất thì phải đủ phước đủ duyên, đủ nhiều mặt. Ngày xưa nhập thất ở Trúc Lâm, Thường Chiếu đâu phải ai cũng được vô, Sư Ông Trúc Lâm nhìn kỹ công phu như thế nào mới cho vào thất. Cho nên khi vô thất thấy như vậy là biết do tâm mình hiện.

Tổ Lâm Tế nói: Phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma. Sát ở đây là giết, giết tức là mình không chạy theo. Ma hay Phật thì cũng mặc kệ, mình chỉ sống theo tánh biết, sống theo tâm Phật của mình thì tức khắc cảnh đó mất. Ma là từ mình biến hiện, tâm có cảnh giới thì tự nhiên nó tương ưng. Ngay trong giờ phút đó mình không chạy theo những niệm đó thì tự khắc mất. Ma từ tâm gọi là tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức; tùy theo mức độ mà tâm thức biến hiện.

Thiền thoại kể: Có một vị thiền sư tên là thiền sư Ngung, người ta thường ngồi trong thiền viện còn ngài thì ra nghĩa trang ngồi.

Bữa nọ ngài ngồi dưới gốc cây thì thấy con quỷ không đầu đến. Ngài nói: “Sở dĩ người ta khổ là do người ta nghĩ lung tung. Tại sao người ta nghĩ lung tung? Tại vì người ta có cái đầu. Ông không có cái đầu thì ông hạnh phúc nhất trần gian.”

Con quỷ biến mất. Một hồi xuất hiện con quỷ không có cái bụng. Ngài nói: “Ở trên đời này người ta làm suốt ngày, suốt tháng, suốt năm cũng chỉ vì cái bụng, bụng ăn thì phải làm. Ông không có cái bụng thật là sướng.”

Con quỷ biến mất. Một hồi sau con quỷ không có hai tay đến. Ngài nói: “Sở dĩ người ta bị tù tội là do người ta ăn trộm, ăn cướp. Tại sao trộm cướp được? Vì có hai tay. Ông không có hai tay thật là sướng.”

Con quỷ cũng biến mất. Mà con quỷ từ đâu? Từ tâm biến hiện ra. Ngài quán chiếu năm uẩn không có thật thì tức khắc ma quỷ biến mất. Mình còn không thật thì ma quỷ đâu. Khi quán chiếu về năm uẩn thì vượt qua hết khổ nạn. Quán Tự Tại hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Khi quán chiếu được năm uẩn không có thật thì tất cả vạn pháp biến hết, biến hiện từng tâm cảnh.

Thiền sư Đạo Thọ, đệ tử ngài Thần Tú, đến một vùng để lập chùa, vùng đó có ông đạo sĩ ở. Ông đạo sĩ có phép, buổi tối ông biến ma biến quỷ, biến đủ thứ làm các chú tiểu và tăng chúng sợ không dám ở chỉ còn một mình ngài ở đó. Một thời gian ông đạo sĩ bỏ đi. Người ta thắc mắc hỏi thiền sư:

– Ông đạo sĩ này biến hiện ma, quỷ, yêu quái ai cũng đều sợ bỏ đi, tại sao Hòa thượng không sợ?

Ngài nói: – Ông đạo sĩ có phép biến hiện ma quỷ nhưng phép của ông ấy là phép hữu hạn, còn ta cũng có phép mà là phép vô hạn.

Người ta nói vô chiêu thắng hữu chiêu, ông biến gì biến mà tôi cứ không. Vô hạn là không có dính mắc vào các cảnh thì tức khắc cảnh tự biến. Mình gặp cảnh thì biết là do tâm của mình biến hiện. Cho nên mình không sợ mà chỉ thẳng vào mặt nó là tự nhiên nó biến hết, còn mình khởi niệm sợ này kia thì tức khắc là có.

Hỏi: Bạch thầy, khi ngồi thiền con thấy có một ánh sáng chập chờn, lúc đó tâm con định lại và hít thật mạnh thì con không thấy nữa. Xin thầy cho con biết đó là tình trạng gì?

đáp: Hồi xưa khi tôi làm nhà khách ở Trúc Lâm, có một cô khoảng gần năm mươi tuổi đến gặp tôi:

– Thưa thầy, con đến đây nghe Sư Ông Trúc Lâm giảng cũng gần hai năm. Con âm thầm tu mà không cho gia đình con biết vì gia đình con theo tôn giáo khác. Xin thầy chỉ con ngồi thiền làm sao để gia đình con tin tưởng mà theo đạo Phật vì con thấy đạo Phật hay quá.

Tôi hỏi:

– Cô ngồi thiền cô mong muốn điều gì để gia đình cô tin theo?

Cô nói:

– Thầy chỉ con cách thức ngồi thiền có ánh sáng phát ra, gia đình con thấy lạ sẽ theo.

Tôi nói:

– Cô khỏi cần ngồi xẹt ra ánh sáng. Nếu như ngày xưa chồng cô nói một tiếng cô nói lại hai chục tiếng; con cô có lỗi gì cô kể ngày này qua tháng nọ, thì bây giờ cô im lặng đừng nói gì. Chừng một tháng chồng cô sẽ ngạc nhiên và tìm hiểu xem cô tu pháp môn nào.

Ánh sáng chỉ là phụ, là bề nổi. Thần thông của tôn giả A-nậu-lâu-đà thấy một ngàn tiểu thiên thế giới mà tôn giả Xá-lợi-phất nói chỉ là vỏ cây chứ không phải lõi cây. Lõi cây là chuyển tư tưởng, lời nói, hành động của mình như thế nào đó để nói những nói nhu nhuyến, thanh tịnh.

Trong kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật nói có ba loại lời nói: lời nói như phân, lời nói như hoa và lời nói như mật.

“Này các tỳ-kheo! Thế nào là lời nói như phân? Lời nói ác khẩu, lời nói thị phi, lời nói xúc xiểm, lời nói đâm thọc … là lời nói như phân.”

“Này các tỳ-kheo! Thế nào là lời nói như hoa? Lời nói nhu nhuyến, thanh tịnh, lời nói giúp đỡ người khác, lời nói cho người ta từ đau khổ chuyển thành hạnh phúc là lời nói như hoa.”

“Này các tỳ-kheo! Thế nào là lời nói như mật? Này các tỳ-kheo, người này chấm dứt nói lời ác khẩu, nói lời hai lưỡi, nói lời thị phi, nói lời hơn thua.

Cho nên mình tu thiền chuyện đó không dính dáng, mà người ta nhìn lên khuôn mặt, nhìn từng hành động, từng bước đi của mình là biết mình tu đúng. Tu đúng thì gương mặt sáng lên, bởi vì tâm của mình bây giờ giống như nước, như đất, như lửa, như gió. Đất có khi nào nói nhà giàu đi được còn nhà nghèo thì không? Đất người ta khạc nhổ có la, có giận hờn? Hoặc đổ dầu thơm đất có vui mừng? Tâm giống như lửa, lửa đốt hết tất cả. Tâm mình nhu nhuyến biểu hiện lên khuôn mặt, lên mắt, lên miệng. Ai nói gì mà mình trợn mắt thì chừng một thời gian mắt miệng mình sẽ khác.

Tâm biểu hiện ra tướng. Theo nhân tướng học, ngũ uẩn của mình biểu tướng cho tâm mà tâm là bản thể, là nền tảng. Cho nên miếng đất nào mình trồng lúa tốt thì biết đây là đất tốt, đất nào mình trồng lúa không lên là biết đất xấu. Mình ngồi thiền mà thấy xanh vàng đỏ tím cũng bình thản, mặc kệ, chuyện đó bình thường, do mình dụng công nên nó biến hiện ra thôi. Trở về tâm, trở về tánh biết của thì tức khắc mọi hiện tượng biến mất hết.

Hỏi: Khi ngồi thiền vọng tưởng lên mình kiềm, đè và chăn trâu có khác nhau không?

đáp: Khi chúng ta ngồi thiền vọng tưởng lên mà kềm hoặc đè thì phương pháp đó gọi là bệnh thiền. Bởi vì vọng tưởng không có thật. Bản chất vọng tưởng không có tự tính, do duyên khởi mà hình thành vọng, nhà Phật gọi là lạc tạ ảnh tử tức là những hạt giống đó chập chờn lúc có lúc không.

Phương pháp chăn trâu không phải kềm, cũng không phải đè mà là nắm cái vàm tức là có cái biết, biết được con trâu đi đến đâu. “Dấu đâu trâu theo đó, vô tâm đạo dễ tìm” tức là mình theo dõi con trâu, chứ không đè hay kềm con trâu. Ví dụ đang ngồi thiền mà vọng tưởng nhớ nhà thì mình biết con trâu đang về nhà, mình kéo con trâu lại.

Hỏi: Khi con ngồi thiền con thỉnh thoảng thấy có luồng khí chạy dọc theo xương sống đi lên.

đáp: Theo tinh thần Phật giáo, Thiền tông, thiền nguyên thủy, nói cách khác là Như Lai thiền, Tổ sư thiền, dù cho luồng khí chạy lên chạy xuống cũng không dính dáng gì hết, đừng chú ý nó. Đó là trạng thái bình thường, cơ địa mỗi người sẽ thấy những trạng thái khác nhau do dụng nghiệp của chúng sanh đời quá khứ. Có nghĩa là đời quá khứ mình đã từng tu tập về các pháp môn, mà là các pháp môn ngoại đạo. Ngoại đạo có nghĩa là ngoài tâm cầu Phật, danh vi ngoại đạo. Nó chạy ngược chạy xuôi, nóng lạnh mình đừng chú ý gì hết mà chỉ theo dõi hơi thở hoặc biết vọng tưởng mình đừng có theo. Dầu cho tướng lạ gì cũng không dính dáng chỗ công phu tu tập. Công phu tu tập là chuyển hóa từ những vọng niệm điên đảo thành tánh giác tức là cái biết sáng suốt rõ ràng mà Phật hoặc chư Tổ đã từng dạy.

Trước khi chứng quả vị vô sanh, ngài A-nậu-lâu-đà đến trình bạch với tôn giả Xá-lợi-phất:

– Sư huynh, một buổi sáng sư đệ thấy một ngàn tiểu thiên thế giới.

Tôn giả Xá-lợi-phất rất thương sư đệ của mình, ngài nói:

– Từ ngày theo Đức Thế Tôn, sư đệ chỉ toàn lượm vỏ cây mà không đào sâu lõi cây.

A-nậu-lâu-đà ngạc nhiên hỏi:

– Sư huynh, thế nào là lõi cây, thế nào là vỏ cây?

Lúc này Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Mục đích chúng ta tu thiền để chuyển hóa tham sân si, chuyển hóa những vọng động điên đảo. Còn sư đệ nhìn ra tướng bên ngoài, dầu tướng thù thắng cũng là vỏ cây chứ không phải là lõi cây.

Khi nghe đại sư huynh nói như thế ngài buông hết. Khi ngài buông hết không trụ vào tướng đó nữa thì không còn thấy ngàn tiểu thiên thế giới. Ngài vào rừng sâu chuyên tu tập thiền quán, ba tháng sau ngài chứng quả A-la-hán. Cái tướng bên ngoài là giả tướng mà nó dụ mình.

Hỏi: Con xin chia sẻ, huynh đệ con ngồi cái lưng cong quá. Cái lưng cong nó làm căng hai bắp thịt dọc theo cột sống rồi mình cảm thấy hơi nóng. Hai là ngồi cái bồ đoàn cứng quá nó tạo áp lực ngược lại đi dọc theo cột sống. Đó là trên quan điểm y khoa, còn về đạo xin Thầy chỉ dạy.

đáp: Trong kinh Trung Bộ kể câu chuyện: Vào một đêm trăng rằm rất đẹp, trên đỉnh núi Linh Thứu, các vị đại đệ tử của Đức Thế Tôn xả thiền xong thì trăng lên rất sáng. Mỗi vị nói về cái thấy biết của mình, về cái siêu việt nhất của người hành giả.

Ngài Đại-ca-diếp nói cái siêu việt của hành giả là đệ nhất khổ hạnh. Tôn giả Xá-lợi-phất nói cái siêu việt nhất của hành giả trí huệ. Ngài Mục-kiền-liên nói cái siêu việt nhất là thần thông đệ nhất. Mỗi vị đều nói cái siêu việt của mình nhưng chưa ngã ngũ. Cuối cùng các ngài đến gặp Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn, đêm nay trăng rất là sáng, tụi con đưa ra quan điểm về cái siêu việt của hành giả.

Đức Thế Tôn nói:

– Cái siêu việt nhất của hành giả là ngồi dưới gốc cây, lưng thẳng đứng, quán niệm về hơi thở đến khi nào tâm không còn vọng động nữa đạt đến vô lậu chứng đắc niết-bàn.

Cho nên những tướng đó là những tướng không dính dáng.

Hỏi: Khi an lạc thì mình biết an lạc, khi vọng niệm mình biết vọng niệm, nhưng mà khi mình trụ vô cái gì thì nó sẽ là sanh diệt, tức là pháp sanh diệt thì quả vị nó cũng sanh diệt?

đáp: Trước khi giải thích phần này, tôi nói về đoạn nhân duyên mà Đức Thế Tôn nói kinh Kim Cang. Sở dĩ Đức Thế Tôn nói kinh Kim Cang là vì các đại đệ tử lớn của Đức Thế Tôn nghi: nghi Phật, nghi Pháp, nghi chính mình.

Nghi Phật là vì có những lúc Đức Phật nói thiện, có lúc Đức Phật nói không thiện; có lúc Đức Phật nói niết-bàn, có lúc nói không niết-bàn; có lúc Đức Phật nói phải, có lúc Đức Phật nói quấy; có lúc Đức Phật nói có, có lúc Đức Phật nói không; có lúc Đức Phật nói lìa tất cả các tướng, có lúc Đức Phật nói là tất cả các tướng. Các đại đệ tử nghi không biết đây có phải là ma vương để làm cho tâm các ngài loạn lên hay không.

Nghi Pháp không biết có đúng hay không. Bởi vì pháp của Đức Phật gọi là bất định pháp. Có một vị tăng đến gặp thiền sư Ajahn Chah nói:

– Tại sao con thấy Thầy có lúc dạy bố thí, có lúc thầy dạy đừng bố thí; có lúc Thầy dạy người này phải làm cái này, người khác thì Thầy lại bảo đừng làm.

Ngài trả lời:

– Ví như có người đi trên bờ ruộng nghiêng qua bên phải hoặc nghiêng qua bên trái thì tôi đều đưa họ đi đường thẳng trở lại.

Tức là tùy theo nghiệp tập của chúng sanh mà Đức Phật nói cái này hoặc cái kia. Cái gì trụ tướng đều là chấp thủ, dù cho chấp thủ về niết-bàn hay về Phật quả. Trụ tức là dính mắc, cho nên Phật nói kinh Kim Cang để phá chấp chúng sanh. Kim cương rất là quý, nếu bây giờ tôi cho mỗi người một viên kim cương thì chắc ai cũng thích, nhưng với điều kiện quý vị phải nhét viên kim cương đó vào mắt, quý vị chịu không? Tại sao không chịu? Kim cương tuy quý nhưng bỏ trong mắt sẽ bị xốn, quả Phật tuy quý nhưng dính mắc cũng không được bởi vì “Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi nhơ”.

Hỏi: Con tu thiền cũng ít năm rồi, cũng cố gắng hành theo phương pháp của Hòa thượng và quý thầy, khi thấy có niệm nổi lên thì biết. Nhưng có những khi niệm nổi lên vô cớ, có khi thấy vui vô cớ, có khi không ai chọc ghẹo mà mình sân, có khi là buồn. Đó có phải là nghiệp quá khứ của mình trong tàng thức nổi lên hay là do đâu nó nổi lên thưa thầy?

đáp: Ví dụ chiều nay quý vị ra một siêu thị lớn, có những cái mình chú ý thì mình về ngồi thiền nó ghi nhớ đậm hơn một chút. Có những cái mình không chú ý, về ngồi thiền bắt đầu nó ra, duy thức học gọi là lạc tạ ảnh tử, là những hạt giống rơi rớt. Những hạt giống rơi rớt mà chúng ta có sự tu tập, có sự chuyển hóa lớn thì nó không ghi nhận mạnh. Chẳng hạn cái máy này tôi bấm nút thì ghi nhận hết, nhưng có lúc tôi bấm nút xóa thì tôi nói tới đâu nó xóa tới đó. Các thiền sư cũng vậy, khi mắt thấy sắc cũng rớt vào tàng thức nhưng rớt là nó xóa liền không ghi dấu. Còn mình thì có thể mình ghi dấu.

Có một ông cư sĩ đến nhà khách Thường Chiếu. Ông gặp một vị cư sĩ khác, người này nói ông câu gì đó mà ai nghe cũng tức giận nhưng ông vẫn bình thường, ai cũng cho là ông tu siêu nhẫn. Nhưng sáng hôm sau ông tìm vị cư sĩ để chửi với vẻ rất là bực tức. Tôi hỏi sao hôm qua ông không chửi mà qua một đêm rồi ông mới đi tìm người ta để chửi. Ông nói về nhà nhớ lại tức không chịu nổi.

Như vậy có những người ghi nhận liền thì tâm họ phát khởi liền. Còn những người không ghi nhận liền mà về nhà những hạt giống đó mới biểu hiện ra. Những chuyện vui, chuyện buồn trong quá khứ hoặc hiện tại khi nó phát khởi gọi là chủng tử khởi hiện hành. Lúc hiện hành mà không chuyển hóa thì hiện hành huân chủng tử lại.

Cho nên sự luân hồi là chủng tử khởi hiện hành, hiện hành gieo chủng tử, nó cứ lẩn quẩn mãi. Nhưng khi niệm ra rồi không chạy theo, không ghi nhận, không cho vào nữa thì tu một thời gian gọi là không như lai tàng, trở về bạch tịnh thứcchuyển thức thành trí.

Hỏi: Nhiều khi thiền, con thấy trên huyệt bách hội có cảm giác gì đó, mình bỏ qua cái đó mình trụ xuống đan điền?

đáp: Tinh thần của Thiền tông hoặc thiền đốn ngộ là không trụ vào bất cứ tướng nào, bình thản hít thật sâu thở thật nhẹ đừng trụ đan điền hay bách hội gì hết, dính vô chỗ đó, rồi lẩn quẩn ra không được. Ngày xưa tôi đã từng dạy qua phương pháp luyện khí công nhưng khi dính chỗ đó rồi thì rất là khó bỏ, khi vào tu thiền phải ba bốn năm sau tôi mới dứt được. Hồi đó tôi có thể vận khí ra tay cứng như con dao để chặt đá…, gọi là chuyển khí theo ý muốn của mình. Cái đó gọi là khí công, nhưng mà nhà thiền thì không phải như vậy.

Trong nhà thiền các pháp rất là tự nhiên, mình tu tập bình thường tự nhiên thì khi mình ngồi thiền tất cả kinh mạch, toàn bộ ngũ tạng có sự vận hành thông suốt. Trong truyện Hiệp Khách Hành, Sử bà bà luyện vô vận thần chú bị tẩu hỏa nhập ma, các kinh huyệt đều bế tắc. Cũng vậy, khi mình tu trật thì các kinh huyệt bị bế tắc, đầu óc mình lùng bùng thấy này thấy kia gọi là bị tẩu hỏa nhập ma.

Cho nên ngồi thiền phải đúng cách, lưng thẳng vừa phải, không cong quá cũng không thẳng quá, khí phải luân lưu. Khi để tay ấn hàng ma, là ấn vững nhất của Đức Phật quá khứ Tỳ Lô Giá Na, tức là trở về pháp thân giống như mặt hồ tĩnh lặng. Mình ngồi đúng pháp, đúng kiểu thì bắt đầu có kết quả.

Hỏi: Khi ngồi thiền để hơi thở xuống bụng nếu như mình tập trung chú ý thì con thấy đó là do ý của mình chứ không phải tự nhiên.

đáp: Phương pháp của Sư ông chỉ dạy là phương tiện ban đầu cho người mới bước chân vào con đường thiền. Căn bản duy nhất là phải chú tâm đếm hơi thở gọi là sổ tức. Sổ tức thấy vậy chứ không phải đơn giản. Ngày xưa tôn giả La-hầu-la được Đức Thế Tôn chỉ dạy về phương pháp sổ tức mà ngài chứng quả. Cho nên ban đầu phương pháp căn bản là đếm hơi thở, khi thuần thục rồi thì qua tùy tứcTùy tức thì không còn tác ý nữa, hơi thở tự nhiên ra vào bình thường, hơi thở dài mình biết hơi thở dài, hơi thở ngắn mình biết hơi thở ngắn, hơi thở vào biết hơi thở vào, hơi thở ra biết hơi thở ra, chỉ biết thôi chứ không trụ, không chú ý.

Căn bản ban đầu số một, nhưng cái tối thượng cũng là số một. Phương pháp hít vào, thở ra mình thấy không dính dáng gì nhưng phương pháp đó rất là căn bản, tối thượng cũng nằm ở chỗ đó. Phải lưu ý chứ đừng bỏ qua điểm đó. Nhưng lên cao chút nữa là mình không trụ, không dính mắc vào chỗ hơi thở ra vào đó.

Tất cả mọi pháp đều là phương tiện không phải là cứu cánh nên đừng dính mắc vào nó. Khi đi vào khu rừng đầy khói độc mình phải mang mặt nạ, nhưng khi vào ăn cơm thì mình phải tháo ra. Tinh thần của thiền đốn ngộ đặc biệt là tháo mặt nạ ra được; còn có những phương pháp họ không gỡ ra được, chấp vào mặt nạ cho là thật của họ cho nên sanh ra những cái chướng khác.

Hỏi: Có lúc tọa thiền con rơi vào vô ký, thì phải khởi tác ý như thế nào?

đáp: Vô ký là không có biết, là mờ mịt, gọi là rớt trong hang quỷ.  là không,  là ghi nhận, không ghi nhận thì làm sao tác ý. Muốn tác ý phải làm sao? Phải nhờ tôi đánh thiền bảng, giật mình dậy bắt đầu mới tác ý. Tôi được may mắn theo sát Sư ông, nghe Sư ông dạy. Có một lần ở Thường Chiếu kiểm thiền, người kiểm thiền hay đánh vào bắp vế, Sư ông dạy: chú làm vậy không đúng. Bởi vì khi đánh vào bắp vế vang lên tiếng động thì làm ảnh hưởng đến những người đang tỉnh. Đánh là đánh người ngủ. Tôi đi kiểm thiền không nghe tiếng động, mà tôi đánh là đánh vào huyệt, đánh đúng huyệt thì nó sẽ truyền xuống chân làm thức dậy.

Ở bên Nhật người kiểm thiền đánh rất mạnh. Trong quyển Ba Trụ Thiền, một ông cư sĩ tập tu bị vị giám thiền đánh chịu không nổi, ông giật thiền bản đánh lại người kiểm thiền. Khi lên trình Hòa thượng Viện chủ, ngài trả lời đó chính là thiền.

Hôn trầm là do mình duyên theo vọng tưởng, thức của mình mỏi mệt nên thức rớt từ từ vào trong vô ký. Lúc hôn trầm là đã có vọng tưởng, mà vọng tưởng cuồn cuộn, một thời gian nó vừa lặng xuống vào vô ký, không ghi nhận, không biết gì hết. Mình ngồi tỉnh thức thì nghe tiếng chim, nghe hết tất cả các tiếng nhưng chỉ có một tánh biết duy nhất. Mình nghe rõ ràng, ghi nhận hết tất cả các pháp đến cùng một lúc mà không dấy tâm động niệm, không trụ trên tướng sanh tâm, gọi là “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Vô ký tức là không ghi nhận, mờ mờ mịt mịt không biết gì hết, lúc này người kiểm thiền phải đánh, kích thích trực giác, lúc đó quý Phật tử có thể tác ý.

Hỏi: Làm sao phân biệt trạng thái si định và hôn trầm trong khi thiền?

đáp: Si định và hôn trầm có giống nhau không? Giống thì giống mà phải thì không phải. Hôn trầm là gì? Hôn là mê, trầm là chìm. Hôn trầm là chìm trong mê không biết gì hết. Đi kiểm thiền thấy có những người hôn trầm quá, họ chìm sâu ngoẻo cổ ngủ luôn.

Si định là mê ở trong trạng thái định mà không ra được, cũng giống như tu đến trạng thái sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sơ thiền là ly sanh hỉ lạc địa, tức là lìa tham ái giữa đời thường hằng ngày, chấp trước. Bây giờ vào trong trạng thái mà ở trên đời này không có gì bằng. Các vị Tổ sư nói thà chìm trong biển khổ sanh tử còn hơn rớt trong chỗ này.

Si định là mê trạng thái khinh an mà ra không được. Thiền sư Triệu Châu có một câu bất hủ: “Chỗ không có Phật phải mau chạy qua, chỗ có Phật cũng đừng lưu luyến”. Chỗ không có Phật là vọng tưởng, điên đảo phải mau qua. Chỗ có Phật là trạng thái khinh an, êm ả. Có những vị nhập thất lâu năm không muốn ra thất vì sợ cảnh động thì đó là si định. Mê cảnh định mà không dám ra hoạt dụng trong nhà thiền gọi là “rớt trong biển độc”. Muốn phá chỗ này thì phải có bà già đặc biệt gọi bà già đốt am.

Ông tỳ-kheo nhập thất hai mươi năm, bà già nhờ cô cháu gái đến ôm ngang hông và hỏi ông tỳ-kheo thấy sao. Ông nói: “Khô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí.” Nghĩa là cây khô mọc trên núi đá lạnh lẽo, ba mùa đông không có hơi ấm. Đó là chìm trong si, lúc này không dám làm Phật sự, không có hoạt dụng gọi là biển độc vô sanh. Có những vị vào trong chỗ này ba trăm năm, bảy trăm năm, ngàn năm chìm trong đó.

Có vị cư sĩ hỏi tôi, tại sao Hòa thượng lấy tinh thần của ba vị tổ lớn: Tổ Huệ Khả, Lục Tổ Huệ Năng và Sơ Tổ Trúc Lâm. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có đoạn nhân duyên, một ông thầy ngồi thiền ở phía hành lang, Lục Tổ đến thổi cái phù. Tôi nói, nếu thời này Lục Tổ ra đời gặp mình ngồi thiền, Lục Tổ bảo mình ráng ngồi thêm chứ không có thổi. Thổi là vì ông thầy đó ngồi tới ba, bốn ngày, sợ rớt trong chỗ si định ngoan không nên Tổ thổi. Mình ngồi có một tiếng rưỡi là buông vũ khí thì ai mà thổi. Như vậy mình hiểu tại sao Lục Tổ thổi vị thầy đó, vì thầy ngồi lâu quá. Phương pháp của Sư Ông ngồi hai tiếng là đủ, còn bao nhiêu là hoạt dụng, đối diện với các pháp.

Sau này ông thầy tỳ-kheo đến xin nhập thất ba năm nữa, khi ông ra thì cô cháu gái tới ôm ngang hông, thầy nói: “Ngay đây tôi biết, cô biết, đừng cho bà già biết”. Căn trần tiếp xúc với nhau được nhưng đừng cho bà già biết tức là đừng cho thức sanh ra. Sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra sáu thức là động. Kinh Duy Ma Cật nói đối với các pháp phân biệt, nhưng đối với đệ nhất nghĩa đế bất động.

Như vậy hôn trầm khác với chỗ si chìm trong định. Định này phát tuệ không được. Lúc này hành giả trong tinh thần nhà thiền là nước sống chứa được rồng, nước chết không chứa được rồng. Hồ nước tù đọng rồng không ở mà nó phải ở biển sâu, sóng lớn. Khi nhận được thể hoạt dụng rồi thì các ngài ra làm các việc Phật sự mà tâm bất động. Lúc này tuệ phát lên, trong nhà thiền gọi là “đa tình tâm thị Phật”, nhiều tình thương chúng sanh đó là tâm của Phật, thương mà bất động. Không phải mình thương rồi, người đó khổ mình cũng khổ theo, người đó vui mình cũng vui theo thì động. Đến trạng thái này thì các ngài phát khởi lòng từ, thương vô lượng chúng sanh chìm trong biển khổ thì phải lập phương tiện, là bức tranh thứ mười gọi là thõng tay vào chợ.

Hỏi: Khi con ngồi thiền theo dõi hơi thở, nếu có vọng đến con nhận biết và buông xả trở về theo dõi hơi thở. Đôi khi con để tâm thư giãn biết tiếng linh, tiếng mưa, tiếng chim hót, … chỉ đơn giản là biết không để tâm thêm bớt, phân biệt gì, con công phu như thế có đúng không, xin thầy từ bi giảng giải.

đáp: Nếu quý Phật tử y như thế này thì cứ việc tu tập và công phu từ từ nó sẽ tiến lên.

Hỏi: Khi vào thất tu tập như thế nào và sau khi ra thất?

đáp: Khi vào thất mình ráng công phu một ngày bốn thời ngồi thiền, mỗi thời hai tiếng hoặc một tiếng rưỡi hoặc một tiếng. Sám hối một ngày ba thời: sáng, trưa, tối. Vào thất chúng ta nhớ đừng đợi ngộ, chỉ tu bình thường, chuyện ngộ đạo là chuyện bình thường. Không vọng tưởng, không dấy niệm, không động niệm đó là hợp với người tu. Khi vào trong thất rồi, thấy cảnh tượng lạ gì thì biết đây là từ bản thể lưu xuất do mình dụng công, dồn nén công phu nó hiện ra những tướng lạ. Trong kinh Kim Cang Phật dạy: “Phàm những gì có tướng đều là hư dối, đều là hư vọng.” Ngay trong cảnh giới đó chúng ta chỉ cần chánh niệm thì cảnh sẽ mất, đừng có chú tâm.

Khi ra thất chúng ta vẫn làm việc, vẫn tu tập bình thường là đúng. Còn nếu ra thất mình thấy có biểu hiện gì lạ là biết rằng chúng ta bị bệnh thiền, vì không có gì là lạ hết, miễn sao tâm mình bình ổn, tâm mình buông xả tất cả khi các tướng đến thì đó là đúng.

Hỏi: Người cư sĩ tu đến đâu mới được nhập thất và được nhập trong bao lâu? Khi ở trong thất nếu có gì bất ổn con sẽ nương vào ai?

đáp: Cái này quan trọng lắm. Ngày xưa khi ở thiền viện với Hòa thượng Trúc Lâm thì phải đủ hai năm hoặc ba năm mới được vào thất. Thất đầu tiên là hai mốt ngày, năm thứ tư mới được bốn chín ngày. Còn chúng lớn làm các việc Phật sự, chẳng hạn chúng tôi làm nhà khách được hai năm thì Hòa thượng cho nhập thất bốn tháng. Người đủ tiêu chuẩn nhập thất là thần kinh phải vững, nếu không vững thì mang tai tiếng người ta nói tu thiền điên. Thật ra ở ngoài họ đã điên rồi chớ không phải vào thất mới điên. Cho nên mở những cuộc nhập thất phải gần người đó, coi họ có tỉnh hay không, con mắt có lờ đờ không rồi mới cho nhập thất.

Trong pháp giới mông lung vô hạn có đầy đủ, gọi là ngũ thú tạp cư địa, có những cảnh giới siêu hình như thần cây, thần đá, thần núi, …. gá vào rất nhiều. Giống như ở ngoài đời, chẳng hạn mình mở võ đường chắc chắn có những người đến thử: “ông đến vùng tôi mà ông mở võ đường thì tôi đến thử ông.” Sở dĩ ngày xưa ở Trúc Lâm nhập thất tu tập thành tựu được là nhờ chúng xung quanh bảo bọc gọi là cương giới thất. Khi có thất Hòa thượng xuống sái tịnh gọi là cương giới. Có cương giới rồi, vậy mà chúng có nhiều người tu cũng trục trặc.

Chẳng hạn như có một ông thầy tu cũng lâu năm, khi vào thất ông nhìn ảnh Đức Phật ông thấy Đức Phật nhe hai răng nanh dài. Ông hoảng hồn nhảy ra thất, được quý thầy lớn nhắc nhở xong ông vào thất lại nhưng cũng bị nữa. Ông lấy hình Hòa thượng ông quán chiếu cũng bị vậy luôn, từ đó về sau ông không nhập thất nữa. Có những vị tu cũng lâu, vào thất thấy con ếch nằm trong nhà vệ sinh nó mở miệng to, sợ quá la lên.

Sống trong cái ảo do thần kinh yếu khi vào thất sợ ma sợ quỷ sợ đủ thứ. Cho nên tại sao ở đây tôi có thất mà tôi chưa cho chúng nhập. Bởi vì tôi chờ cho chúng thiện pháp sâu rồi tôi đẩy vào. Thiện pháp là gì? Là công quả, là bòn mót phước, là sám hối, là tu tập. Giống như cái bình, phải súc cho sạch mới đựng được nước cam lồ.

Chúng ta vô lượng kiếp trong sanh tử, năng lực của mình bị nhiễu, giống như chiếc xe bị đứt hết dây điện, mình không tiếp thu được năng lượng tu tập nữa. Cho nên mình phải làm nhiều thiện pháp như công quả, nghe pháp, tu tập bào mòn những tập khí rồi mình vào thất mới có hiệu quả.

Mình ở ngoài tu tập với đại chúng mình không thấy gì, nhưng khi vào thất, khu vực của thất phải rào kín, từ con chó đến con mèo, con gà không cho lai vãng nếu là người nhập thất quyết liệt. Người xưa nói ở trong rừng sâu thấy con trâu cũng đẹp, nghĩa là trong rừng sâu không có ai nên thấy người phụ nữ đen như trâu mà vẫn cho là đẹp. Đó là tham dục, tập khí từ vô lượng kiếp, khi chúng ta tu tập tâm yên rồi bắt đầu nó phản lại, hiện lên những hình bóng. Cho nên những người có gia đình họ tu tập ở trong thất yên một thời gian rồi bị tập khí tham dục phá. Có những người họ sám hối, khóc thấy tội lắm.

Ở đây tôi nghe huynh đệ nhập thất từ một đến bảy ngày cũng ít, không có gì. Nhưng nếu nhập hai mươi mốt, bốn mươi chín ngày hoặc bốn, năm tháng như chúng tôi, đến tháng thứ hai là bắt đầu quyết liệt giống như ra trận, rất khó vượt qua cái ải đó. Mà cái ải đó ăn sâu, kết tập từ vô lượng kiếp.

Có một vị thầy lớn tu trên núi ở Đà Nẵng, một hôm ngồi tu ngài thấy trên thân của ngài phát quang, những lỗ chân lông phát ra ngũ sắc. Lúc vào thiền định, cúi xuống ngài thấy những cảnh giới địa ngục rõ như ban ngày; ngước lên ngài thấy trời sắc cứu cánh. Mừng quá ngài khởi niệm chứng quả nên rớt trong đường tà, rồi thầy bị điên phải vào Chân Không cho Hòa thượng trị.

Ngày xưa tôi lên Chân Không tu với Hòa thượng Phước Hảo. Một hôm tôi đang ngồi thiền dưới chân núi, ở trên Hòa thượng ngồi, bỗng nhiên có một đàn kiến bò ra, tôi thấy rõ đàn kiến từ đâu sanh trở lại, tự nhiên tôi phát khởi lòng từ bi để độ đàn kiến này, biết đàn kiến này là quyến thuộc nhiều đời của mình bây giờ bị đọa trong loài súc sanh này. Rồi tôi khóc. Trình Hòa thượng, ngài kinh nghiệm nói, chú rớt trong ngũ ấm ma, rớt trong tưởng ấm.

Có những người ở ngoài không biết làm thơ làm kệ gì hết, mà vào trong thất lại biết làm thơ. Có những người gặp cái gì cũng khóc là bị ma sầu bi nhập tâm. Hoặc gặp cái gì cũng cười là bị ma hỉ nhập tâm.

Cho nên muốn cho chúng nhập thất thì người huynh trưởng phải kinh nghiệm, bắt họ phải công quả một thời gian. Khi họ tiếp xúc với sự sống, sự tu tập, bắt đầu họ vào họ mới có kinh nghiệm. Còn không, vào thất có những lúc sanh đủ thứ chuyện.

Ở trong chúng thì ít nhất là hai năm hoặc bốn năm tôi mới cho nhập thất. Nếu trong thất có gì bất ổn thì phải gởi giấy ra để cho người hộ thất gặp vị trụ trì. Cư sĩ thì phải gởi giấy ra cho người mở những khóa nhập thất, người đó cũng có kinh nghiệm thì mình thưa hỏi.

Có những người chưa ra khỏi thất mà nói nhảm, theo kinh nghiệm của ngài Hám Sơn thì phải bắt họ hoặc đánh cho xỉu, đưa vào giường đắp mền cho ngủ một đêm sẽ hết. Hoặc là những người cuồng ngôn, cuồng ngôn là họ hiểu lý thiền, học nhiều quá rồi ở yên một mình nên bị. Những người mở khóa tu là phải cẩn thận lưu ý. Nhìn khuôn mặt rất dễ biết, mắt lờ đờ thì đừng cho vô thất.

Người vào thất phước thiện phải sung mãn, chẳng hạn Hòa thượng bắt chúng tôi làm Phật sự rất nhiều rồi mới cho vào thất. Chúng tôi làm ở nhà khách hai năm rồi Hòa thượng mới cho vào thất bốn tháng. Vào bốn tháng, đến tháng thứ tư mới thành tựu. Làm Phật sự ba năm thì Hòa thượng cho sáu tháng, ai làm Phật sự bốn năm thì Hòa thượng cho một năm và cứ thế nhân lên.

Hỏi: Trong lúc nhập thất con thường đặt câu hỏi, con đang ngủ hoặc đang ngồi thiền thì con lại được Hòa thượng ân sư hoặc là thầy Thông Phương trả lời hết những câu hỏi đó. Vậy lúc đó con đang rơi vào cảnh gì?

đáp: Chuyện đó chúng ta phải cẩn thận. Trong thân ngũ uẩn của mình chiêu tập không phải một đời mà vô lượng kiếp, cho nên khi chúng ta đặt những câu hỏi mà hiện lên cảnh giới, tất cả đều là bệnh. Mình phải vượt qua hết đừng có dính mắc, mình biết đây là cạm bẫy. Khi chúng ta nhập thất lúc nào mình cũng bình thường, tỉnh giác, sám hối, tọa thiền, ăn uống bình thường để tâm mình yên chớ không có đợi ngộ.

Có nhiều con đường tiến thân chớ không phải vào thất mới tiến thân. Chưa có vị thiền sư nào ở trong thất mà phát minh lớn. Các vị đại thiền sư phát minh lớn trong lúc các ngài làm việc. Muốn được như thế thì ở trong thất một thời gian. Đừng nghĩ rằng vào thất ngộ này ngộ kia, cái đó đều là bệnh. Vào thất là tu tập bình thường để nhận diện ra được mình là cái gì, để khi chúng ta ra tiếp xúc với cuộc sống này chúng ta có kinh nghiệm để chứng nghiệm vào dòng giáo pháp.

Vào thất mình tha thiết sám hối nghiệp chướng nhiều đời nên bây giờ lăn lộn trong ba đường sáu nẻo, rồi tu tập. Còn những gì hiện khởi đều là vọng thức không phải là thật, kể cả khi vào thất Đức Phật hiện thân ra nói pháp cũng là bệnh. Thiền sư Lâm Tế nói: “Phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma”, vượt qua hết đừng dính trong cạm bẫy.

Có một vị này khi tu thất ở núi, một hôm ông cũng thấy những hiện tượng lạ, tự nhiên kinh điển ông đều nhớ hết. Ông có một biện tài rất giỏi nên người ta tưởng ông chứng đắc về con đường thiền nhưng thật ra bị rớt trong cạm bẫy. Những người rớt trong cạm bẫy sâu thường bị ma nữ, tức là sắc ái quyến rũ nên người đó bị phạm giới. Đại chúng phải ráng cẩn thận, khi vào thất chúng ta cứ sám hối, tọa thiền bình thường mà không đợi ngộ. Mình cứ nghĩ vô lượng kiếp đã rớt trong con đường sanh tử thì bảy ngày tu tập có gì đâu mà ngộ. Ráng cố gắng bào mòn tập khí trước từ từ.

Con vào trong thất lúc đầu rất là buồn ngủ trong một ngày. Sau đó thức ba ngày ba đêm không ngủ được nhưng rất là minh mẫn, ăn uống bình thường. Chỗ này là như thế nào?

đáp: Khi vào thất ngày đầu ngủ li bì thì không có gì lạ. Vì khi ở ngoài đời chúng ta làm việc mỏi mệt nên khi yên nghỉ thì rất thích ngủ. Ngủ đủ rồi thì không buồn ngủ nữa mà tỉnh tảo. Chúng ta nên lợi dụng thời gian đó để công phu tu tập.

Theo kinh nghiệm của chúng tôi, khi vào thất kinh nghiệm, tám giờ sáng là giờ buồn ngủ nhất. Nếu không để đồng hồ reo, khi giựt mình dậy ra ngoài cửa là thấy người ta để cơm cho mình ăn rồi. Mình nói, ngủ nửa tiếng chín giờ rồi ngồi thiền mà ngủ ngon quá nên ngủ quên luôn. Sư phụ Thường Chiếu dạy, vào trong thất tám giờ sáng phải sám hối không được ngủ, ngủ là dễ ngủ quên. Giờ đó rất dễ hôn trầm, bởi vì mình dậy ba giờ nên tám giờ buồn ngủ cũng là chuyện bình thường. Khi tỉnh, mình ráng dụng công tu, chớ vào trong thất là mình thọ hưởng của đàn na thí chủ, vào đó ăn với ngủ không thì phước tổn giảm. Cho nên vào thất mình cố gắng thực hiện bốn thời ngồi thiền, hai thời sám hối.

Hỏi: Khi con nằm ngủ mơ thấy đang ngồi thiền thì trên đầu phát sáng như bóng đèn điện, lạ thay ánh sáng càng sáng thì sự đau nhức trên đầu càng tăng, ngay lúc này con niệm Phật, tỉnh giấc, thấy trên đầu vẫn tê đau không tả nổi. Đến hơn hai mươi phút sau thì sự tê đau đó mới giảm đi. Xin thầy từ bi giải thích hiện tượng này.

đáp: Có nhiều người sống trong thức vô lượng kiếp chứ không sống trong trí. Sống trong thức thì đa phần sống trong ảo, khi cái ảo hình thành nên thì giống như hiện thực. Hiện tượng này nếu có thật thì cũng không dính dáng gì đến Phật pháp. Phật pháp chúng ta phải cố gắng lấy lõi cây chứ đừng lấy vỏ cây.

Có một ông Bà-la-môn đến nhà thí chủ, ông ngồi nhìn một hồi rồi ông khóc, bà thí chủ hỏi:

– Thưa ngài, tại sao ngài khóc?

Ông nói:

– Tội quá, cách đây khoảng hai chục cây số có con khỉ tắm sông chết đuối.

Bà thí chủ nghĩ ông chứng quả nên thành kính lạy ông. May mắn một điều, trong nhà bà thí chủ này có một người tín thí của Đức Phật. Sáng hôm sau khi ông Bà-la-môn đến khất thực tiếp, cô này lấy thức ăn ngon nhất để dưới bình bát, còn cơm nguội để phía trên bỏ thêm mấy hạt muối. Khi đưa bình bát cho ông, ông chửi bà thí chủ:

– Bà khinh tôi, coi thường tôi, tôi chứng đắc thần thông rồi mà tại sao cho tôi ăn muối?

Cô tín thí nói với bà thí chủ:

– Thưa bà chủ, bà thấy không, ông Bà-la-môn này thấy con khỉ chết đuối cách đây hai chục cây số mà bên dưới bình bát này có thịt mà ông không thấy.

Ngài A-nậu-lâu-đà đến trình bày với tôn giả Xá-lợi-phất buổi sáng ngồi thiền định ngài thấy một ngàn tiểu thiên thế giới. Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Sư đệ thấy một ngàn tiểu thiên thế giới cũng không dính dáng gì, chỉ là vỏ cây, mà lõi cây chính là chuyển hóa tham sân si, chuyển hóa nỗi khổ từ tâm thức để nhận được, để sống được, để không còn lang bạt trên bước đường sinh tử nữa.

Tôn giả A-nậu-lâu-đà sụp xuống lạy khóc:

– Nhờ sư huynh chỉ mới thấy sự vi diệu của nhà Phật là gì.

Ở đây cũng vậy, dầu chúng ta nằm thấy bóng điện sáng lên, đầu tê nhức cũng không dính dáng gì đến nhà Phật, mà chúng ta phải làm như thế nào đó để mỗi ngày tâm tham, tâm sân, tâm si mê của mình bớt thì chính là cốt lõi của nhà Phật. Những thứ đó là rác rưởi, là vọng tưởng điên đảo, không dính dáng gì trong tinh thần của nhà thiền. Tôi nhấn mạnh điểm đó.

Có người hỏi tà định là gì. Đến mức độ mình tu, phát nguyện sanh cõi trời vô sắc giới cũng là tà định. Mục tiêu của mình là tu tập để thành tựu quả vị vô thượng giác. Những hiện tượng này là bóng dáng của sáu trần, là ảo ảnh của pháp giới, không có thật. Mình đừng cho rằng hơn người ta, thấy vậy càng chết. Cái này là vọng tưởng, vọng thức, ráng buông xả đừng có dính mắc vào.

Trong kinh Lăng Nghiêm nói, ngay nơi đó mình cho là chứng thánh thì rớt trong đường tà: “Bất khởi thánh tâm tức thiện cảnh giới.” Chẳng khởi mình chứng thánh tức là cảnh giới thiện. Nắm được chìa khóa đó rồi thì khi vào thất tu tập chúng ta không sợ lạc đường. Con đường của cứu cánh rốt ráo là chuyển hóa tham sân si, dẹp bỏ những tâm niệm vọng thức điên đảo, luôn luôn tỉnh thức, chánh niệm, tỉnh giác thì dầu cho mình tu bất cứ con đường thiền nào cũng không sợ lạc.

Hỏi: Khi tọa thiền hoặc sám hối con thấy cơ thể của mình có một luồng khí như là điện đưa vào cơ thể mình từ trong nó lên, con không biết có ảnh hưởng gì không? Con xin Thầy giải nghi.

đáp: Hòa thượng Trúc Lâm nói: “Mấy chú tu thiền mà dẫn điện, lỡ hôm nào điện mình chẳng hạn hai pha, mình hút ba pha nó giựt chết”. Hòa thượng trả lời rất bình dân nhưng khi tu mình thấy sao mà thiết thực quá. Thân mình chứa điện hai pha mà bây giờ mình sạc điện ba pha vô thì người đó sẽ đứng nhìn lên trời cười hoặc ngáp là biết điện dư.

Khi dụng công có những tướng lạ mình đừng có chấp. Tất cả tướng lạ mình hiểu rằng hoặc là do đời trước mình đã từng tu tập về pháp này, bây giờ dụng công bắt đầu hiện khởi ra những hình tướng đó. Chẳng hạn như đời trước mình từng tu tập pháp môn ngoại đạo thì khi mình ở trong thất, khi tu một mình thì hiện ra những tướng lạ hoặc điện chạy.

Có một ông thầy ở Bến Tre ngồi thiền mà đầu ông cứ chạy vòng vòng và nhói nhói. Phật dạy trong kinh Lăng Nghiêm nếu chấp mình chứng thánh tức là rớt trong đường tà, còn đừng chấp, đừng dính mắc tức là cảnh giới thiện. Mình ngồi thiền, sám hối đó là những chuyện bình thường, đừng có chấp vào điện hay khí này khí nọ. Trong cơ thể mình có bảy mươi hai huyệt đạo cho nên Tôn Ngộ Không tu bảy mươi hai phép biến hóa. Khi ông tu thành đạo tiên thì tự nhiên bảy mươi hai huyệt đạo mở hết.

Khi chúng ta ngồi thiền bình ổn, các huyệt đạo bắt đầu mở ra và nơi nào huyệt đạo không mở ra được thì cảm thấy đau nhức. Mạch máu mình bị nghẽn là do bị dơ nên chỗ đó đau, mình ngồi không thông thì mình xoa bóp. Nơi nào đường mạch máu và huyệt mạch thông thì mình cảm thấy như có luồng hơi nóng, khi hít thật sâu thì luồng hơi nóng sẽ xuống đan điền, đó là chuyện bình thường. Bởi vì con người là tiểu vũ trụ, bên ngoài là đại vũ trụ. Khi tiểu vũ trụ và đại vũ trụ cộng hợp thì sanh ra tướng lạ nhưng đừng chấp, đừng dính mắc.

Tinh thần đạo lão chia thân làm năm phần: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì vạn pháp cũng có năm tướng: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Chúng ta làm như thế nào điều hòa tu tập, chẳng hạn mùa nóng đừng ăn tiêu, ớt. Mình thấy khó chịu nóng bức hoặc tướng chạy rần rần là do ăn đồ nóng thì khi dụng công sẽ có những tướng này. Quý Phật tử muốn hiểu thêm thì xem quyển Thiền Căn Bản của Đại sư Trí Khải mà Sư Ông đã dịch.

Cho nên đừng chấp tướng, lấy tinh thần của Lục tổ Huệ Năng ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, nên không có chỗ trụ mà vẫn có chỗ rõ ràng thường biết thì đúng tinh thần tu thiền.

“Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”

Hiểu được nguyên lý của thiền thì mình tu không sợ lạc đường, không sợ điện vào trong mình.

Hỏi: Làm sao để được sống miên mật tỉnh thức trong từng sát-na?

đáp: Tu thiền mình đừng tưởng tượng quá. Thiền sư Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền thế nào là đạo, ngài nói tâm bình thường là đạo. Còn tâm mình thì không bình thường.

Một hôm ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch hỏi thầy của mình là ngài Quy Sơn:

– Hòa thượng giờ này còn tẩu tác hay không?

Tẩu là chạy, tác là tạo tác, mình ngồi đây mà chạy rong đi chơi, nghĩa là có những lúc mình không tỉnh thức.

Thiền sư Quy Sơn nói:

– Ta mới hết năm năm nay.

Ngài ngộ đạo lúc hai mươi ba tuổi, năm mươi hai năm mới dứt.

Ngài Quy Sơn hỏi:

– Còn ông thì sao?

– Bạch Hòa thượng, lâu lâu nó chạy rong một chút.

Lúc đó ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch năm mươi hai tuổi, mà ngài được gọi là tiểu Thích Ca. Tôi nói cho quý Phật tử có lòng tin với pháp tu thiền, nghe vậy mình đừng có nản. Ngay chỗ này mình biết được các vọng tưởng là hư vọng thì ngay vọng tưởng biến thành đề hồ là cái dụng của đạo, nên mình có tu là có sự tiến bộ.

Như trong kinh Lăng Nghiêm diễn tả, ly nước đục khi được lóng trong thì cát bụi lắng xuống dưới, nhưng chỉ cần lấy đũa quậy lên thì nó đục trở lại. Nghĩa là có những lúc mình tu tâm được khinh an thì tạm được an chút xíu nhưng những lậu hoặc về vô minh vi tế vẫn còn tồn đọng. Phải đổ nước sạch qua một cái ly khác và đem bỏ cặn bã thì quậy cách mấy cũng không đục.

Như vậy muốn được tỉnh thức, khi nào kiến tánh, nhận và sống miên mật thì người đó phải giải tán đồ chúng hoặc ở trong chúng tu miên mật, Phật sự không làm nữa gọi là trưởng dưỡng thai thánh cho lớn mạnh thì mình ra làm các việc Phật sự. Thiền sư Duy Chánh ngài nói “Dẫu cho trời long đất lở mà không ướt góc cà sa của lão tăng”. Muốn sống tỉnh thức từng sát-na thì chuyện gì đến “mặc kệ nó”.

Phần 2:Tham Vấn Giới Luật

Hỏi: Con có nghe một vị thầy nói là thọ giới Bồ-tát thì sẽ không phát nguyện vãng sanh. Xin thầy chỉ dạy.

đáp: Chúng tôi đã đọc nhiều kinh sách nhưng chưa thấy kinh nào nói như vậy. Những vị Hòa thượng lớn như ngài Đại sư Ấn Quang, Tổ Thiện Đạo, Hòa thượng Thiền Tâm, các ngài đều thọ giới Bồ-tát và đều phát nguyện sanh về cõi Phật, phát nguyện được vãng sanh. Mình phải hiểu thọ giới để giữ tâm không buông lung, còn phát nguyện đi cõi nào thì không có liên quan. Vị thầy đó nói không đúng. Có những vị Bồ-tát cũng về cõi Phật tu tiếp, có những vị không nguyện về Tây Phương mà nguyện trở lại cõi ta-bà này để độ chúng sanh. Tùy theo nguyện lực chứ không liên quan đến giới.

Giới chia ra: năm giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới, mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh. Giới giống như hàng rào ngăn ngừa các việc ác, là phòng phi chỉ ác chứ không liên quan đến chỗ phát nguyện. Mình thọ tất cả các giới là để giữ gìn ba nghiệp: nghiệp thân, nghiệp miệng và nghiệp ý. Ngày xưa ở vùng quê không có đèn điện mà người ta đốt đèn dầu. Ngọn đèn không có gió đứng yên một chỗ là định; nó soi sáng được căn nhà mình là tuệ. Nếu không có bóng đèn thì ngọn đèn bị gió thổi tắt. Gió gọi là ác pháp. Thọ giới là để ngăn ngừa ác pháp, để có định và tuệ chứ không dính gì đến chỗ phát nguyện.

Thọ năm giới, mười giới hoặc hai trăm năm mươi giới thì chỉ là lợi ích cho bản thân, còn thọ giới Bồ-tát là lợi ích cho những người khác. Cho nên trong giới Bồ-tát không cho mua bán rượu, không cho mua bán quan tài… Người thọ giới Bồ-tát phải thực hiện tứ vô lượng tâm: đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Bán quan tài hoặc bán đất nghĩa trang mà khởi niệm “sao hôm nay bán ế quá” tức là mình mong có người chết, trái với tâm Bồ-tát cho nên không được bán. Nghề thuốc cũng vậy, chỉ cần khởi niệm “sao không ai đến khám bệnh” hoặc “sao không ai mua thuốc” tức là mong muốn người ta bệnh. Thọ giới Bồ-tát tâm dấy niệm lên như vậy đã là phạm giới.

Giới Bồ-tát giống như mình làm vườn, đào xới lên trồng hoa quả, khi hoa quả chín mình đem phân phát cho tất cả mọi người. Làm lợi ích cho tất cả mọi người gọi là nhiêu ích hữu tình giới. Muốn vậy mình phải giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh. Cho nên thọ giới Bồ-tát không được nuôi súc vật, vì Phật dạy mình khởi lòng thương, nuôi súc vật sợ nó ăn những con thú khác.

Hỏi: Thọ Bồ-tát giới một tháng phải tụng giới ở chùa. Vậy ở nhà tụng có được không?

đáp: Không thọ thì thôi, đã thọ thì phải y nơi vị luật sư nói. Trong giới Bồ-tát bắt buộc phải một tháng sáu kỳ đến thọ Bát Quan Trai, và một kỳ phải đến chùa để nghe về giới chứ không phải tự tiện làm ở nhà. Chư Tăng chúng tôi nửa tháng một lần đọc lại giới gọi là bố tát thì cư sĩ thọ giới cũng phải như thế. Bây giờ chùa nào cũng nửa tháng hoặc một tháng một lần đọc giới Bồ-tát cho cư sĩ cho nên mình phải đến đó. Ở nhà không có thành tựu bởi vì không có yết ma, không có vị giới sư, không có tăng đoàn.

Hỏi: Ở Thiền viện TL Chánh Giác thì thọ sáu giới trọng và hai mươi tám giới khinh. Ở Thiền viện Trí Đức thì Phật tử cùng thọ với người xuất gia là mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Kính xin Thầy giải thích sự khác nhau. Trong lúc ở Chánh Giác con có nghe quý Thầy dạy khi thọ giới Bồ-tát thì khi chết giới không bị mất. Xin thầy giải thích thêm chỗ này.

đáp: Thọ mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh đó là giới xuất gia thì dứt hạt giống dâm dục. Giới của người xuất gia có 4 giới nằm trong giới ba-la-di: sát, đạo, dâm, vọng. Thọ rồi thì không được dâm dục.

Cho nên chư Tổ đặt ra giới Bồ-tát của cư sĩ chỉ có sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh. Thọ giới này người cư sĩ được quyền lập gia đình nhưng tránh những ngày ba mươi, mùng một, mười bốn, rằm, tránh những ngày sóc vọng không gần gũi vợ chồng.

Giới mình thọ rồi sẽ không mất vì hạt giống đã ghi vào tàng thức, mai kia sanh ra đời tuy mình không nhớ nhưng hạt giống đó thôi thúc mình tiếp tục đi thọ giới, nên gọi là không mất.

Hỏi: Có người Phật tử quy y thọ giới còn nhậu, họ nói tùy duyên có đúng không hay là tùy nghiệp?

đáp: Cái này không phải tùy duyên. Khi chúng ta đã tu tập thì chỉ trừ trường hợp tùy duyên là để cứu người.

Bà Mạt Lợi phu nhân uống rượu ngay trong ngày thọ Bát Quan Trai nhưng được Phật xác nhận bà có công đức. Ông đầu bếp của vua Ba Tư Nặc nấu ăn mà để rớt một cọng tóc vào món ăn, vua tức giận ra lệnh chém đầu. Hoàng hậu biết được, bà đem giấu ông đầu bếp trong phòng, rồi tự tay nấu ăn và cùng uống rượu với vua Ba Tư Nặc. Vua vui quá nên quên chuyện chém đầu.

Sáng hôm sau vua sai cận thần bảo đầu bếp nấu ăn, ông cận thần nói: “Hôm qua bệ hạ sai chém đầu ông đầu bếp rồi.” Vua buồn khổ bởi vì người đầu bếp này nấu ăn rất ngon. Ông kể lại chuyện này cho Hoàng hậu, bà Mạt Lợi phu nhân nói: “Hôm qua hậu thấy bệ hạ giận quá nên đem giấu ông đầu bếp trong phòng và nấu đãi bệ hạ một bữa chay.”

Vua nghe hoàng hậu thọ Bát Quan Trai mà uống rượu nên lên bạch với Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, Hoàng hậu Mạt Lợi phu nhân trong ngày thọ tám giới mà uống rượu, như vậy có tội không?

Phật nói:

– Có công đức không có tội.

Thọ giới mà tùy duyên để cứu người thì không có tội, nhưng khi chúng ta uống mà cảm thọ, thấy ngon thì chúng ta có tội.

Hỏi: Con có một người bạn đã thọ giới Bồ-tát, gia đình làm nghề mổ heo nhưng bạn con không mổ heo mà chỉ bán thịt, vì sợ phạm giới nên bạn con muốn xả giới có được không? Nếu được thì làm cách nào xả giới, nếu không được thì xin thầy chỉ dạy làm cách nào để không phạm giới?

đáp: Khi chưa đi tu tôi làm ở một cơ quan rất đông, có khi công nhân lên tới hai trăm người. Ngày hai mươi chín Tết cơ quan làm một hay hai con heo để chia cho mọi người. Khi chuẩn bị đi tu thì tôi đã ăn chay trường, ông tổ trưởng của tôi cũng ăn chay nhưng ăn chay kỳ. Ngày ba mươi là ngày ông ăn chay, khi con heo được chở đến ông đè nó xuống rồi kêu anh công nhân thọc huyết. Anh công nhân sợ không dám làm, ông tổ trưởng cũng không dám vì ông ăn chay.

Mình tự giết con heo thì trong nhà Phật gọi là tự sát. Như ông tổ trưởng ăn chay không dám giết mà kêu người khác giết là tha sát. Phương tiện sát tức là tìm cách làm cho người ta bị ở tù, bị khốn đốn đến nỗi chết trong tù. Tùy hỷ sát là vui khi người khác chết.

Lúc tôi ở Canada, khi lãnh tụ Iraq chết, Phật tử họ mừng vì nghĩ rằng ông này ác. Nhưng dù là kẻ thù mình chết, mình cũng đau buồn bởi vì chúng sanh này bị vô minh che lấp chứ ai cũng muốn làm con người thánh thiện. Họ ác với người này nhưng thiện với người khác, thiện ác lẫn lộn mà mình không hiểu cho nên mình tùy hỉ, mình sống trên sự đau khổ, mình vui với cái chết của người ta.

Đời nhà Trần khi tướng giặc chết, vua Trần Nhân Tông đích thân cởi áo bào bọc lại, thương cảm vì điều kiện cuộc sống mà người này phải như vậy. Chỉ có bậc thánh nhân mới làm được điều này.

Nếu Phật tử đã thọ giới mà cảm thấy giữ không được, sẽ bị tổn hại thì đến một vị giới sư nào đó hoặc đến trước một người hiểu được tiếng nói của mình, mình nói tên của mình, thưa là bây giờ vì không giữ được giới đó nữa nên xin xả.

Đa phần Phật tử rất thích thọ giới Bồ-tát bởi vì ai cũng muốn làm Bồ-tát, không ai muốn làm súc sanh, ngạ quỷ. Thọ giới thì phải cố gắng gìn giữ giới pháp. Vì gia cảnh, vì cuộc sống không giữ được thì thôi mình giữ năm giới là đủ.

Trong giới Bồ-tát không được nuôi súc vật, không được bán rượu, không được bán quan tài, cũng không được làm nghĩa trang vì không khéo sẽ bị phạm giới. Bán quan tài mình than ế tức là trông người ta chết. Bán thuốc than ế là mong người ta bệnh. Bán đất nghĩa trang mà cả tháng không bán được thì cũng trông người ta chết.

Người chứng sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả thì Đức Phật nói giống như người tay không có vết thương, cầm nắm thuốc độc cũng không sao. Còn mình phản chiếu lại mình chưa được, chẳng hạn bán thịt mà hôm nào ế thì buồn khổ, hôm nào người ta mua thịt nhiều thì vui thích.

Phật dạy, mình giữ giới nào thì giải thoát giới đó, gọi là biệt giải thoát giới. Giữ giới không trộm cướp mà bố thí cúng dường thì đời sau giàu có. Giữ giới không tà dâm thì đời sau gia đình trinh bạch. Giữ giới không uống rượu thì trí tuệ viên mãn. Trong năm giới đã thọ mình giữ được bốn giới nhưng phạm giới sát sanh vì cộng nghiệp trong gia đình thì đời sau mình giàu, cái gì mình cũng có mà bệnh hoạn liên tục do tạo nghiệp sát quá nặng.

Có bà nọ một ngày làm thịt mười lăm con heo sữa. Tiền rất nhiều nhưng bà chỉ xài mười ngàn. Mỗi khi mệt bà đem tiền ra đếm là bà cảm thấy khỏe. Bà dặn con gái khi bà mất đem tiền này cúng dường các nơi cầu siêu cho bà là bà yên ổn. Tôi nói với con gái bà: “không đúng đâu, nói mẹ con chuyển nghề đi.”

Mình phải khéo chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng. Làm nghề này gọi là tà nghiệp, tà mạng. Con đường này cắt đứt sanh mệnh chúng sanh, làm cho chúng sanh đau khổ thì chắc chắn mình sẽ gặp những quả khổ về sau. Trong cuộc sống gọi là ngũ thú tạp cư địa, rất phức tạp. Mình may mắn được là Phật tử, mình cũng phải kiếm lời sống nhưng phải bằng con đường chánh nghiệp như buôn bán gạo, trái cây, … để tránh bớt nghiệp sát.

Phật tử này muốn xả giới thì đứng trước một vị giới sư, trước Phật Tam bảo, nói con tên gì, hôm nay con phát nguyện chỉ giữ năm giới. Mình đừng thọ nhiều giới mà lại giữ giới không được.

Hỏi: Bạch Thầy, có phải ăn thêm ngoài hai bữa ăn chính là buổi sáng và buổi trưa trước giờ ngọ thì phạm giới ăn phi thời? Xin Thầy giảng cho chúng con được rõ hơn.

đáp: Chúng ta giữ giới có hai phần: một là giới của Phật, hai là giới của Tổ sư Bách Trượng, gọi là khai.

Chẳng hạn buổi chiều mình ăn cháo hoặc thức ăn nhẹ trong các chùa thường dùng gọi là dược thạch. Dược là thuốc, mình ăn mà xem như uống thuốc để trị thân bệnh, giống như xe cần có nhớt cho trơn, có xăng dầu để chạy. Mình ăn buổi chiều không dám ngẩng mặt nhìn lên, hổ thẹn với Phật Tổ vì đã hứa trước Tam bảo là giữ được giới này. Bây giờ thân thể không chịu đựng được nên mình ăn mà xem như uống thuốc thì đó là giữ giới của Tổ sư.

Trong mười hai hạnh đầu đà có một hạnh gọi là nhất tọa nhất thực, một lần ngồi một lần ăn, đứng lên là không được ăn nữa. Vào thời Đức Phật có vị tỳ-kheo là đệ tử của tôn giả Xá-lợi-phất, ông bị nghiệp hành, chuẩn bị ăn thì đau bụng phải đi vệ sinh. Đứng lên rồi thì không được ngồi lại ăn cho nên ông phải nhịn đói.

Tôi giữ thói quen chỉ ăn một lần ngồi từ lúc tôi dạy bốn bộ luật. Ăn xong đứng lên thì không được ăn gì nữa gọi là không ăn phi thời. Phi thời nghĩa là trái giờ. Dù là buổi sáng khoảng chín, mười giờ mà miệng mình nhai thì cũng không được. Buổi sáng mình ăn nhẹ, như tôi ăn hai muỗng yến mạch, buổi trưa là chính còn buổi chiều thì từ xưa tới giờ tôi không ăn.

Trong Dịch lý học nói, buổi sáng mình ăn là cho bạn mình, buổi trưa ăn là cho chính mình, buổi chiều ăn là cho kẻ thù của mình. Nói kẻ thù là vì ăn buổi chiều dễ chứa nhóm bệnh tật, khó tiêu, nhất là những người ăn nhiều dầu mỡ.

Nhà Phật thì nói buổi sáng là chư thiên ăn, buổi trưa là chư Phật dùng, buổi chiều ăn là súc sanh, buổi tối ăn là ngạ quỷ. Buổi chiều, buổi tối trong tùng lâm không khua chén bát, vì khua động chén bát khiến loài ngạ quỷ thèm khát sự ăn uống mà cổ bị lửa đốt. Nơi nào chỉ ăn buổi sáng và buổi trưa, buổi chiều không ăn thì toàn chúng rất nhẹ. Người tu đúng chuẩn lấy thiền duyệt làm thức ăn quan trọng hơn, tức là khí, là hơi thở mà bây giờ khí, hơi thở ô nhiễm nhiều quá.

Mình ở trong môi trường tu tập có niềm vui với đạo thì mình ít để ý đến thức ăn, có cũng được không cũng được, nhưng phải tập một năm đến hai năm, khi quen rồi thì chiều không muốn ăn gì hết. Đại chúng hôm nào ăn buổi chiều nhiều thì trong nhà thiền thường gọi là thuyền bị chìm. Ví dụ mình ăn một tô cơm hay một tô bún gì đó là giống như chiếc thuyền mình chở khẳm quá qua sông chắc chắn sẽ bị chìm, tức là ngủ luôn.

Hỏi: Người Phật tử đã quy y Phật nếu gặp trường hợp nguy hiểm như gặp kẻ cướp, rắn độc tấn công thì có nên đánh trả hay không và có phạm tội sát sanh hay không?

đáp: Tất cả mọi người chúng ta có mặt trên cuộc đời này, mình dẫm chân lên con rắn, nó mổ chân mình thì mình có nhân có duyên với nó, ra đường mình gặp ăn cướp cũng là có nhân có duyên. Cái gì cũng có nhân quả hết.

Khi Đức Phật còn làm nhân địa Bồ-tát, trên một chiếc thuyền có năm tên ăn cướp, chúng rủ nhau tối nay giết năm trăm thương nhân để lấy của cải. Ngài nghĩ nếu để năm tên cướp giết năm trăm thương nhân này thì chắc chắn sẽ đọa địa ngục, chi bằng mình ra tay trước mình giết nó, không những mình cứu năm trăm thương nhân này mà mình chặt đứt con đường nó rớt xuống địa ngục. Nhưng ngài phát nguyện sau này ngài thành Phật thì ngài độ họ đầu tiên.

Khi mình ra tay sát hại tức là có nghiệp với những người đó, nhưng mình cứu những người khác cho nên cuộc sống của mình có thương có ghét lẫn lộn. Ví dụ chư tăng làm ruộng xịt thuốc, nói không tội thì cũng không đúng. Nhưng mình làm chuyện này vì lo cho đại chúng, ngay trong giờ phút đó mình phải phát nguyện: Nếu có chúng sanh nào chết dưới bàn tay của tôi, nếu có chúng sanh nào chết dưới những việc tôi làm thì việc đầu tiên sau khi thành tựu đạo quả là tôi độ các ông.

Một hôm trên đường đi trời tối, con rắn nằm ngay ngã ba đường mình tưởng sợi dây thừng mình bóc lên ném vô tường nó bể đầu chết, mình không mang tội sát, mà mình tức giận người thân hoặc người bạn của mình, mình về lấy dao đâm lên cái gối nói: “tao giết mày” là mang tội sát vì tác ý. Ông khủng bố Bin Laden chết mình mừng vỗ tay thì mang tội tùy hỉ sát, thấy người ta chết mình vui. Tại sao người cùng cực ác nhất mà Đức Phật cũng thương? Thương họ vô minh cho nên mới khủng bố, ăn cướp, giết người. Phật thương là thương chỗ họ vô minh, ngu si; còn mình là người phàm mình vỗ tay mừng theo là tùy hỉ sát. Khi mình không thích, không ưa người đó mình tìm cách nói cái gì đó cho người đó ở tù, ở trong tù người ta bị bệnh chết thì gọi là phương tiện sát. Xúi người ta giết gọi là tha sát.

Thiền sư Thông Huệ một hôm ngồi giữa pháp tòa nói: “Đợi người xưa đến rồi trả nghiệp.” Ông quan tướng quốc họ Trương đi ngang mặt hầm hầm, cầm cây đao vào định chém đầu thiền sư:

– Không hiểu sao nhìn Hòa thượng là con muốn giết.

Thiền sư nói:

– Đâu có gì lạ, ba mươi năm về trước khi tôi làm sa-di đi ngang qua hàng chợ, bỗng một con cá nhảy vào thùng nước, tiện tay tôi đánh chết, con cá đó chính là ông. Ba mươi năm tôi đợi lâu rồi.

Tướng quốc họ Trương cũng là người tu, lúc này ông nghĩ “Oan oan tương báo bao giờ mới dứt”, đang đứng ông tịch luôn. Thiền sư cũng ngồi tịch.

Oan oan tương báo nhiều đời nhiều kiếp, nhưng khi chúng ta hiểu được rồi thì chúng ta phải cân nhắc. Khi quý Phật tử thấy mình không có nghiệp với những người đó, với chúng sanh đó thì họ không làm gì được mình. Tổ Đề Bà để cho ngoại đạo đến mổ bụng, tại sao ngài để cho mổ bụng? Vì ngài biết đời trước vay mượn. Vua Kế Tân chém đầu tổ Sư Tử, các đệ tử nói:

– Thầy biết trước rồi tại sao thầy không đi?

Tổ nói:

– Đời trước tôi nợ mạng của ông này, bởi vì đời trước tôi bỏ thuốc độc cho ông uống ông chết nên đời này tôi trả cho xong.

Hỏi: Giữ năm giới, tu mười điều lành như vậy đã giải thoát chưa hay tu như thế nào mới được giải thoát?

đáp: Phật dạy giữ được năm giới thanh tịnh thì đời sau làm người tốt lành hơn. Ví dụ nếu quý Phật tử đời này bố thí cúng dường rất tốt, giữ giới không trộm cướp thì đời sau giàu có và không ai trộm cướp của mình. Giữ giới không trộm cướp mà giới uống rượu mình không giữ thì đời sau cũng được giàu có nhưng thiếu trí huệ không được thông minh, sáng dạ.

Khi chúng ta giữ tròn đủ năm giới thì đời sau chúng ta làm người lành, người tốt mà biết tu chứ chưa giải thoát. Mười điều thiện mà chúng ta giữ, miệng không có bốn lỗi: không nói lời độc ác, không nói lời thị phi, không nói lời xiểm khúc, không nói đâm thọc; giữ ba điều nơi thân: không sát sanh; không trộm cướp; không tà dâm; giữ ba điều nơi ý: bớt tham, sân, si thì sanh cõi trời dục giới hoặc là sắc giới mà phải kèm theo sự tu thiền thì sanh về cõi trời chứ chưa được giải thoát.

Mình tu tập như thế nào giống như ông Bàng Long Uẩn, giống các vị thiền sư đốn ngộ vào tự tánh, phá dẹp vô minh, chuyển tham sân si thành giới định tuệ, chuyển phiền não thành cội gốc Bồ đề thì gọi là giải thoát. Muốn được giải thoát như vậy thì phải giữ năm giới, tu mười điều lành kèm ngồi thiền với sức bổn nguyện, sức thệ nguyện thì khi chúng ta chết chắc chắn được giải thoát. Do bổn nguyện lành đó mười phương cõi nước chư Phật hiện tiền thì chúng ta đi rất dễ dàng, không bị cảnh ràng buộc. Giống như ông Bàng Long Uẩn, ông cũng giữ giới, nhưng khi ông ngộ đạo rồi ông đem của cải đổ hết xuống sông rồi vào núi tu. Chỉ có con đường buông xả mới được giải thoát.

Ông tiên Hắc Thị Tu thuyết pháp rất là hay, ông lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho Trời Đế Thích. Một hôm ông đang thuyết pháp thì Trời Đế Thích khóc. Ông tiên hỏi:

– Sao ông khóc?

Trời Đế Thích trả lời:

– Ngài thuyết pháp rất hay mà chỉ còn bảy ngày nữa ngài chết.

Ông tiên Hắc Thị Tu sợ quá hỏi:

– Có ai cứu không?

– Có, ở nước Ma Kiệt Đà, thành Tỳ Xá Ly có Đức Phật Thích-ca-mâu-ni ra đời, ngài đến hỏi đạo đi.

Hắc Thị Tu nghĩ muốn diện kiến Đức Phật phải có cái gì cúng dường. Trên đường đi, nhìn thấy hai cây ngô đồng ông bẻ rồi kẹp nách phi hành đi. Khi gặp Đức Thế Tôn, Thế Tôn bảo: “Buông!” Ông buông xuống. Thế Tôn lại bảo: “Buông!” Ông cũng buông xuống. Ngài tiếp tục nói: “Buông!” Ông tiên nói:

– Bạch Đức Thế Tôn, lần thứ nhất Thế Tôn kêu con buông, con buông cây ngô đồng thứ nhất, lần thứ hai Thế Tôn kêu buông con buông cây ngô đồng thứ hai, lần thứ ba con không còn gì để buông.

Phật nói:

– Lần thứ nhất ta kêu ông buông sáu căn, lần thứ hai là ta kêu ông buông sáu trần, lần thứ ba là ta kêu ông buông sáu thức.

Ngay tức khắc ông ngộ đạo.

Còn mình thì căn trần tiếp xúc, thức phân biệt sanh đủ thứ chuyện. Ví dụ nhìn cái ly, là căn tiếp xúc trần, mình đừng phân biệt. Nhưng mình nghĩ không biết Thầy uống nước gì, sâm hay nước lạnh… đó là thức chen vô nên không được giải thoát. Nhìn cái ly chỉ biết là cái ly, nhìn hoa hồng chỉ biết là hoa hồng, căn trần tiếp xúc đừng cho dấy niệm thì tức khắc giải thoát.

Tổ Mã Minh nói “Sở dĩ chúng sanh tu khó là do huân tập vô minh”. Huân tập vô minh nhiều đời trái với tánh giác cho nên rất khó. Khi chúng ta hiểu rồi thì ráng chăn trâu, có một lúc nào đó mình sẽ ngộ.

Thiền sư Đại An ở núi Quy Sơn tuyên bố: “Đại An này ở núi Quy không ăn cơm núi Quy, không tu thiền núi Quy, không uống nước núi Quy mà chỉ coi chừng con trâu. Ngày xưa con trâu màu đen mà bây giờ nó trở thành màu trắng sờ sờ trước mặt đuổi mãi không đi.” Đó gọi là ngộ đạo, mà phải tới ba mươi năm hoặc bốn mươi năm.

Thiền sư Nhan tu không ngồi thiền như mình, ngài ngồi trên mõm đá gọi:

– Ông chủ!

– Dạ!

– Đừng để ai lừa nha.

Quốc sư Huệ Trung tu trên núi bốn mươi hai năm, thừa tướng Lư Cung Phụng đến hỏi:

– Hòa thượng ở bốn mươi hai năm trên núi làm gì?

Ngài gọi đứa nhỏ lại xoa đầu:

– Tỉnh tỉnh hẳn vậy tỉnh tỉnh, rõ ràng hẳn vậy rõ ràng. Đừng để người khác lừa nha.

Hỏi: Cư sĩ chúng con tu và biết rõ đường lối tu. Vậy có thể ngồi giảng pháp cho huynh đệ được không?

đáp: Nói về giới luật của nhà Phật, khi đại chúng thọ năm giới, tám giới, mười giới hay hai trăm năm mươi giới thì mình có thể đứng trước Phật mình thọ, với điều kiện là trong mười cây số không có chùa chiền, không có quý thầy thì giới đó mới thành tựu. Nếu gần đó có chùa, thiền viện hay tịnh xá mình không chịu đến thọ mà mình thọ trước bàn Phật một mình thì giới không đắc. Trong luật khai ra, với điều kiện vào thời chiến tranh loạn lạc, chùa chiền bị đổ nát, cách mình mười hoặc hai mươi cây số không có vị thầy nào.

Cũng vậy, ngày xưa bên Canada, có anh huynh trưởng rất giỏi. Khi Hòa thượng chưa đưa chúng tôi qua anh có thể giảng pháp, với điều kiện anh ngồi, đại chúng vây xung quanh. Anh nêu ra một câu hỏi trong kinh rồi đại chúng hỏi đáp qua lại thôi chứ không phải là giảng.

Hiện đời cư sĩ giảng pháp cũng có, chẳng hạn bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám ngài cũng giảng cho các các vị Hòa thượng. Trước khi giảng cho chư tăng học, ngài mặc áo tràng đảnh lễ hết các vị Thầy rồi ngài mới lên giảng mà ngài giảng rất là khiêm tốn.

Cư sĩ giảng cũng được chớ không phải không nhưng là vào thời đó các vị cao tăng thạc đức rất là hiếm. Bây giờ Hòa thượng vẫn còn, quý thầy lớn các nơi vẫn còn, thì thôi mình có nói chuyện thì mình ngồi lại xung quanh, không cần lên pháp tòa, bởi vì pháp tòa đại diện cho một tăng đoàn, đại diện cho Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Mình là cư sĩ nên khiêm tốn, dù gì giới đức của mình cũng còn nhỏ. Có những người bắt buộc thiền sinh đảnh lễ thì hơi quá, làm như thế bị tổn giảm âm đức.

Tôi đi giảng bất cứ nơi nào người ta đảnh lễ tôi không cho. Khi nào họ tha thiết thỉnh khay lễ thì mình đi theo vậy thôi chớ cũng không cho đảnh lễ. Cho nên mình phải khéo giữ, người cư sĩ phải ráng giữ để kiệm giới đức. Lên ngồi trên pháp tòa mà mình chưa xong việc thì cái ngã của mình tăng trưởng.

Phần 3: Giáo lý và Tu tập

Hỏi: Xin Thầy giảng cho con được hiểu rõ hơn về còn sót chút ít nguyện lực Bồ-đề tâm ở đời này.

đáp: Sở dĩ ngày hôm nay quý Phật tử đến chỗ này là do còn sót một chút duyên, nếu mình quên không phát nguyện lực Bồ-đề tâm thì mình mãi chìm đắm trong biển khổ giống như những người khác. Tôi nói thiếu chút nữa có nghĩa là giờ đó nếu mình không phát nguyện lực Bồ-đề tâm thì giờ này không bao giờ mình biết đến Phật pháp, cho nên nói còn sót chút ít may mắn. Nếu tròn đủ thì giờ này mình thành Phật, Bồ-tát chứ không lặn hụp trong biển khổ nữa. Nhưng may mắn mình có mặt trong cuộc đời này, mình vẫn còn bơi lội trong biển Pháp tức là nắm được cái phao, con thuyền để dừng lại, để tu tập chuyển hóa. Cho nên mình ráng cố gắng củng cố, đừng bỏ mất cơ hội được làm người, được sanh nơi có đầy đủ mọi thứ.

Hỏi: Khi vào trong Thiền viện, tránh hết các duyên thế tục thì tự nhiên tu tập an ổn, tâm không lăng xăng, giống như trạng thái ngộ đạo vậy. Xin Thầy giải thích cho con là tại sao?

đáp: Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” nghĩa là chế tâm một chỗ thì việc nào cũng thành. Trong kinh A Hàm, Đức Phật dạy: Một là thiện, hai là ác, ba là trung tính. Trung tính là không phải thiện cũng không phải ác nhưng gặp duyên thì nó phát tác chứ chưa phải cảnh giới mà Phật ngộ đạo. Mình không có phiền não là do chưa gặp duyên, chưa gặp chuyện. Khi gặp duyên thì nó bùng phát, có nghĩa là nó ngủ ngầm. Ba tâm đó Đức Phật nói phải loại trừ.

Cho nên Lục Tổ dạy “không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lại diện mục của Thượng tọa Minh” tức là không trụ trên một pháp nào mà đều sáng suốt rõ ràng thì đó mới được giải thoát. Lục Tổ dạy:

Ngơ ngơ chẳng tu thiện,
Ngáo ngáo chẳng làm ác,
Lặng lẽ dứt thấy nghe,
Thênh thang tâm không dính.

Nghĩa là việc thiện thì mình làm nhưng mà ngơ ngơ chẳng dính mắc, cho nên mình phải rà soát lại thật kỹ về chỗ tu tập để thẳng tiến vào con đường công phu.

Hỏi: Tự tánh mình đã thanh tịnh tại sao mình còn đi trong luân hồi?

đáp: Mình phải hiểu đã là bổn lai vô nhất vật mà khi mình mất rồi thì đâu phải dễ như là ăn cơm ăn ớt. Mình đã có “xưa nay không một vật” mà quên, không phải chỉ quên một đời mà vô lượng kiếp đã quên, gọi là mất gốc. Trong kinh Lăng Nghiêm, chúng sanh gọi là bối giác hiệp trần, chư Phật và thánh chúng là bối trần hiệp giácBối giác hiệp trần là bỏ cái giác mà hiệp với trần cảnh, nó khằn dính.

Trong Thiền Tông Cuối Thế Kỷ Hai Mươi, Hòa thượng kể:

Có một người mặt mày đang sáng sủa đẹp đẽ, một hôm không biết nghĩ gì mà vào trong chợ mua sơn về quệt lên mặt, mỗi ngày quệt một chút. Quệt một thời gian khuôn mặt nhìn giống như La sát, đủ thứ màu trắng, vàng, đen, đỏ. Một hôm có người nói sao anh vô minh quá, ngày xưa khuôn mặt anh sáng sủa đẹp đẽ mà bây giờ anh tô lên đủ thứ màu. Người này hối hận đi rửa mặt. Đại chúng thấy khuôn mặt mình trét đủ thứ màu rửa chừng nào mới hết?

Khi mình sống thể nhập, chứng nghiệm vào bản thể thanh tịnh thì chết không bị dính mắc vào nghiệp lực. Còn mình chưa sống, chưa chứng nghiệm thì khi chết vẫn bị nghiệp lực lôi. Mình xuống địa ngục Phật tánh cũng đi xuống mà Phật tánh không chịu khổ. Chỉ cần ngay trong giờ phút mình bị khổ mình biết ai chịu khổ, trở về cái biết đó thì giải thoát. Nhưng mà trở về không được vì bị nghiệp lực chèn nó ép.

Khi chết mà muốn được sống với bản thể, theo thiền sư Lâm Tế thì một vị thiền sư khi bỏ thân xác được chín mươi phần trăm năng lực thể nhập Phật tánh. Bên Tây Tạng họ phân tích một người có tu tập thì năng lượng của bản thể ba ngày ba đêm, người tu sơ sơ thì một ngày một đêm, còn chúng sanh thì có một tích tắc thôi, một phút giây ngắn ngủi. Ngay trong giờ phút đó mình không nắm thời cơ thì nó sẽ tuột mất rồi qua thân trung ấm trải dài bốn mươi chín ngày, từng bước từng bước khai thị nhắc nhở để họ nhớ sống, tu lại.

Hỏi: Khi mình đi trong sanh tử luân hồi thì có phải mạt-na thức đi theo?

đáp: Nói chung, khi chúng ta từ bỏ thân xác này rồi thì không còn gọi là thức thứ mấy nữa mà gọi là thần thức. Thần thức đi ra, tùy nghiệp mà thọ lãnh quả báo trong lúc sống tạo tác. Tạo tác thành thói quen, chẳng hạn đi ngang quán rượu thì thèm rượu, đi ngang quán thuốc thì thèm thuốc. Ý thức làm chủ lực để dẫn dắt qua ba đường sáu nẻo. Giống như Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký, ông lên xuống thiên đường, địa ngục …. nơi nào cũng có mặt trong tích tắc. Nhưng chỉ cần trở về gặp Tam Tạng Pháp sư chỉ cho Kinh Luật Luận, chỉ cho Giới Định Tuệ chuyển hóa thì tức khắc dừng được tâm dong ruổi và chứng thành Phật quả, gọi là Đấu Chiến Thắng Phật.

Hỏi: Do một niệm bất giác mà chúng ta đi trong sanh tử luân hồi?

đáp: Trong kinh Hoa Nghiêm: Khi Đức Phật thành đạo, Ngài nói:

“Chúng sanh đều có thắng trí giống như ta không khác. Ta có thiền định, thắng trí như thế nào, ta có gì thì chúng sanh đều có đầy đủ. Do một niệm bất giác vô minh chạy theo vọng tưởng cho nên chìm trong biển khổ sanh tử.”

Đức Phật không có nói “trước niệm”. Nhà Phật luôn luôn muốn chúng ta an trú trong giờ phút thực tại chứ không có nói trước niệm, gọi là vô thủy vô chung. Mà ngay trong giờ phút này mình tu cái gì để giải quyết vấn đề sanh tử, chứ các ngài không phân tích, không cho mình tìm tòi đằng trước là cái gì, không cho mình ngồi đây mà suy nghĩ trước niệm là cái gì. Bởi vì ngay trong giây phút này mình là chúng sanh. Chừng nào mình thành Phật hoặc chứng quả rồi thì tự nhiên mình biết hết. Không cho nói để mình khỏi vọng tưởng viển vông rồi tu không được.

Cho nên đến với các thiền sư các ngài không nói dài dòng, cũng không trả lời câu hỏi “trước niệm tôi là cái gì” hoặc “tôi không dấy niệm là gì”, đó cũng chỉ là vọng tưởng. Mà các ngài đập hoặc hét để cho mình trở về với giây phút thực tại. Ngay trong giờ phút ngồi thiền này mình giải quyết vấn đề sanh tử: đừng dấy niệm, đừng vọng tưởng, đừng chạy theo những niệm lăng xăng, đừng khởi tham sân si, đừng phiền não.

Đến mức độ hỏi cái vi diệu trong Phật pháp mà còn bị đánh. Hỏi thế nào là đại ý Phật pháp bị ăn ba gậy, ba lần đến hỏi đều bị đánh ba gậy. Ngài Vân Môn gặp ngài Trần Tôn Túc vừa hỏi diệu lý của đạo bị đạp ra cửa, hỏi đến lần thứ ba ngài bị cửa dập gãy chân. Được đạo gãy cái chân! Nói về diệu lý của đạo mà còn bị vậy huống chi là nói chuyện vẩn vơ.

Hỏi: Xin thầy giải thích về Bất muội nhân quả?

đáp: Trong Thiền Sư Trung Hoa Tập 1 có kể: Ngài Bá Trượng là đệ tử của ngài Mã Tổ, mỗi lần giảng kinh thường có một cụ già theo chúng nghe pháp. Một hôm, sau thời giảng, đại chúng hồi hướng rồi ra về nhưng cụ già còn ở lại. Ngài Bá Trượng hỏi:

– Ai cũng về hết sao ông không về?

Cụ già đáp:

– Hồi xưa con trụ ở núi này, có người đến hỏi con, bậc đại tu hành còn rớt trong nhân quả hay không. Con nói không có nhân quả, không còn rớt nữa. Do chuyển ngữ một lời nói sai cho nên con rớt trong năm trăm kiếp chồn. Nhờ ơn Hòa thượng chỉ dạy cho con.

Thiền sư Bá Trượng nói:

– Bây giờ ông hỏi đi.

Ông già hỏi:

– Bậc đại tu hành có còn rớt trong nhân quả không?

Tổ Bá Trượng nói:

– Bất muội nhân quả.

Muội tức là mê lầm. Bất muội nhân quả có nghĩa là không lầm nhân quả. Bậc đại tu hành là những người kiến tánh, ngộ đạo, những người triệt ngộ.

Đời trước mình gieo nhân thì đời nay quả chín muồi. Tổ Huệ Khả khi đến chùa Khuôn Cứu, Ngài giảng kinh Niết Bàn trước cổng tam quan. Vị pháp sư Biện Hòa giảng kinh Niết Bàn trong chùa, vì chưa chứng đạo còn tâm hơn thua, không chịu được nên báo quan bắt Tổ Huệ Khả bỏ vào tù.

Tổ Sư Tử bị vua Kế Tân chặt đầu. Ngài biết đời trước ngài và vua Kế Tân là hai cư sĩ rất thân với nhau. Khi luận bàn về Phật pháp, ngài thua nên ngài bỏ thuốc độc cho bạn chết. Đời sau bạn ngài làm vua Kế Tân, còn ngài làm Tổ Sư Tử, vì nợ trước nên ngài phải trả. Trả nhưng các ngài không lầm cho nên không buồn khổ.

Chẳng hạn như hôm nào đó có người đòi nợ mình trăm triệu, mình quên nên không trả. Nhưng khi ngồi lắng tâm mình nhớ lại ngày mấy tháng mấy mình đến nhà người ta mượn thì mình vui vẻ trả. Những việc khổ, vui trong cuộc đời này đều do mình tạo tác mà bây giờ mình quên. Nhưng nhờ tu học Phật pháp, mình bị người ta chửi mắng mình biết đời trước đã gieo nên bây giờ phải gặt, mình không lầm, không buồn khổ thì tức khắc mình vượt qua nhân quả.

Ngài Hạo Nguyệt hỏi ngài Trường Sa:

– Tổ Huyền Giác nói “liễu tức nghiệp chướng bổn lai không, vị liễu ưng tu hoàn túc trái”. Chưa liễu thì chắc chắn đền nợ trước. Vậy Tổ Sư Tử, Tổ Huệ khả đã liễu đạo rồi tại sao đền nợ trước?

Ngài Trường Sa nói:

– Đại đức không biết bổn lai.

Hạo Nguyệt hỏi:

– Thế nào là bổn lai?

Ngài nói: – Nghiệp chướng.

Đại đức hỏi:

– Thế nào là nghiệp chướng?

Ngài nói: – Xưa nay không.

Có nghĩa là khi nghiệp chướng đến các ngài thấy rỗng không, không có mê mờ.

Có một ông tăng đến hỏi Sơ Tổ Trúc Lâm “Bậc đại tu hành còn rớt trong nhân quả không?” Thiền sư Việt Nam khác các thiền sư Trung Quốc, ngài nói bài thơ:

Khẩu tợ huyết bồn ha Phật Tổ,
Nha như kiếm thọ chủy thiền lâm.
Nhất triêu tử nhập A-tỳ ngục,
Tiếu sát Nam-mô Quán Thế Âm.

Nghĩa là:

Miệng dường chậu máu chê Phật Tổ,
Răng như kiếm bén gặm rừng thiền.
Một mai chết đọa A-tỳ ngục,
Cười ngất Nam mô Quán Thế Âm.

Khổ đến mà cười, còn mình khổ đến thì khóc. Đức Phật sai tôn giả Mục-kiền-liên, tôn giả A-nan xuống thăm Đề-bà-đạt-đa khi đọa địa ngục:

– Sư huynh rớt địa ngục có khổ không?

Ngài trả lời:

– Sư huynh ở cõi này như ở cõi trời ba mươi ba.

Mình rớt địa ngục thì khóc la còn các ngài ở địa ngục giống như không có gì. Khi việc khổ đến mình đừng lầm, đừng mê muội thì tức khắc mình chuyển. Tinh thần nhân quả nhà Phật không mê mờ một chỗ nào mà rõ suốt hết. Hiểu được như thế thì cuộc đời không khổ.

Hỏi: Đức Phật là người đã đạt tới Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và đã vượt qua sanh tử, vậy thì tại sao ngài không trụ được ở cõi trần gian này mà Ngài phải nhập diệt?

đáp: Vừa rồi chúng tôi về Thường Chiếu họp, sư phụ tôi nói: “Giờ tôi dạy mà cũng có mấy ông thầy trốn học.” Trong khi giờ học của Thầy tôi ở Chánh Thiện không thiếu người nào, mặc dù chỉ học bằng hình ảnh, học bằng cái bóng. Bởi vì xa Thầy mình mới khao khát pháp của Thầy. Còn có Thầy kế bên mình nghĩ Thầy còn sống mà lo gì.

Đức Phật cũng vậy, Phật biết dù có sống ngàn năm tuổi thì chúng sanh cũng như thế nên Ngài nhập Niết-bàn. Ba lần Phật nói với tôn giả A-nan, người nào tu đến tứ thần túc thì có thể kéo dài mạng sống vô lượng. Lúc đó tôn giả A-nan, vì bị Ma Ba Tuần che cái tâm, chỉ khóc mà không cầu thỉnh Đức Thế Tôn trụ thế. Nếu Đức Thế Tôn trụ thế thì đời này chưa chắc gì có những bậc thánh ra đời, mà lại trái với qui luật, bốn tướng mà Đức Phật chỉ dạy: sanh, già, bệnh, chết.

Vì vậy Đức Phật mới thuận theo thế gian: Thế giới tất đàn, đối trị tất đàn, các các vị nhân tất đàn và đệ nhất nghĩa đế tất đàn. Thế giới tất đàn là chúng sanh như thế nào thì Phật tùy thuận chúng sanh thế đó. Chúng sanh sinh ra rồi chết thì Thế Tôn cũng phải tùy thuận. Dù Thế Tôn tùy thuận thế gian nhưng vẫn lấy đệ nhất nghĩa đế làm căn bản.

Nói về bậc hạ thì thấy Đức Phật có sanh ra đời, lớn lên xuất gia thành đạo và nhập niết-bàn. Bậc trung thì thấy Đức Thế Tôn thị hiện trong cuộc đời này, sanh ra, lớn lên ngài tu. Bậc thượng thì thấy Đức Thế Tôn chưa từng sanh ra cũng chưa từng mất đi, tất cả muôn pháp đều có Phật. Một niệm ác khởi lên là Phật nhập niết-bàn, khởi niệm thiện giúp đỡ người khác là Phật đản sanh.

Với cặp mắt của bậc giác ngộ thì họ thấy Phật chưa từng sanh ra đời mà cũng chưa từng nhập diệt. Người như mình thì thấy Phật tùy thuận thế gian, bây giờ nói mãi họ cũng không tu. Kinh Pháp Hoa nói, có ông thầy thuốc con bị bệnh mà ông đưa thuốc không chịu uống. Một hôm ông bỏ đi biệt tích, người con mới lấy thuốc ra uống. Phật nói khi chúng sanh thấy Phật nhập niết-bàn thì mới bắt đầu lục lọi kinh điển ra đọc tụng rồi tu.

Đức Phật ra đời trong cõi ta-bà này, Ngài đều thị hiện, nhắc nhở, đánh thức không chỉ vào thời của Ngài mà ngay cả thời này. Đức Phật là một vị hoàng thái tử mà tại sao không sinh trong cung vua mà thị hiện ra đời tại cây vô ưu, thành đạo ở cây bồ đề, nhập niết bàn ở cây sa-la? Đức Phật ra đời đều thị hiện để mình thấy mình tu và làm. Những việc Ngài làm đều là những việc phải làm.

Hỏi: Hình tượng Tổ Bồ-đề Đạt Ma quảy một chiếc dép bên vai phải có ý nghĩa gì?

đáp: Hồi xưa khi làm ở nhà khách Trúc Lâm, tôi thấy hai ông Phật tử đứng trước tượng Tổ Đạt-ma tranh cãi về việc tại sao Ngài chỉ quảy một chiếc giày. Một ông nói do Tổ đi qua một bến đò ở Giang Tây bị cướp chặn đường, Ngài có võ nên đá bay mất một chiếc còn lại một chiếc. Ông kia không chịu nên hai người cãi nhau.

Trong sử kể, Bồ Đề Lưu Chi cho Ngài uống thuốc độc năm lần mà Ngài không uống. Đến lần thứ sáu, lúc đó Ngài đã có truyền nhân là Tổ Huệ Khả nên ngài uống rồi hiện thân thị tịch. Tống Vân đi sứ về thấy ngài quảy một chiếc giày đi về Tây nên về báo cho nhà vua là Hiếu Trang Đế vừa lên ngôi. Vua nghe báo tin rất ngạc nhiên, ra lệnh đào mộ để kiểm chứng. Khi quan tài được mở ra, trong quan tài chỉ có một chiếc giày. Vua ra lệnh đem chiếc giày về chùa Thiếu Lâm để thờ.

Nhưng tinh thần của nhà thiền là gì? Tại sao không quảy hai chiếc mà quảy một chiếc? Đó là tinh thần Trung đạo đế, Đệ nhất nghĩa đế, tức là không dính mắc vào thế giới nhị nguyên phân biệt mà thẳng một đường. Không dính mắc phải quấy, hơn thua, thương ghét, chủ khách…, còn dính tức là còn kẹt. Tại sao không quảy chiếc giày bên trái mà quảy chiếc giày bên phải? Phải là nghịch chiều sanh tử mà thuận chiều niết-bàn. Đó là tinh thần biểu hiện một chiếc giày của Tổ Bồ-đề-đạt-ma.

Hỏi: Chữ “Đạt-ma” có nghĩa gì?

đáp: Phật là Buddha, Pháp là Dharma, Tăng là Sangha. Đạt-ma tức là pháp. Ngày xưa Tổ Bồ-đề-đạt-ma là thái tử Bồ-đề-đa-la. Vua Hương Chí cúng dường Tổ Bát-nhã-đa-la một hạt châu, Tổ gọi ba vị hoàng tử con vua Hương Chí ra để biện về hạt châu. Bồ-đề-đa-la nói “Trong các thứ bảo chỉ có pháp bảo là tột, trong các thứ tâm chỉ có tâm chân thật là tột”. Tổ Bát-nhã-đa-la biết người này sau sẽ trở thành bậc pháp khí cho nên đổi tên Bồ-đề-đa-la thành Bồ-đề-đạt-ma tức là đạt được pháp. Thầy chúng tôi muốn kỷ niệm tinh thần của Tổ Bồ-đề-đạt-ma nên đặt cho chúng tôi là Thích Đạt-ma …., tức là dòng họ Thích thêm tên dòng họ Tổ vào nữa.

Hỏi: Sau khi ngồi thiền hoặc nghe pháp thường đọc câu:

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.

Vậy khi đọc câu trên con muốn hướng tâm về mọi người xung quanh hoặc con thấy có người nào khổ quá con hướng tâm về họ được không?

đáp: Mình đọc như thế thì tâm mình được rộng mở. Ban đầu mình hướng người thân trước, rồi mới ra số đông. Mình sống với người thân, giành từng chút đất, giành từng chút tài sản mà đọc cái này là mình dối. Ở đây gọi là thực tập thôi chứ không hướng được. Biết bao nhiêu vị cao tăng thạc đức đều hướng, nếu hướng được thì các vị cao tăng hướng về Châu Phi cho người dân ở đó đỡ khổ. Cho nên mình phải hiểu đây là nghiệp lực của chúng sanh.

Bên Tây Tạng những vị sư có thần thông nhưng cũng bị ở khu tự trị của nước khác, giải thoát không được là do nghiệp lực của chúng sanh phải chịu những nạn này… Như vậy chúng ta nguyện đem công đức này hướng về khắp tất cả là chúng ta đang bước vào con đường thực tập để cho tâm mình cởi mở rộng thêm. Mình chú tâm nguyện đến con người đó thì bằng phương tiện thiết thực nhất là mình giúp đỡ người đó.

Khi phát nguyện tâm mình rộng mở, không còn keo kiệt nữa thì mình bắt đầu làm thiện pháp, làm những việc từ thiện thiết thực: nơi nào có động đất, sóng thần, nơi nào có khổ đau thì có mặt mình ở đó.

Có nhiều Phật tử giàu lắm nhưng không cúng dường, cũng không làm từ thiện. Tôi nói:

– Cô giàu quá, cô không cúng dường ở đây cũng được nhưng sao cô không làm từ thiện nơi này nơi kia?

Cô Phật tử nói:

– Khỏi thầy, con nghe nơi nào làm từ thiện con vui con tùy hỉ là con đồng.

Tôi hỏi:

– Cô học pháp ở đâu vậy?

Cô nói:

– Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói tùy hỉ là đồng với nhau.

Tôi nói:

– Tùy hỉ là đồng với nhau nhưng cô phải nhớ một điều, người ta nghèo cùng khốn khổ không có đồng nào thì tùy hỉ là người ta xả tâm tật đố. Còn cô giàu, cô tùy hỷ cô xả tâm tật đố thì đúng, nhưng tâm tham cô chưa xả.

Tùy hỷ đúng là nhân tốt nhưng tùy hỷ là cái bóng, thì quả sau này cũng là cái bóng. Giống như mình làm giám đốc một ngân hàng quản lý nhiều tiền nhưng xài không được. Mình tùy hỷ là bỏ tâm tật đố nhưng mình cũng phải cúng dường chút ít để xả tâm tham đắm vào của cải tài sản của mình.

Nguyện đem công đức này là mình tập hướng tâm đến. Hướng tâm nhưng mình phải có mặt trong cuộc sống của chúng sanh đang đau khổ, phải đích thân đến để xoa dịu nỗi khổ của họ, chứ không phải ngồi hướng suông. Mình học Phật pháp phải hiểu, hướng tâm đến cho người xung quanh thì phải chế tác năng lượng mình dồi dào, sung túc. Muốn được như vậy thì phải cộng trú hai phương diện vật chất và tinh thần.

Nhà họ Triệu vợ mất đến thiền sư Vô Đức, ông nói:

– Con cúng dường Hòa thượng một ngàn quan tiền, xin Hòa thượng làm bữa cơm cầu siêu cho vợ con.

Thiền sư nói:

– Ông đừng lo, trước khi cầu siêu, cầu an thì tôi luôn cầu cho vô lượng chúng sanh.

Ông nói:

– Không, Hòa thượng đừng làm vậy, Hòa thượng làm như vậy thì vợ con yếu mà cầu vô lượng chúng sanh, nó lên không nổi.

Thiền sư nói:

– Tinh thần nhà Phật là luôn luôn mong muốn chúng sanh đều hết khổ đau, đều được an lạc nên ông đừng lo.

Ông họ Triệu suy nghĩ một hồi rồi nói:

– Thôi cũng được, cầu cho vô lượng chúng sanh, cầu cho ai cũng được nhưng đừng cầu cho ông hàng xóm vì hồi xưa ổng giành đất con.

Tinh thần của nhà Phật là mình tập hướng tâm cho rộng, vô lượng vô biên. Tâm rộng vô lượng vô biên thì nó cộng trú vào con đường thiết thực.

Hỏi: Nhờ Thầy chia sẻ thêm, theo ngài Lục Tổ Huệ Năng thì bổn tánh mình vốn thanh tịnh, tức là tánh và gốc mình vốn tự thanh tịnh.

đáp: Bên kinh Dịch hay Tứ thư ngũ kinh Luận Ngữ cũng đều nói câu mà chúng ta thường nghe: “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Con người ban đầu vốn tánh là thiện mà do gặp hoàn cảnh, môi trường rồi cộng trú với đời sống xã hội thành ra con người không phải như ngày xưa nữa, giống như dòng nước trong từ thượng lưu chảy dần xuống hạ lưu thành đục.

Nhưng bên nhà Nho hoặc bên kinh Dịch họ chỉ thấy có một góc. Đành rằng gốc vốn thanh tịnh nhưng do khách trần phiền não đeo bám, đối với những người tu tập công phu sâu dày nhiều đời nhiều kiếp như ngài Lục Tổ Huệ Năng thì chỉ cần nghe một câu kinh là màn vô minh vén mở, ngài đốn ngộ trực nhập con đường thành Phật tác Tổ. Còn bổn tánh mình vẫn thanh tịnh mà mình chỉ mới lau chùi. Tinh thần đốn ngộ nhưng con đường tiệm tu thì mình mới một hai đời.

Nếu bảo không tu mà được chỗ đó thì không có, không có Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên. Không có một ông Phật nào tự nhiên từ trên trời xuống mà thành Phật. Đâu phải Thích Ca tự nhiên thành Phật Thích Ca mà Ngài tu ba A-tăng-kì-kiếp, năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh, bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội Bồ-đề, đầy đủ một trăm pháp ba la mật.

Như vậy bổn tánh mình thanh tịnh nhưng tùy theo nghiệp dụng của chúng sanh mà hiện khởi trong cuộc sống giữa đời thường này. Bổn tánh mình thanh tịnh nhưng tại sao có những người vẫn còn chấp ngã, định kiến? Nhơn chi sơ tánh bổn thiện mà tại sao có những người sanh ra đời lớn lên họ vẫn thiện nhưng có những người không được như thế? Do trong quá khứ người này không có tu tập, không có sức chuyển hóa. Phật nói ai cũng có Phật tánh nhưng khác nhau ở chỗ mỏng hay dày. Mỏng là nhiều đời nhiều kiếp mình dọn dẹp lau chùi cho nên nghe Phật pháp mình trở thành con người hiền thiện liền. Còn có những người tập khí sâu dày nghe cách mấy họ cũng không trở về tự tánh thanh tịnh được.

Như vậy tự tánh thanh tịnh ai cũng có mà do sức công phu tu tập mau hay chậm, có những đám mây chỉ cần ngọn gió thổi qua thì tan liền, nhưng có những đám mây gió thổi cách mấy cũng không bay. Như vậy tự tánh ai cũng thanh tịnh mà do sức công phu sâu hay cạn. Nếu mình tu sâu nhiều đời thì đời này chỉ cần nghe bài kinh là mình ngộ liền. Còn đời quá khứ mình chưa tu thì dù tự tánh thanh tịnh nhưng nghe mãi cũng không thấy. Lục Tổ phát hiện ra được đâu ngờ tự tánh có sẵn bên trong nhưng đối với chúng ta phải lau chùi, dọn dẹp, tu tập, chuyển hóa, quán chiếu đủ hết.

Hỏi: Trong Thiếu Thất Lục Môn Tổ Bồ-đề-đạt-ma nói mình còn cầu thì còn khổ, hết cầu mới được vui. Xin Thầy giảng cho chúng con được rõ.

đáp: Tinh thần của nhà thiền là nói về Bát-nhã. Bát-nhã là vô sở đắcvô sở cầu, nghĩa là mình làm việc gì đều từ bản thể, từ chỗ chân không. Từ chỗ bản thể chân không thì không có tác ý. Nhà thiền có chỗ đặc biệt là tu chứng tức chẳng không, mà nhiễm ô không thể được.

Khi Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đến gặp Lục Tổ Huệ Năng, Lục Tổ hỏi:

– Ở đâu đến?

Sư thưa:

– Ở Tung Sơn đến.

Tổ hỏi:

– Vật gì đến?

Sư thưa:

– Nói một vật tức không trúng.

Tổ hỏi:

– Lại có thể tu chứng chăng?

Sư đáp:

– Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.

Mình làm việc gì đó không mong cầu, không tác ý nhưng nói không không được mà nói có cũng không được. Bởi vì các pháp hữu vi thì có tướng, có tướng thì có phước, có tội đủ hết. Mình làm từ bản thể, từ vô tác diệu lực gọi là không mong cầu.

Khi mình làm một việc phước thiện, mong cầu được việc này việc nọ, nhưng quả thiện đời này chưa chín mà quả khổ đến trước do nhân ngày xưa mình đã gieo. Mình chưa hiểu hết nhưng do mong cầu không được xứng ý nên đau khổ. Còn mình làm việc không mong cầu, chuyện gì đến mình hóa giải thì không khổ, có cầu là có khổ.

Đa phần làm gì mình cũng mong cầu, mà mong cầu quá sức. Việc thiện mình làm đời trước không bao nhiêu đời này cũng không bao nhiêu mà mình xin thần thánh đủ hết. Cầu không được thì khổ, cầu được thì vui. Suốt cả kiếp người luôn luôn chạy theo cái vui cái buồn nên đánh mất đi bản thể thanh tịnh.

Cho nên đến chỗ rốt ráo gọi là vô sở đắc, không có gì mà chứng mà đắc, không có gì được hết. Từ chư Phật đến chư Tổ đều nhắn nhủ mình làm trong cảnh giới Ba-la- mật, từ trong bản thể chân không tức là thấy làm mà không tác ý. Làm mà tác ý thì khổ sẽ đến.

Hỏi: Phiền não và sân hận sẽ tạo nên nghiệp chướng, làm cho ta chướng đạo và rớt xuống những đường khổ thì làm sao để trừ?

đáp: Trong nhà Phật có những pháp đối trị gọi là ngũ đình tâm quán. Mình hay sân hận phiền não thì quán khởi lòng từ. Mỗi khi ngồi thiền mình bỏ ra năm phút để quán chiếu cha, mẹ, chồng, con mình thương nhất. Đối với người mình hận nhất trong cuộc đời, mình quán họ giống như là cha, mẹ, là chồng con mình thì từ đó bớt sân hận, bớt phiền não. Thương được người mình thù nhất giống như thương cha, thương mẹ, thương người thân tức là mình thành tựu. Quán chiếu như thế thì mình có được tâm từ vô lượng.

Tại sao mình hay sân hận phiền não? Do chấp ngã lớn quá. Chấp ngã lớn chừng nào thì cái ngã lớn chừng đó. Cái ngã lớn thì sân hận, phiền não, bực tức nhiều. Cộng thêm đời trước ít tu tập mà gieo những chủng tử xấu, cho nên bây giờ gặp chuyện hay bực tức, sân hận, là do tập khí nhiều đời nhiều kiếp.

Đức Phật nói, người vừa đẹp vừa giàu là do đời trước họ tu hạnh nhẫn nhục, bố thí cúng dường. Đời này có những chúng sanh nào vừa xấu lại vừa nghèo là do đời trước hay sân hận bực tức mà không biết bố thí cúng dường. Mình quán chiếu thì từ từ sẽ hết. Tiếp đó mình quán sân hận như lửa dữ, như rắn độc hại mình hại người không những đời này mà tiếp tục đời sau. Quán chiếu thật kỹ thì từ từ mình bớt.

Có một vị Phạm Chí đến hỏi Phật:

– Giết gì được an ổn, giết gì được giàu có, giết gì được hạnh phúc, giết gì được an lạc?

Phật nói:

– Giết sân được an ổn, giết sân được hạnh phúc, giết sân được giàu có, giết sân được an lạc.

Mình muốn hạnh phúc, an lạc, giàu có đầy đủ hết thì mình phải bớt sân hận. Tại sao mình phiền não? Do mình thấy không ai qua mình rồi bây giờ người ta chạm vào tự ái của mình nên mình sanh phiền não, bực tức. Muốn bớt sân hận không phải một sớm một chiều mà mình phải tu hạnh nhẫn nhục. Có những câu mình nên treo trong nhà, mình đọc tới đọc lui từ từ sẽ thấm, sẽ bớt sân hận và bực tức mọi người. Chẳng hạn câu:

Có khi nhẫn để yêu thương,
Có khi nhẫn để tránh tàn sát nhau.

Hỏi: Tại sao một vị cư sĩ khi chứng quả A-la-hán trong vòng bảy ngày thì phải: một là xuất gia, hai là xả bỏ báo thân.

đáp: Thường thường vào thời Đức Phật các cư sĩ chứng quả thứ ba như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, còn chứng quả vị A-la-hán thì rất hiếm.

Ông Cấp Cô Độc chứng quả vị đầu tiên bước vào dòng thánh là Tu-đà-hoàn. Ông đến thăm người con gái bệnh nặng sắp mất, cô nói:

– Em ở lại ráng tu học và phụng sự Đức Phật, phụng sự Tăng đoàn, chị ra đi. Chị thấy sống trong cuộc đời này đủ rồi.

Ông đến gặp Phật buồn bã nói:

– Bạch Đức Thế Tôn, con gái con xưa giờ rất tốt, chưa có người nào có hiếu bằng nó. Vậy mà sắp mất nó dám xưng chị với con và gọi con là em.

Đức Phật nói:

– Con gái ông nói đúng bởi vì nói về chỗ xuất thế gian. Ông là cha nhưng ông mới chứng quả thứ nhất, còn con ông đã chứng quả thứ ba tức là quả A-na-hàm.

Giống như những người lớn tuổi gặp quý Thầy xưng con, không phải con thế gian mà là chỗ xuất thế gian. Cư sĩ dù lớn tuổi cũng chỉ giữ năm giới, quý thầy nhỏ tuổi mà giữ hai trăm năm mươi giới. Cho nên thầy tỳ-kheo, kể cả sa-di nếu cha mẹ mất thì không được để tang. Trước khi đi tu đã đảnh lễ cha mẹ ba lạy rồi.

Thời Đức Phật chỉ có hai cư sĩ chứng quả vị A-la-hán. Người thứ nhất là vua Tịnh Phạn. Được Đức Phật về khai thị, vua chứng quả vị cuối cùng lúc mạng sống sắp chấm dứt.

Người thứ hai là Hoàng hậu Khema, thứ phi của vua Tần-bà-sa-la. Bà rất đẹp. Bà không thích Đức Phật, vì Đức Phật thường nói thân dù đẹp đến đâu cũng chỉ là túi da hôi thúi bởi vì có ba mươi sáu uế trược, chín lỗ bất tịnh ngày đêm tuôn chảy. Do nể đức vua nên bà đi theo vua Tần-bà-sa-la nghe pháp.

Khi Đức Phật giảng pháp, bà thấy có cô gái đứng quạt hầu, đẹp đến mức bà cảm thấy nhan sắc bà không thể nào sánh bằng. Đức Phật dùng thần thông làm cho cô gái già đi trước đôi mắt của Hoàng hậu Khema. Làn da của cô gái đẹp ấy trở nên nhăn nheo, mái tóc đổi màu bạc trắng, thân thể đầy đặn phút chốc trở thành bà lão lưng còng run rẩy, cuối cùng “cô gái” ấy quỵ xuống, nằm im một lúc rồi tắt thở.

Hoàng hậu Khema lập tức hiểu rằng không ai sau khi sanh ra mà có thể tránh khỏi già, bệnh, chết. Bà quán chiếu và đắc quả A-la-hán. Đức Phật nói với vua rằng trong bảy ngày nếu hoàng hậu không xuất gia thì sẽ nhập niết-bàn, còn nếu xuất gia thì làm lợi ích lớn cho chánh pháp. Vua Tần-bà-sa-la nghĩ nếu nhập niết-bàn thì vĩnh viễn ông không còn thấy mặt. Ông cho xuất gia với điều kiện, hàng ngày đi khất thực bà phải đi ngang thành để từ trên cao ông nhìn xuống thấy, nếu không thì ông cho nhập Niết-bàn. Đức Phật đồng ý và cho bà xuất gia. Sau này trong mười đại đệ tử ni bà trở thành tỳ-kheo ni trí tuệ đệ nhất.

Hỏi: Những bậc chứng quả vị A-la-hán khi có người phát hiện thì vị đó phải thị tịch. Chúng con chưa rõ kính xin thầy hoan hỷ giải nghi cho chúng con.

đáp: Những bậc chứng quả A-la-hán khi có người phát hiện mà tịch là khi Đức Phật không có mặt trong cuộc đời này. Còn vào thời Đức Phật có những vị tu chứng A-la-hán hiển thị thần thông thì ai cũng biết, bởi vì Đức Phật kiểm chứng, chẳng hạn như Tôn giả Mục-kiền-liên. Đức Phật có di chúc: Sau này khi Như Lai nhập Niết-bàn, những vị nào tu chứng những quả vị cao như Bồ-tát, A-la-hán, nếu có người biết thì phải nhập niết-bàn liền.

Ngài Đỗ Pháp Thuận có một ông thị giả rất gần gũi. Một hôm ông xin lên Ngũ Đài Sơn lễ ngài Văn Thù. Ngài nói:

– Ông lễ Văn Thù làm chi, ông lễ tôi là đủ rồi.

– Hòa thượng là phàm tăng lễ làm sao có phước.

Cuối cùng thị giả cũng khăn gói lên đường, đến hang Kim Cang gặp ông già cho bài kệ:

Những chàng du tử lang thang,
Đi lên núi Đài lễ ghềnh đất khô.
Di Đà ở tận nơi mô,
Văn Thù kề cận mà hồ đồ không nghe.

Thầy ông là Văn Thù, ông chạy nhanh về đi. Thị giả lật đật chạy về thấy thầy mình kiết-già thị tịch. Vì đệ tử đã biết nên phải tịch. Cho nên bây giờ ai tự xưng là Bồ-tát, A-la-hán đều là giả, không phải thật.

Hỏi: Chúng con ở đời trước đã gieo nhân gì mà đời này chúng con sinh ra đã có nhiều hạng người: thứ nhất là đủ duyên gặp pháp môn Thiền tông, thứ hai là chưa bao giờ nghe hoặc biết đến pháp môn này, thứ ba là có người phải trải qua các pháp tu khác rồi mới có duyên trở về pháp môn Thiền tông. Xin thầy định hướng cho chúng con phải lập nhân, phát nguyện và phải có cách tu như thế nào để hiện tại và khi cận tử nghiệp đến chúng con tin chắc rằng sau khi bỏ thân rồi chúng con sẽ tái sanh trở lại làm người gặp pháp môn Thiền tông để tiếp tục được tu được học cho đến ngày thành Phật.

đáp: Vào thời Đức Phật những đại đệ tử lớn của Ngài đa phần là từ ngoại đạo đến: Tôn giả Xá-lợi-phất, tôn giả Mục-kiền-liên, tôn giả Đại-ca-diếp đều là những bậc long tượng của những pháp môn khác đến. Chính những vị này sau này mới có cơ duyên khai mở cho những người ngoại đạo Phạm chí Bà-la-môn thấy được con đường sáng.

Tôn giả Xá-lợi-phất khi chứng quả vị A-la-hán rồi, Đức Phật đưa Ngài đến những vùng Phạm chí Bà-la-môn. Khi xây dựng tinh xá Trúc Lâm, Phật cũng đưa tôn giả Xá-lợi-phất tới, bởi vì vùng này Phạm chí Bà-la-môn rất nhiều.

Đức Phật cũng biết rành pháp môn ngoại đạo. Đầu tiên Đức Phật đâu phải tu thiền Phật giáo, Ngài cũng đi qua từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền rồi tứ không, diệt tận định Ngài đi qua hết.

Sư Ông Trúc Lâm ban đầu đâu phải tu pháp môn Thiền tông. Từ ông nội đến cha Ngài đều theo đạo Cao Đài. Lên chín tuổi nghe tiếng chuông Sư Ông sực tỉnh làm bài kệ. Khi xuất gia Sư Ông cũng không tu pháp môn này mà tu pháp môn Tịnh Độ, nhưng hạt giống Thiền tông trong vô lượng kiếp Ngài đã gieo rồi. Tuy nhiên các ngài phải thị hiện qua từng pháp môn.

Như vậy, chưa chắc gì mở mắt ra là mình nhảy vào pháp này, chưa chắc là duyên của mình lớn. Có những người đi lang thang từ pháp này pháp nọ, rồi qua pháp môn này thì cũng chưa chắc là người này dở. Tôi hồi xưa nếu không đi qua nhiều pháp thì khi làm ở nhà khách Trúc Lâm người ta đến hỏi chắc tôi mù tịt, bởi vì chưa từng đi qua pháp đó làm sao tôi trả lời. Chẳng hạn như người ta hỏi pháp ông Tám Lương Sĩ Hằng là gì, ngày xưa duyên mình cũng biết chút chút. Có người hỏi pháp tu xuất hồn, ngồi đây mà đi dạo tám phương bốn hướng, rồi pháp chuyển luân xa…, nếu mình không lướt qua thì mình cũng không biết, không những mình đi qua mà còn dạy cho người ta thấy con đường này bế tắc, thì bắt đầu mình mới hướng dẫn người ta từng bước.

Mình vừa ra đời gặp pháp môn Thiền tông là mình có duyên, do đời trước mình đi thẳng con đường, không có đi chỗ này chỗ nọ. Còn người nào chưa bao giờ nghe hoặc chưa bao giờ biết pháp môn thiền thì đời trước chưa từng bao giờ gieo hạt giống này. Dù cho mưa lớn cách mấy mà rớt trên xi măng thì ngàn đời cũng không mọc hạt giống nào hết. Còn mưa chánh pháp rớt xuống người nào có hạt giống về pháp môn nào thì nó mọc lên. Người thích niệm Phật, người thích trì chú, người thích tu thiền, người thích bố thí cúng dường …

Ở đây Phật tử hỏi lập nhân, phát nguyện như thế nào. Đơn giản lắm. Mình phát nguyện: Khi biết được pháp môn này rồi thì con có nguyện lực, đời này nếu con chưa sáng đạo, đời này nếu con chưa kiến tánh, đời này nếu con chưa giải thoát thì khi xả bỏ thân này, kiếp sau mở mắt ra con vẫn tiếp tục gặp pháp môn này tu đến ngày thành Phật.

Hỏi: Nghĩa của từ “phan duyên” trong nhà Phật là gì?

đáp: Từ phan duyên rất là rộng. Ví dụ tôi lấy chai dầu thơm đổ trên bàn thì con ruồi không đến đậu nhưng nếu lấy tô mắm tôm để bất cứ chỗ nào thì con ruồi bay đến. Như vậy phan duyên là cái gì xấu ác, thị phi, hơn thua là tâm mình dính mắc. Hoặc mình ngồi niệm Phật tọa thiền mà tâm thì đang phan duyên ở ngoài chợ, ở nhà hay ở bất cứ đâu chớ không phải có mặt trong giờ phút này. Khi chúng ta nhìn bình hoa mà không nhìn ngắm trong giờ phút thực tại đó mà tâm gá vào phan duyên “bình hoa này kỳ quá; hoa này là hoa giả; tại sao bình hoa này bằng gỗ mà không phải bằng sứ…” tức là trong giờ phút đó mình đánh mất thực tại mà tâm mình phan duyên tất cả nơi, tất cả chỗ. Thiền sư Lâm Tế nói giống như con dê đụng cái gì ăn cái đó, đụng lá ăn lá, đụng cỏ ăn cỏ, đụng cái gì cũng phan duyên vào hết. Tâm của mình luôn luôn gá vào cảnh và dính mắc mà không có ở trong giờ phút thực tại đó.

Mình tụng tâm kinh mở đầu là “Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã ba-la-mật-đa ngài chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách” mình đừng nghĩ Bồ-tát Quán Tự Tại là Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ-tát Quán Tự Tại có nghĩa là ngay trong giờ phút thực tại đó mình nhìn năm uẩn, chiếu kiến nó không có thật. Mà đã không có thật thì người ta chửi mắng mình cũng không có khổ cho nên vượt qua khổ nạn.

Chẳng hạn người ta chửi mình là con chó thì tại sao mình tức giận? Vì mình chiếu kiến không được, nghĩ người ta nói con chó mình thành con chó liền nên mình tức. Còn khi người ta nói mình con chó mình nói “Không, chị nói không đúng, tôi là con người chứ không phải con chó” thì mình hết giận. Mình dùng bất cứ phương pháp nào chiếu kiến để làm sao đừng phan duyên dính mắc.

Cho nên “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là chỗ đó. Tất cả các pháp mình tu như thế nào cho đời sống mình đừng khổ, đừng phiền não, đừng dính mắc mà mình chuyển, trong nhà Phật gọi là chuyển một đường gươm sống còn.

Bồ-tát chiếu kiến năm uẩn không có thực thể thì ngài qua cái khổ, còn mình chiếu kiến năm uẩn là có thật cho nên ai nói gì mình cũng buồn khổ, ai nói mình là con chó mình tin liền. Phật nói mình làm Phật mình không chịu tin mà bà Bảy bà Tám nói mình là con chó mình tin. Mình giận tức là tin lời của bà, còn nếu không tin thì bà nói gì mặc kệ. Tâm mình không phan duyên, không gá cảnh thì không khổ mà muốn được như thế thì phải thực tập.

Câu chuyện Trang Tử viết: Có ông lái đò đang chèo giữa dòng sông, thình lình một chiếc thuyền từ xa đâm vào đò ông thật mạnh. Quá tức giận, ông nhảy qua thuyền định sẽ chửi hoặc đánh người lái chiếc thuyền nọ. Nhưng khi nhảy qua thì bao nhiêu tức giận tiêu tan, vì chiếc thuyền đó không có người. Gió thổi thuyền đứt dây neo nên đụng vào đò của ông.

Hôm nào đó mình bị người ta chửi, về nhà kể cho bạn nghe, người bạn nói “bà đó bị điên” thì mình hết giận. Cho nên ai chửi mình thì chỉ cần mình quán chiếu người này bị điên thì mình qua cơn giận. Ông lái đò nhảy qua chiếc thuyền không thấy người nào tức là vô ngã. Quán chiếu được như thế thì tức khắc cảnh giới thực tại có mặt, khổ đau không còn nữa tức là tâm mình không phan duyên dính mắc.

Hỏi: Xin thầy giảng lại tam tự quy y: tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng.

đáp: Thường thường chúng ta quy y Tam bảo: quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng là quy y trên sự tướng. Khi chúng ta quy y thì vị giới sư giải thích là Đức Phật có mặt tại xứ Ấn Độ, cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Maya, mấy ngàn năm mới có một vị Phật ra đời cho nên gọi là Phật bảo. Pháp bảo là vô giá, nhờ con thuyền pháp bảo này chúng ta mới không bị khổ đau, không bị trầm luân trong sanh tử. Bây giờ Phật đã nhập niết-bàn, Pháp thì ở trong tủ, trên kệ ai mà hiểu, ai mà trùng tuyên cho nên phải nhờ Tăng gọi là Tăng bảo. Đó là Tam bảo ở thế gian.

Quy y tự tâm là tinh thần Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ.

Quy y Phật, Phật là giác.
Quy y Pháp, Pháp là chánh.
Quy y Tăng, Tăng là tịnh.
Quy y Phật tà mê cuồng vọng chẳng sanh tức là lưỡng túc tôn.
Quy y Pháp tâm tật đố, ích kỷ, xan tham cũng không sanh.
Quy y Tăng tức là trở về tâm thanh tịnh của mình.

Như vậy, Tam bảo tự tâm là phải quy chiếu về mình. Quy y Phật là trở về bản giác thanh tịnh của mình. Ích kỷ, tật đố, xan tham mình chuyển hóa không còn có mặt trong tâm mình nữa thì gọi là quy y Pháp. Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh tức là ba ngôi Tam bảo này ngay nơi tự tâm mình chớ không tìm đâu hết.

Hôm nào ra chợ thấy tiền rớt dưới đất, mình chuẩn bị lượm thì nhớ lại mình là Phật tử, của rơi không phải của mình nên giữ giới cho trong sạch, thì trong giờ phút đó chính tâm giác ngộ nhắc nhở mình đã giữ giới. Khi đó là trở về với tâm giác của mình tức là quy y Phật. Hoặc mình khởi niệm tật đố, ích kỷ, xan tham với người khác, mình nghĩ tu Phật rồi tại sao còn những tâm niệm như thế, mình chuyển tức là trở về với Pháp, gọi là tự tánh quy y mà Lục Tổ nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn.

Hỏi: Cuộc đời Đức Phật thuyết giảng bốn mươi chín năm, nhưng cuối cùng Phật nói suốt bốn mươi chín năm Ta không nói lời nào.

đáp: Trong các tôn giáo, Phật giáo có kinh điển nhiều nhất, hơn năm ngàn tám trăm bộ, cộng chung lại gồm ba tạng: Kinh, Luật và Luận. Trong suốt bốn mươi chín năm Đức Phật nói thì mười hai năm đầu nói về các bộ A Hàm: Trung A Hàm, Trường A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A HàmHai mươi năm sau Phật nói Kinh Bát Nhã. Cuối đời ngài nói về Kinh Phương Đẳng, chuyển qua hệ tư tưởng về niết-bàn, về Phật tánh, về tri kiến Phật. Trong Kinh Lăng Già Đức Phật nói suốt bốn mươi chín năm Như Lai chưa từng nói lời nào, đó gọi là vô tự chân kinh, kinh đó không có chữ gọi là tâm kinh. Thiền sư Bạch Ẩn có bài kệ:

Trong động Tất-bát-la,
Chưa có bài kinh này.
Đồng Thọ không lời dịch,
A-nan chưa từng nghe.
Gió Bắc qua song cửa,
Nhạn Nam tuyết rơi đầy.
Ngàn Phật và Thánh chúng,
Không nói nên một lời.

Bài kinh này là bài kinh gì mà A-nan chưa từng nghe, Đồng Thọ là ngài Cưu-ma-la-thập không có lời dịch kinh này? Tôi giảng thiền một chút, vì ở đây qua tinh thần của nhà thiền.

Một hôm tướng quốc Bùi Hưu đến một ngôi chùa, thấy hình một vị Hòa thượng treo trên vách ông hỏi:

– Hình này là hình cao tăng mà cao tăng ở đâu?

Thầy trụ trì không đáp được.

Tướng quốc hỏi:

– Chỗ này có thiền sư không?

Thầy trụ trì bảo:

– Có, hồi nãy tôi thấy một người giống thiền sư lắm.

Lúc đó ngài Hoàng Bá đi ra. Bùi Hưu nói:

– Hồi nãy tôi có một câu mà tiên đức tiếc lời không nói.

Thiền sư Hoàng Bá:

– Thỉnh ngài nói.

Bùi Hưu:

– Hình cao tăng ở đây mà cao tăng ở đâu?

Thiền sư Hoàng Bá kêu:

– Bùi Hưu!

Bùi Hưu:

– Dạ!

Thiền sư Hoàng Bá:

– Ở đâu?

Bùi Hưu nhận ra được. Đó là kinh không lời.

Một hôm có bà già đến gặp thiền sư Nột, bà nói:

– Thưa Hòa thượng, con nuôi một con trâu mà bây giờ bị mất, thỉnh hòa thượng bói giùm con một quẻ xem thử trâu mất ở đâu.

Thiền sư gọi:

– Bà già!

– Dạ!

Thiền sư:

– Trâu không có mất, còn sờ sờ mà bà nói mất. Về!

Như vậy hồi nãy giờ tôi nói quý Phật tử nghe không? Cái tánh nghe và cái bị nghe hoặc nói khác hơn là lời của tôi nói ra thì quý Phật tử thấy có hình tướng không? Như vậy cái nghe và cái bị nghe ngay trong giờ phút thực tại có mặt thì đó là một bài kinh vô tự. Ví dụ cái chai này cân nặng một ký, cái bình hai ký… cái gì có hình tướng tức là cân, đong, đo, đếm được nhưng có một cái quý Phật tử không cân được. Bây giờ tôi gọi:

– Phật tử!

– Dạ!

Cân được không? Đó là vô tự.

Không có tướng mà biểu hiện ra tất cả tướng để đưa chúng sanh vào con đường niết-bàn, cho nên bốn mươi chín năm giả lập văn tự giống như ngón tay chỉ mặt trăng, mà cái gì nhận ra được mặt trăng đó? Bản hoài của chư Phật. Cho nên Đức Phật tuyên bố bốn mươi chín năm nói pháp mà chưa từng mở một lời, chỗ đó nói không được, chạm không đến mà hiện ra tất cả, dung nhiếp tất cả vạn pháp.

Càn khôn tận thị mao đầu thượng,
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.

Càn khôn tận thị mao đầu thượng là đầu sợi lông trùm cả trời đất, nhật nguyệt bao hàm giới tử trung là mặt trời, mặt trăng ở trong hạt cải.

Một hôm Đức Phật vào rừng hái một nắm lá, Ngài nói:

– Này các thầy tỳ-kheo! Nắm lá trong tay ta nhiều hay là nắm lá trong rừng nhiều?

Các thầy tỳ-kheo nói:

– Bạch Đức Thế Tôn, lá trong rừng nhiều hơn lá trong tay Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn nói:

– Này các thầy tỳ-kheo! Những gì ta nói ra các ông hiểu biết ghi nhận để tu tập giống như lá trong tay, mà những gì Như Lai hiểu và chứng nghiệm được thì giống như lá trong rừng.

Ba tạng kinh điển giống như lá ở trong bàn tay Đức Thế Tôn, mà những gì chúng ta chứng nghiệm được, thân chứng được là lá trong rừng. Như vậy chúng ta học hỏi tất cả kinh điển Phật chỉ là việc nhỏ, mà việc chính yếu của mình là nhận ra, chứng nghiệm và sống được để chúng ta giải thoát tất cả những khổ nạn trong cuộc đời. Đó là vô tự chân kinh.

Hỏi: Tại sao gọi vua Ba Tư Nặc là nghèo nhất?

đáp: Phật nói sở dĩ vua Ba Tư Nặc là người nghèo nhất vì ông không biết được chân lý Phật Đà, không biết được giáo lý của Đức Phật. Nghèo ở đây không phải là nghèo về vật chất mà nghèo về tâm linh, nghèo về tinh thần. Thiền sư Bạch Ẩn nói:

– Nếu bạn làm chủ được tâm bạn thì dầu cho bạn là người lái đò, người tiều phu, người đánh cá nhưng ta nói bạn là người giàu có nhất. Còn nếu bạn không làm chủ được tâm bạn thì dầu cho bạn là vua, là quan, là tướng quốc thì ta cũng nói bạn là người nghèo khổ nhất.

Quý Phật tử nghe một thời pháp, tâm quý vị an thì tiền của mua không được. Nhờ pháp âm của Đức Phật tâm mình an thì bao nhiêu nghiệp chướng nghiệp lực mình gieo vô lượng đời trước trong chốc lát được hóa giải.

Dãy thiên hà quay xung quanh Trái Đất, nếu nó rớt xuống thì Trái Đất tan tành, nhưng nhờ Trái Đất khi quay có một lực đẩy ra nên nó không rớt xuống. Khi ác nghiệp đến thì nhờ thiện pháp đẩy ác pháp này ra.

Đạo Phật trả lại tất cả tự do cho con người, những gì của con người đều do con người tự do lựa chọn. Muốn cất một ngôi nhà đẹp thì người thợ phải có bàn tay khéo léo. Mình muốn xây dựng ngôi nhà ngũ uẩn của mình đẹp thì mình cũng phải làm như thế nào đó để tô điểm cho nhà ngũ uẩn của mình. Tất cả thiện ác, vui buồn mình tạo thì mình gánh, không than trời trách đất gì hết. Nhân mình gieo thì quả sẽ đến với mình tương xứng.

Ở cõi Tây phương có nước mát công đức, chim ca lăng tần già niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên; ngoài đường thì vàng vô số. Muốn ở cõi đó thì phải lập hạnh ở cõi này tu như thế nào mình mới hưởng được quả đó.

Cho nên Đức Phật khẳng định: “Muốn được Tịnh độ phải tịnh tâm mình, tâm tịnh thì Phật độ tịnh”. Muốn cải cách vận mệnh thì chỉ có một con đường là cải cách tâm. Tướng xấu mà tâm tốt thì một thời gian chuyển tướng. Còn tướng đẹp mà tâm xấu thì một thời gian sẽ chuyển sang tướng xấu.

Khi làm thiện pháp tâm mình vui, trên đường đi mình vui, về nhà cũng vui. Ba thời đều vui thì khi chết mình được an vui. Hôm nào mình làm việc gì hơi trái lương tâm thì cảm thấy khó chịu, mình suy nghĩ, tư duy thì cái khổ đến với mình. Nhà Phật nói “Hình ngay thì bóng thẳng”, cái gì khổ đến với mình thì biết đời trước mình đã từng gieo, đây là bóng dáng của mình. Khi hiểu rồi thì phải phát nguyện: “Một đời làm thiện vẫn thấy thiếu, một ngày tạo ác thì quá dư”.

Hỏi: Khi mình biết chắc chắn rằng mình có nghiệp, trên bước đường tu, nghiệp đến dồn dập làm sao tu được? Mình nguyện cho cái nghiệp đến để mình trả.

đáp: Tổ Lâm Tế nói “tuỳ duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm.” Tùy duyên là khi nghiệp đến mình thấu thoát, rõ rồi thì ráng cố gắng để tiêu nghiệp cũ đừng vay nghiệp mới nữa. Tức là mình không phát nguyện trả hết mà duyên đến đâu mình giải quyết đến đó.

Trong thiền thoại kể câu chuyện: ở tỉnh An Huy có thầy tỳ-kheo tên là Hàm Uy, ngài tu hành rất miên mật. Một hôm ngài đi qua chợ nghe mùi thịt chó bốc lên, ngài khởi tâm thèm, về nhà sau lưng ngài mọc mười tám mụt nhọt hình mặt người đau nhức thấu xương. Ngài biết rồi, ngài đến trước bàn Phật nói: “Con biết đời trước con đã từng gieo nghiệp này. Nhưng bây giờ nhức quá chịu không nổi thì làm sao con sám hối, tụng kinh để hóa giải.” Nói xong ngài gục xuống. Ngài thấy mười tám người lính không đầu bước vô nói: “Ông có nhớ cách đây hai trăm năm vào đời nhà Kim, ông là một vị tướng. Một hôm có hai người lính vào rừng gặp một phụ nữ đang lượm củi, hai người lính này hãm hiếp. Cô về mách người chồng, chồng cô đến báo ông. Ông lôi hai người này ra chém đầu thì đúng, còn mười tám người chúng tôi không có can hệ gì đến việc này, ông cũng giận lôi tụi tôi ra chém luôn. Mười tám người tụi tôi theo dõi ông đã mười đời, mà đời nào ông cũng giữ giới tu hành thanh tịnh, nhưng đời này vì mùi thơm mà ông khởi niệm thèm thịt chó nên chúng tôi vô. Nhờ ông thành tâm sám hối tụng niệm chúng tôi tạm bỏ qua nhưng ba năm sau chúng tôi sẽ đến.”

Hàng ngày ngài bắt đầu tụng kinh Kim Cang, ba năm sau công lực ngài đầy đủ. Sau ba năm mười tám mụt nhọt cũng vỡ mủ ra ngài chết. Đời trước mình đã gieo cho nên mình tùy duyên, nghiệp đến thì mình hóa giải từ từ nó sẽ hết.

Hỏi: Ham tu nhưng bận rộn quá nhiều công việc, làm cách nào vượt qua khó khăn để tu?

đáp: Nếu nói rảnh thì chắc chắn không có lúc nào mình rảnh. Nếu đợi yên thì chắc chắn không có lúc nào mà yên. Hoặc nói đợi có tiền sẽ bố thí thì chắc chắn sẽ không có tiền nhiều để bố thí.

Ví dụ của Trang Tử: hai con cá vì nước rút nên bị khát, chúng xin người qua đường cho chút nước, có một ông nói:

– Nước ở đây đục không tốt, để tôi về Giang Tây có dòng suối nước rất thơm ngon tôi đem đến cho mấy ông.

Hai con cá nói:

– Đợi ông về Giang Tây lấy nước chắc tụi tôi chết khát, chết nắng.

Cuộc sống của mình cũng giống như thế, công việc ở bên này tôi thấy rất là bề bộn, mà mình làm như thế nào đó để có một thời khóa.

Một Phật tử kể rằng hồi xưa gia đình bà sống rất an ổn. Từ ngày bà đi chùa ông chồng trở nên khó chịu. Bà tụng kinh gõ mõ thì ông kêu nhức đầu chịu không nổi. Tôi nói vậy cô tụng kinh ra tiếng thôi đừng gõ mõ. Một thời gian sau bà kể chồng bà không cho tụng kinh ra tiếng. Tôi nói nếu vậy thì bà hãy tụng thầm. Được ít lâu bà lại đến và nói chồng bà cũng không cho tụng thầm. Tôi nói chồng bà không cho tụng ra tiếng, không cho tụng thầm thì bà hãy đếm hơi thở. Chắc chắn không khi nào ông cấm bà thở.

Mình đừng đợi khi rảnh mới tu, mà khi một niệm ác khởi lên mình chuyển hóa đừng chạy theo nó. Khi một niệm thiện khởi lên thì mình tiếp tục làm, và phát nguyện: “Bao nhiêu công đức lành mong ngày nào đó con được rảnh rang một chút để con tọa thiền, đi trên con đường của Đức Phật.” Chắc chắn quý Phật tử sẽ như nguyện.

Về mình thử ra chợ mua hai ký đậu, một ký đậu đen một ký đậu trắng. Hôm nào mình khởi niệm ác nhiều quá thì bỏ hạt đậu đen, hôm nào mình khởi niệm thiện thì bỏ hạt đậu trắng. Mỗi tháng mình kiểm tra một lần xem đậu nào nhiều hơn. Mới tu đậu đen sẽ nhiều hơn nhưng bảo đảm một thời gian sẽ toàn đậu trắng. Mình làm như vậy rồi hồi hướng, phát nguyện cho con đủ nhân đủ duyên thì công việc từ từ sẽ bớt. Như vậy ở đây ai cũng có thể rảnh, rảnh nửa tiếng thì tu nửa tiếng, rảnh mười lăm phút thì tu mười lăm phút.

Có một anh nọ ngày nào cũng phàn nàn than vãn nhà sao bề bộn. Anh khó chịu với vợ con, với người thân. Một hôm anh gặp một nhà hiền triết, vị này bảo đảm sẽ làm cho anh không còn đau khổ, không còn cằn nhằn, khó chịu nữa. Nhà hiền triết hỏi:

– Nhà anh có nuôi bò, dê, heo, chó không?

– Có.

– Kể từ ngày mai anh hãy để những con thú đó ở chung trong nhà với anh.

Khi cho các con thú ở chung thì sự bực bội tăng gấp trăm gấp ngàn lần. Anh gặp nhà hiền triết nói:

– Ông bắt tôi ở chung với mấy con thú này tôi muốn khùng luôn.

– Muốn hết khùng thì anh thả chúng ra.

Thả hết những con thú ra ngoài, anh nhận ra là từ xưa tới giờ mình sống trong hạnh phúc mà không biết hưởng.

Cũng vậy, mình lúc nào cũng đổ thừa hoàn cảnh, đổ thừa cái này cái kia. Đến lúc bệnh thì không còn đổ thừa hoàn cảnh được nữa. Cho nên bây giờ phải chuẩn bị trước.

Có một người chưa từng biết Phật pháp, ai nói cô tu thì cô nói rảnh đâu mà tu. Một hôm cô phát hiện bị ung thư, bác sĩ khẳng định một tháng nữa sẽ chết. Chị của cô qua Vạn Phật Thánh Thành thỉnh hai vị sư đến nhà hướng dẫn cô tu thiền. Lúc này cô buông hết, cô tu ngày tu đêm. Tu đúng một tháng, trước khi mất cô nói với người chị: “Em rất cám ơn chị đã cho em một phương pháp, một con đường để em đi.”

Thời gian trôi rất nhanh. Mình phải chọn một con đường, một hướng đi, chắc chắn mình sẽ có cách sắp xếp. Lúc nào mình cũng nói bận rộn, nhưng khi bỏ những thứ đó ra rồi tự nhiên mình thấy xưa giờ mình sống rất an ổn, hạnh phúc. Khi bệnh đau, khi cái chết rình rập thì lúc này mình sẽ thấy rất là rảnh, chi bằng bây giờ mình chuẩn bị sắp xếp. Bận rộn gì thì một ngày cũng phải có nửa tiếng rảnh rỗi. Ngặt một điều khi rảnh mình không chịu tu học mà tìm những chỗ nào vui vui đến. Cho nên mình phải cố gắng vượt qua những chướng duyên này để tiếp tục con đường tu tập công phu.

Hỏi: Sau khi nghe bài pháp Thầy giảng hôm nay, con cảm thấy cuộc đời con cũng rất là hạnh phúc, có nghĩa là con biết đủ là đủ và con biết vừa lòng với cuộc sống của con. Nhưng ở xứ Úc này có nhiều người khi qua đây họ không làm gì hết. Họ xin được tiền trợ cấp của chính phủ, tuy không giàu có nhưng có thể bảo đảm đời sống bình thường. Con nói với họ sao không kiếm việc làm để có thể khá hơn và giúp đỡ người khác. Họ nói họ thấy đời sống như vậy là đủ, họ cảm thấy hạnh phúc rồi nên cứ lãnh trợ cấp thất nghiệp hoài. Có người ban ơn bố thí cho mình mình cứ sống vậy hoài thì như vậy là đúng hay sai? Trong trường hợp này biết đủ có phải là hạnh phúc hay không?

đáp: Có một người khi biết mình bị ung thư phổi không còn sống được bao lâu, ông muốn vay ngân hàng một trăm ngàn đô. Ông hỏi tôi ông vay như thế có được không. Tôi nói ông đã biết ông không sống được bao lâu mà ông vay số tiền này, tuy rằng ông chết thì vợ con ông hưởng, nhưng nhớ rằng cái nghiệp này ông sẽ mang vì ông đã tác ý. Hơn nữa đồng tiền này không trong sạch. Cuối cùng ông cũng làm theo ý của ông. Một tháng sau ông mất. Sau khi ông mất thì số tiền đó vợ con ông cũng không giữ được bao lâu.

Đồng tiền mình ăn của an sinh xã hội không phải là đồng tiền của nhà nước Úc, mà lấy từ mồ hôi xương máu của những người trẻ tuổi, họ làm việc và bị đánh thuế rất cao để dư ra đồng tiền an sinh xã hội này. Khi thân thể mình làm việc không được thì mình hưởng đồng tiền này nhưng cái đó cũng là mình vay mượn. Cho nên tôi nói thẳng với quý Phật tử một điều, khi mình làm được thì ráng cố gắng làm. Có khi nào sinh ra đời mình lại thích đi ăn xin, hay thích có điều kiện để cho người khác.

Nhân gieo như thế này thì chắc chắn mai kia ra đời sẽ bị thiếu thốn, cô độc. Cho nên mình cố gắng làm có đóng thuế để trang trải cho đất nước, môi trường, cho đời sống. Tri túc ở đây không phải là đi mượn vay như thế này, tri túc ở đây chính từ nơi thân mình làm ra đồng tiền này, chẳng hạn một tháng được một ngàn đô, thấy như vậy là vừa đủ không thiếu thốn, mà phải chính tự mình làm. Trường hợp bất đắc dĩ khi lớn tuổi làm không được nên cần số tiền này để sống thì theo tinh thần nhà Phật: một là đời trước gieo ruộng phước đời này hưởng; hai là nếu đời trước không gieo mà có pháp tùy hỉ, đời này được hưởng thì cũng gọi là vay mượn từ mồ hôi nước mắt của người khác chớ không sung sướng gì.

Hỏi: Con xem trong duy thức, bình thường là ký ức của mình lưu ở trong A-lại-da thức. Khi mình tiếp xúc các thức thì thức Mạt-na sẽ lấy thông tin từ lớp A-lại-da đưa lên. Làm sao khi mình tiếp xúc hằng ngày khi nó vừa đưa lên mình xóa nó luôn. Cái đó mình có thể làm được không?

đáp: A-lại-da thức ghi tất cả thiện hay ác do Mạt-na thức chuyển về từ ngũ tiền thức, mắt tai mũi lưỡi thân, thành pháp trần trong ý thứchình ảnh Tề thiên đại thánh trong Tây Du Ký; rồi ý thức nương mạt-na thức, hình ảnh Sa tăng, mà khởi phân biệt pháp trần và ghi nhận vô. Khi những vị này đắc quả Phật rồi thì Tôn Ngộ Không đến gặp Bồ-tát Quán Thế Âm để xin gỡ vòng kim cô, Bồ-tát nói ông sờ lên đầu xem còn không, khi đắc quả Phật thì tự nó mất. Khi chưa đắc quả Phật thì phải có vòng kim cô tức là trì giới, làm thiện pháp, kham nhẫn, tu tập,…. Rồi đến một lúc tự nhiên nó không tiếp nhận các pháp trần, nhà thiền gọi một là đại ngộ hai là triệt ngộ. Còn đây mình lý luận chỉ trên sách vở chơi vậy thôi.

Khi mình ngồi thiền khởi niệm hồi xưa ghét người đó, rồi tiếp tục tác ý thì sẽ thành tập khí lớn, từ đó sanh ra sân hận và bực tức; còn khi khởi lên mình chỉ nhìn và ghi nhận mà không có tác ý trên niệm thì từ từ nó sẽ mất. Giống như mình ghi lên tờ giấy mà ngày nào cũng ghi thì từ từ nó sẽ đậm lên, còn mình ghi qua một lần rồi không ghi nữa thì từ từ nó sẽ mờ dần.

Hỏi: Khi xem tin tức tivi hàng ngày, cố gắng bỏ vọng niệm nhưng mà bỏ không được. Có những tin tức bình thường thì bỏ qua được, nhưng có những cái khó bỏ quá. Thầy có phương pháp nào giúp con.

đáp: Hỏi “Thế nào là vô minh?” Theo giáo tông, không rõ được nghĩa tứ đế gọi là vô minh. Theo đại thừa, không thấu tột được đệ nhất nghĩa đế là vô minh. Nhà thiền thì quên tánh giác gọi là vô minh. Muốn không có vọng tưởng nữa thì đừng xem, bởi vì tất cả các pháp trần thiện hay ác đều ghi vô hết.

Một ông tăng đến hỏi thiền sư Triệu Châu:

– Con chó có Phật tánh không?

Ngài trả lời:

– Có.

– Đã có Phật tánh tại sao lại còn chui vào đãy da hôi thúi?

– Biết mà cố phạm.

Rồi một ông tăng khác hỏi:

– Con chó có Phật tánh không?

– Không.

– Tất cả hàm thức đều có Phật tánh, tại sao con chó không có Phật tánh?

– Nghiệp thức mênh mang.

Cho nên mình phải khéo ở chỗ tu tập.

Hỏi: Nhà Phật dạy phải từ bi, phải thương yêu người khác, con nghĩ nếu mình tỏ lòng từ bi thì đâu cho xa, mình thương dân mình đi. Nhưng nếu cứ lo tu học rồi mình nói rằng mình đừng có coi để dính mắc, vậy thì con chọn đường nào?

đáp: Đức Phật chia ra ngũ thừa Phật giáo: nhân thừa, thiên thừa, thanh văn thừa, Bồ-tát thừa, Phật thừa. Tu nhân thừa Phật giáo đời sau được làm người, sáu căn đầy đủ. Chuyên ròng làm việc thiện là thiên thừa. Sâu hơn nữa, lìa tất cả các pháp sống đời xuất gia tu tập đạm bạc là Thanh văn thừa. Vào rừng tu một mình quán chiếu tất cả các pháp là Duyên giác thừa. Thấy chúng sanh khổ thương quá là bức tranh số mười thõng tay vào chợ là Bồ-tát thừa.

Đến giai đoạn như các thiền sư nói là vào rừng không động lá, vào nước không quậy sóng, vào trần mà không nhiễm trần, đó là Phật thừa. Đức Phật thương chúng sanh, trong nhà Phật gọi là “đa tình tâm thị Phật”, tình nhiều tức là tâm Phật. Người khóc có hai hạng: người khóc cho sự đau khổ của mình và gia đình mình; còn Bồ-tát khóc tức là thương chúng sanh nên khóc. Tu tới giai đoạn đó mình làm lợi ích phổ độ chúng sanh.

Như vậy nói tóm lại là mình thấy cảnh, nhưng mà cứ việc làm những gì mình cần phải làm?

Câu chuyện trong kinh Tương Ưng BộMột ông có người con mới chết nên đi đâu ông cũng khóc. Khi nghe các thầy tỳ-kheo kể lại, Đức Phật nói “Có thương tức là có khổ.” Nghe như thế ông không chấp nhận, ông nói “Thương là vui sao lại khổ?” Các bạn của ông cũng không chấp nhận lời của Đức Phật. Câu chuyện đến tai hoàng hậu Mạt Lợi phu nhân. Vua Ba Tư Nặc nói:

– Thế gian này không có thương thì biến thành sa mạc. Tại sao Thầy của Hậu nói thương là khổ?

Hoàng hậu tin Đức Thế Tôn nói là đúng. Một hôm hoàng hậu hỏi vua:

– Bệ hạ có thương con gái của bệ hạ không?

Vua trả lời:

– Rất thương.

Hoàng hậu nói:

– Nếu công chúa chết thì bệ hạ thấy sao?

Nghe thế vua giật mình và đến gặp Đức Thế Tôn, ông nói:

– Bạch Đức Thế Tôn, con nghe Thế Tôn nói thương là khổ, nếu con không thương thì làm sao con lo cho công chúa, hoàng tử, hoàng hậu, lo cho thần dân của con?

Đức Phật nói:

– Có hai loại tình thương. Tình thương chấp ngã nếu người mình thương bị gì thì mình sẽ khổ. Còn tình thương không chấp ngã thì không có đau khổ.

Thương như Đức Phật là thương không chấp ngã, biết được tính chất duyên khởi của các pháp có đến rồi có đi. Đức Phật cũng thương mà các pháp đến hay đi Ngài rất bình thản, vì vậy thương mà không chấp thủ thì thương không có khổ.

Hỏi thật quý Phật tử, ngày xưa ở Việt Nam mình nuôi con gà con heo mình thương nó không? Mình thương mình mới nuôi, nó bệnh mình lo chích thuốc cho nó. Mà thương cho ai? Thương cho mình, nuôi nó lớn để mình ăn.

Ví dụ ngày xưa khi tôi còn ở với gia đình, tôi thấy cha hoặc mẹ tôi có chuyện gì tôi rất sợ. Tại sao tôi sợ? Bởi vì khi cha mẹ mất mình còn trẻ chưa làm gì được, mình nghĩ không ai nuôi mình nên rất sợ. Lớn lên khi tôi vào thiền viện tu học thì tôi thấy Thầy tôi hoặc Hòa thượng bị gì tôi cũng rất sợ, Thầy mà theo Phật chắc mình chết. Cuối cùng nghiệm lại là thương cho mình.

Một hôm hoàng hậu Mạt Lợi hỏi vua Ba Tư Nặc:

– Trong thế gian này bệ hạ thương người nào nhất?

Vua trả lời:

– Trẫm thương hậu nhất chứ còn ai nữa?

Hoàng hậu hỏi:

– Giả như một hôm nào đó bệ hạ hay tin thần thiếp yêu người khác thì bệ hạ tính sao?

Vua trả lời:

– Chắc tôi chém.

Vua hỏi Hoàng hậu:

– Trong thế gian này hậu thương ai nhất?

Hoàng hậu trả lời:

– Trong thế gian này thần thiếp thương yêu thần thiếp nhất.

Khi vua đến gặp Đức Thế Tôn, Ngài nói bài kệ:

Tâm ta đi cùng khắp,
Khắp cả bốn phương trời.
Không thương ai hơn mình,
Thương mình hơn tự ngã.

Thương tự ngã của mình thì đừng làm khổ tự ngã của người khác. Trong cuộc sống gia đình vợ chồng, con cái, tất cả mọi thứ đều phải rất khéo léo tức là thương chính mình, đừng để cho xung đột.

Thiền sư Suzuki nói người ngộ đạo giống như người mới biết yêu, có thể nhảy xuống sông, nhảy vào lửa để cứu người. Bởi vì mới biết yêu thì người yêu kêu gì cũng làm, không làm sợ bị người yêu bỏ. Ca dao Việt Nam có câu:

Ước gì anh lấy được nàng,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

Nhưng nàng dắt người thứ hai là anh chém liền, tức là thương chấp ngã, chấp thủ. Còn thiền sư sẵn sàng xây một ngàn hồ bán nguyệt cho tất cả mọi người vào rửa chân.

Như vậy ai cũng có tình thương. Nếu không có tình thương thì làm sao Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm độ sanh? Sư ông Trúc Lâm nếu không có tình thương thì tại sao nhập thất? Sáng được việc lớn rồi, đáng lý ra ngài bảo nhậm thêm ba năm hay mười năm nữa, nhưng ngài thương chúng sanh không hiểu con đường này nên mở cửa thất ra để độ chúng sanh. Các ngài thương nhưng tình thương của các ngài không dính mắc, không chấp thủ. Tình thương này giống như thiền sư Hương Hải nói:

Nhạn bay trên không

Bóng chìm đáy nước

Nhạn không có ý để dấu

Nước không có tâm lưu bóng.

Vua Trần Thái Tông nói:

Bóng trúc quét thềm bụi chẳng động,
Vầng trăng xuyên biển nước không chao.
Nước giọt chẳng mục đích,
Ngàn núi chẳng lộ thân.

Đại chúng thấy nước giọt có mục đích không? Ai cần thì dùng, người nghèo hay giàu, ngu hay trí đến rửa cũng được. Nó cũng không có mục đích làm để cho sạch tay. Giọt nước khi xả xuống nó không nói là chỉ rửa rau thôi, rửa cái khác không được. Cho nên nước giọt không có mục đích, ngàn núi cũng chẳng bày thân phận người đó ra.

Hỏi: Vương tử Tỳ-la-tiễn-na (ý dịch là Dũng quân) được Phật cho biết 7 ngày nữa sẽ chết và đọa vào địa ngục. Nhưng nếu xuất gia thì sẽ không bị đọa vào địa ngục và sinh cõi trời và sau này chứng đạo quả. Vị Vương tử này ăn chơi 6 ngày, và chỉ còn 1 ngày là xuất gia tu tập. Như vậy chỉ trong 1 ngày thì làm sao tu tập có kết quả. Điều này làm con khó tin, có ẩn dụ nào hay là không?

đáp: Khi Đức Phật nói một bài pháp nào ra thì có các chúng sanh hay nghi. Để làm sáng tỏ về vấn đề này tôi kể câu chuyện trong kinh A Hàm:

Một hôm Đức Thế Tôn đến vùng nọ, ông trưởng làng Bà La Môn cấm không cho người nào sớt bát để cúng dường Đức Thế Tôn. Ông nói người nào cúng dường thì phải nộp thuế. Đức Thế Tôn đi mãi đến một ngôi nhà nọ thì có một người rất có tín tâm với Đức Thế Tôn, bà sẵn sàng nộp thuế, sẵn sàng hy sinh tiền của kể cả tính mạng để được sớt bát cúng dường Như Lai. Đức Thế Tôn nói do phước lực cúng dường hôm nay của bà, khi bà mất trải qua chín mươi mốt kiếp, dầu sanh bất cứ nơi nào bà cũng hưởng được phúc lạc, mà ba đường ác bị đóng cửa.

Lúc đó chồng bà về tới, ông nói:

– Cồ Đàm! Đâu có vì chút cơm mà nói không đúng sự thật.

Thế Tôn nói:

– Hồi nãy ông đi qua thành có thấy cây xoài không?

Ông nói:

– Thấy.

Đức Thế Tôn hỏi:

– Ông thấy trên cây xoài có bao nhiêu trái?

Ông nói:

– Cả ngàn trái.

Thế Tôn hỏi:

– Khi gieo xuống đất thì có gieo một ngàn hạt xoài không?

Ông nói:

– Gieo một hạt.

Thế Tôn nói:

– Quả lành cũng như vậy.

Bài pháp Đức Thế Tôn nói cho vị hoàng tử là bài Công Đức Xuất Gia. Công đức xuất gia lớn đến mức độ dầu cho ông làm những việc bất thiện nhưng ông phát khởi niệm thiện tín xuất gia mà được Đức Phật chứng minh, nghĩa là ông đã có thiện nghiệp, thiện pháp nên mới sanh ra vào thời Đức Phật và có niềm tin tịnh tín với Đức Thế Tôn.

Trong kinh diễn tả có người làm nghề đao phủ năm mươi năm, Đức Phật thọ ký ông chết là đọa địa ngục a-tỳ liền, do những người ông chém có người bị oan ức. Một hôm trên đường đi ông gặp tôn giả Xá-lợi-phất với dung nghi thù thắng. Ông nhịn đói bữa đó cúng dường ngài Xá-lợi-phất. Khi chết đúng lý ra ông sinh lên cung trời Đao Lợi nhưng do có một niệm luyến ái cô gái, ông sanh vào làm thần cây.

Như vậy khi ông hoàng tử Dũng Quân này chỉ có một niệm thiện tín thôi thì tức khắc ông tái sanh luôn huống chi tu một ngày. Trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy bài kệ đầu tiên:

Tâm dẫn đầu các pháp,
Tâm làm chủ, tạo tác.
Nếu nói hay hành động,
Với tâm niệm bất tịnh,
Khổ não liền theo sau,
Như xe theo bò vậy.

Tâm dẫn đầu các pháp,
Tâm làm chủ, tạo tác.
Nếu nói hay hành động,
Với tâm niệm thanh tịnh,
An lạc liền theo sau,
Như bóng không rời hình.

Đức Phật kể câu chuyện:

Có ông trưởng giả giàu có, con của ông bệnh rất nặng nhưng ông không chịu mua thuốc mà giã lá cây cho con uống. Khi con ông sắp chết, ông sợ chết trong nhà không tốt nên đem đứa nhỏ ra để nằm trước mái hiên. Sáng đó ngồi thiền định, Đức Thế Tôn biết chú bé này có nhân duyên với Ngài nên Ngài đắp y mang bình bát đi. Trong kinh diễn tả chú bé này chưa bao giờ làm thiện pháp, nhưng khi thấy dung nghi Đức Thế Tôn chú phát khởi tín tâm, tắt thở sanh lên cung trời ba mươi ba làm thiên chủ. Lúc này ông trưởng giả thương con khóc lóc, vị chư thiên xuống nói nhưng ông không tin. Khi ông gặp Đức Phật giải thích ông mới tin.

Thấy dung nghi thôi mà được như vậy huống chi xuất gia tu học một ngày một đêm. Cho nên trong nhà Phật các ngài dùng từ bất khả tư nghì.

Có bài kệ:

Xuân một hạt giống gieo,
Thu gặt ngàn thóc mễ.
Người đời tạo lành dữ,
Quả báo cũng như thế.

Mùa xuân gieo một hạt lúa, mùa thu gặt một bao lúa. Trong nhà Phật gọi là tín sát-na tâm. Chẳng hạn tôi đang ở Việt Nam, anh Chánh Huệ điện đúng số điện thoại của tôi là gặp liền. Nhưng nếu điện sai một số là không gặp. Muốn được tương ưng là phải đúng tần số tương ưng. Sự tu tập cũng vậy. Ông Dũng Quân biết chết sẽ đọa địa ngục, tin lời Phật ông buông hết, tu hành tha thiết một ngày một đêm là xong.

Bản thân chúng tôi kinh nghiệm, Sư Ông cho nhập thất bốn tháng, khi bước chân vào thất là quyết tử, đến mức độ bốn tháng tôi không hề tắm, bởi vì tắm mất thời gian, thời gian liên tục dồn vô công phu không cho hở. Quả tình đến tháng thứ ba thì có kết quả. Bốn tháng vô thất coi như mình vĩnh biệt hết tất cả.

Hỏi: Xin Thầy giải thích hai câu đối trên Chánh điện: “Chánh Đạo nghiêm trì tuyên diễn chân tông thiền môn thịnh đạt. Thiện Hạnh huân tu truyền thừa đốn giáo tổ nghiệp hưng long”.

đáp: Muốn truyền bá chánh pháp, muốn truyền bá tâm tông của chư Phật thì chúng ta thứ nhất là phải trang nghiêm tự thân, thứ hai là phải trang nghiêm đạo tràng, trang nghiêm xong rồi phải gìn giữ. Mình bỏ công sức ra làm xong hết những hạng mục rồi mà không trang nghiêm gìn giữ tăng thân và đạo tràng. Đạo tràng không trang nghiêm thanh tịnh mà đủ thứ chuyện trong đó thì người ta mất niềm tin: “người này tu gần hai chục năm, có người tu mười lăm năm, có người tu mười năm mà sao đạo tràng giống Bà-la-môn vậy!” Cho nên muốn truyền bá chánh pháp thì phải trang nghiêm gìn giữ.

Tuyên diễn tức là tuyên thuyết, diễn bày chân tông. Người đứng đầu lèo lái con thuyền trang nghiêm, đạo tràng thanh tịnh hòa hợp thì người ta đến, từ đó thiền môn ở tỉnh Bình Thuận sẽ hưng thịnh lên. Ý Thầy muốn như vậy.

Đạo tràng phải hòa hợp, không lục đục, người Phật tử tu tập như thế nào đó để hòa hợp như sữa với nước. Những người đến đây là có thiện duyên với mình, đã nhiều đời làm quyến thuộc với nhau chớ không phải không không mà đến. Đi trên một chiếc xe đò, một chiếc thuyền, Phật dạy năm trăm kiếp đã từng gặp gỡ. Trên một con đường chúng ta đi chỉ chạm mặt là đã có một trăm kiếp chúng ta gặp gỡ. Vợ chồng con cái là đã có một ngàn kiếp gặp gỡ. Như vậy ở đây là thân bằng, là quyến thuộc, thì mỗi người “A Di Đà Phật, mỗi người mỗi tật.” Đơn giản vậy buông xả dễ.

Mình có tật người khác cũng có tật. Khi hiểu ra rồi thì tự nhiên đạo tràng thanh tịnh, người ở chỗ khác thấy hay thì người ta vào tìm hiểu. Tông phong này của Sư ông Trúc Lâm. Quý Phật tử đến đây không phải là đến thiền viện của chúng tôi. Đến đây thứ nhất là đến thiền viện chung của Tam Bảo: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Thứ hai là tông phong của Hòa thượng nằm ở đây. Hòa thượng cắt cử chúng tôi về đây thì cái này là của Hòa thượng. Mình đến đây là mình hộ trì Tam Bảo, mình làm cái gì cũng là làm cho Sư ông Trúc Lâm, Sư phụ Thường Chiếu, chúng tôi chỉ là thừa đương để mà lèo lái tiếp tục. “Tuyên diễn chân tông thiền môn thịnh đạt” đó là mong mỏi của Sư phụ Thường Chiếu, mong mỏi ở tỉnh Bình Thuận này thiền môn hưng thịnh lên. Mình tu sao mà người ta gần, cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát là tu đúng pháp. Mình tu sao mà thấy gai góc không là trật.

Ở vùng biển chỗ nào sóng lớn mình thấy những hòn đá nhẵn. Ban đầu những hòn đá này có cạnh có góc nhưng sóng vỗ một thời gian nó nhẵn. Chúng ta vào đây tu tập có những đợt sóng vỗ, đại chúng tu tập như thế nào giống như người điêu khắc.

Không phải một đời chúng ta tu là xong. Có những người buông xả rất nhanh, có những người buông xả rất chậm. Có những người thấy việc thiện làm tức khắc là nhờ huân tu nhiều đời cho nên gọi là thiện hạnh huân tuHuân là xông ướp những thiện pháp như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. Xông một thời gian người ta gần mình thấy có mùi hương. Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy:

Hương các loài hoa thơm,
Không bay ngược chiều gió.
Chỉ hương người đức hạnh,
Tỏa khắp bốn phương trời.

Khi thiện hạnh huân tu thì truyền thừa đốn giáo, Tổ nghiệp hưng long. Cho nên mỗi người chúng ta phải huân, phải xông, phải ướp, thành tựu con người chúng ta tu tập, trưởng dưỡng đạo tâm. Khi biết được rồi thì làm cái gì cũng thấy còn thiếu, tu cũng thấy thiếu, làm thiện pháp cũng còn thấy thiếu nên gắng gỗ làm.

Hỏi: Trong bài phục nguyện có câu “Phật tử lòng tin sâu ruộng phước càng tăng trưởng”, con không hiểu “tin sâu” sao lại có phước, làm bố thí mới có phước. Xin thầy giải nghi?

đáp: Có những lúc mình tin cạn: “tu vậy không biết có giải thoát không? Bố thí cúng dường không biết được không?” Khi chúng ta tin cạn như vậy thì chúng ta sẽ không làm và cũng không tu luôn. Trong kinh Hoa Nghiêm nói “Niềm tin là mẹ của công đức, trưởng dưỡng thiện pháp sanh ra những ruộng phước.”

Niềm tin giống như hạt ngọc bỏ trong nước dơ, nước sẽ tự trong, tức là mình tin sâu việc làm của mình là đúng, sự tu tập là đúng. Tin sâu tức là chứng nghiệm vào con đường đó. Có niềm tin sâu sắc vững chắc như thế thì bắt đầu ruộng phước tăng trưởng. Bố thí, cúng dường phải có niềm vui, có niềm tịnh tín thì ruộng phước tăng trưởng. Ví dụ mình cúng dường một vị thầy mà mình còn nghi ngờ không biết thầy có cho ai không tức là niềm tin của mình cạn, ruộng phước của mình không lớn.

Hỏi: Phật tử có mặc cảm thân bệnh và nghèo thiếu thốn.

đáp: Trước khi chia sẻ phần này tôi dẫn một đoạn nhân duyên trong kinh Bảo Tích:

Có một thầy tỳ-kheo tu tập tinh tấn, một hôm cảm được Trời Đế Thích xuống tặng khánh bằng vàng. Được tặng khánh vàng, thầy tỳ-kheo đứng giữa ngã ba đường hỏi ai nghèo nhất thì thầy tặng lại cái khánh. Người nào cũng nói mình nghèo nhưng thầy nói các ông giàu chứ không nghèo. Cuối cùng thầy tặng khánh cho vua Ba Tư Nặc. Ai cũng ngạc nhiên vì ông vua sao lại nghèo. Khi đến gặp Phật, Thế Tôn xác nhận vua Ba Tư Nặc nghèo lắm. Ông nghèo Phật pháp, nghèo sự tu tập, nghèo sự chứng nghiệm, nghèo sự đi vào dòng công phu chuyển hóa nội tâm. Lúc đó vua bừng tỉnh, từ đó ông theo Đức Phật tu tập.

Như vậy mình không nghèo. Mỗi sớm mai thức dậy tôi thường nhắm mắt, mở ra ba lần rồi mới đi ngồi thiền. Tôi cám ơn cuộc đời cho tôi đôi mắt này vẫn còn thấy đường, thấy hình ảnh Phật, thấy Sư Ông, thấy Thầy tôi, thấy quý Phật tử, thấy bông ly bông lan, thấy hết… Từ nhãn thị chúng sanh tức là mắt thương nhìn cuộc đời, mình có đôi mắt này mình nhìn thấy. Quá giàu!…. Tôi duỗi hai tay, tay mình duỗi được, mừng quá! Bàn tay duỗi được, mừng là biết mình còn đôi tay để sáu giờ mười lăm mình đảnh lễ Tam bảo. Nhìn xuống thấy mình giàu quá, còn đôi chân ngồi thiền. Tài sản cha mẹ để lại cho mình không phải là tài sản về vật chất, mà tài sản cha mẹ để lại là mình có sức tu tập, gọi là có huệ trí.

Có đi vào con đường công phu này thật ra mình không có nghèo. Bệnh thân bệnh tâm thì ai cũng bệnh, tôi từng nói thiền viện là bệnh viện. Khi chúng ta tu tập thì thứ nhất là đừng tự ti vì chướng đường công phu của mình, thứ hai là đừng tự tôn, cũng chướng đường công phu.

Con đường của Đức Phật là con đường trung đạo. Đức Phật nói “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Mình cố gắng tu tập như thế nào để hình thành giống như một Đức Phật. Vượt qua tự ti mặc cảm nhưng cũng đừng tự tôn mình là Phật. Mình vẫn là chúng sanh đang đi trên lộ trình của Đức Phật. Đó là mình vượt thoát nghèo hèn, mặc cảm, vượt thoát hết tất cả. Một ngàn con sông chảy về biển, bỏ hết các tên sông thì chỉ mang duy nhất tên biển. Trong một ngàn con sông đổ về có rất nhiều thứ nước, chảy về biển rồi thì chỉ mang duy nhất một vị mặn. Giáo pháp của Đức Phật rất nhiều pháp môn tu tập, con người chủng nghiệp trùng trùng nhưng chỉ có một vị là vị giải thoát. Từ đó mình hết tự ti, hết mặc cảm để tu tập.

Hỏi: Vì sao cùng trong tông môn mà có thiền viện có chữ Trúc Lâm, có thiền viện lại không có chữ Trúc Lâm?

đáp: Ngày xưa khi Sư ông Trúc Lâm dạy ở Ấn Quang, Huệ Nghiêm, Phật học Lưỡng Xuyên, tất cả các nơi … Sư ông nói mình hiểu là hiểu trên cái lý. Có lần Sư ông về miền Tây giảng về tứ thiền, tứ quả thì có một người hỏi: “Thầy dạy rất là hay mà trong bốn cái thiền đó thầy chứng được cái thiền nào chưa?” Lúc đó có một vị Thầy giảng sư nổi tiếng là Hòa thượng Huyền Vy, Ngài nói: “người tu thì nóng lạnh tự biết.” Sư ông nói Hòa thượng Huyền Vy “cứu” như vậy cũng hay nhưng Sư ông cảm thấy không ổn. Bởi vì người tu chạm đến chỗ đó rồi thì có những thao thức, cho nên Sư Ông quyết tìm con đường sáng cho riêng mình.

Từ giã Phật Học Viện và tất cả các nơi, Sư ông lên Chân Không, ngày xưa gọi là Pháp Lạc thất. Tu khoảng ba tháng Ngài ngộ được lý sắc không, ngài mở cửa và bắt đầu lập thiền viện Chân Không. Thiền viện Chân Không có hai nghĩa: một là chỉ về chỗ tự tánh bát-nhã, hai là nói về một vị thiền sư rất nổi tiếng đời Lý tức là thiền sư Chân Không. Sau này khi trên đó không ổn thì Sư ông về, được người ta cúng năm mươi hai mẫu đất tại Long Thành, Ngài lập thiền viện đặt tên là thiền viện Thường Chiếu. Thường Chiếu cũng là tên một vị thiền sư.

Khi Sư ông từ Chân Không về Thường Chiếu và lập ra các thiền viện có chữ “Chiếu”: Viên Chiếu, Linh Chiếu, Huệ Chiếu,… thì chưa có sám hối sáu căn mà sám hối ba nghiệp. Mãi đến năm 1994, Sư Ông thành lập Thiền viện Trúc Lâm Phụng Hoàng, từ đó sám hối sáu căn ra đời, các thiền viện bắt buộc phải sám hối sáu căn. Sám hối sáu căn của vua Trần Thái Tông, tức là ông nội của vua Trần Nhân Tông, Sơ Tổ Trúc Lâm.

Khi lập ra sám hối sáu căn, lúc này Sư ông mới nhấn mạnh việc khôi phục lại tinh thần thiền Trúc Lâm. Từ đó về sau khi bắt đầu nhận một cuộc đất mới, khi thành lập những thiền viện mới, Sư ông dạy các đệ tử, đệ tôn khi đặt tên thiền viện, lấy chữ Trúc Lâm để kỷ niệm tinh thần của Sơ Tổ Trúc Lâm.

Chúng tôi được may mắn là khi về đây Sư ông dạy cho chúng tôi một đoạn cây trúc, lấy từ Ngọa Vân Am về, bây giờ nó sống thành bụi trúc. Từ đó về sau, vâng lời Sư ông dạy, các thiền viện có thêm chữ Trúc Lâm: Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác, Trúc Lâm Chánh Thiện, Trúc Lâm Từ Giác, …. Ví dụ ngày xưa trên các bảng tên thiền viện ghi: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam – Thiền Viện Thường Chiếu”. Hiện nay, bên dưới hàng chữ “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”, ghi thêm “Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử” rồi mới đến tên thiền viện.

Kể từ năm 1994, Sư ông nhấn mạnh để khôi phục tinh thần thiền Trúc Lâm, mà thiền Trúc Lâm là thiền giáo đồng hành. Từ đó các thiền viện Trúc Lâm ra đời.

Hỏi: Làm sao để dẹp trừ bản ngã?

đáp: Bản, tiếng Hán là cái gốc. Khi quý Phật tử vừa sanh ra đời thì cái ngã đi theo gọi là câu sanh ngã chấpCâu sanh ngã chấp tùy theo trong quá khứ mình nhiều hoặc ít.

Ngài Tất Lăng Già Bà Ta đã chứng thánh quả và có năng lực thần thông. Một hôm ngài đi qua sông Hằng, nước lớn cuồn cuộn, Ngài nói với thần sông Hằng:

– Con tiện tì sông Hằng, mày dẹp đường cho tao đi.

Do năng lực của vị thánh tăng này nên sông Hằng rẽ làm hai cho ngài đi qua. Bà thần sông đến gặp Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn, con nghe nói những bậc thánh hay các hàng tỳ-kheo của Thế Tôn nói lời gì ra cũng là lời chuyển hóa, ai cũng thích thú, vậy mà thầy tỳ-kheo này nói mày tao với con. Con là thần nữ giữ sông Hằng này mà gọi con là tiện tì.

Buổi trưa vị tỳ-kheo về, Đức Thế Tôn hỏi:

– Có phải hồi sáng ông đi khất thực ông nói như thế không?

Ngài trả lời:

– Bạch Đức Thế Tôn, có thật con nói như thế.

Thế Tôn bảo ông phải ra xin lỗi, sám hối.

Ngài tỳ-kheo đến sông Hằng nói:

– Này con tiện tì, tao xin lỗi mày.

Bà đến gặp Đức Thế Tôn nói:

– Bạch Đức Thế Tôn, con thấy vị tỳ-kheo này xin lỗi kỳ quá.

Thế Tôn nói:

– Con đừng trách vị tỳ-kheo này, bởi vì năm trăm đời vị này là trưởng giả Bà-la-môn, sống trong nhung lụa và cai quản đồ chúng.

Cho nên câu sanh ngã chấp đi theo, trong nhà thiền gọi là tập khí, hàng Thanh Văn phá không được vì còn trong biển độc vô sanh. Phải bước qua con đường thập địa phá trần sa hoặc vô minh thì mới dứt được. Trần sa là cát bụi, đến hàng Bát địa nhảy qua hàng Thập địa rồi vẫn còn sót một chút. Dẹp được bản ngã là cả một quá trình tu tập, trong nhà thiền gọi là “thùng sơn lủng đáy”, tức là quán chiếu thật sâu về năm uẩn có thật hay không. Rõ ràng khi quán chiếu, thấy năm dòng sông liên tục trôi chảy không có gì là thực thể thì từ đó bắt đầu cái ngã rơi rụng lần lần.

Một hôm vua Đường Đại Tông đang luận bàn với thiền sư Bất Không, quan thừa tướng Ngũ Triều Ân nói:

– Phật nói tất cả chúng sanh đều là Phật thì như vậy cái bản ngã, cái vô minh này từ đâu mà có?

Thiền sư hỏi:

– Ông là gì?

– Tôi là thừa tướng đương triều, dưới một người mà trên ngàn người, ông không biết tôi sao?

Thiền sư nói:

– Nói thật với ngài, từ ngày tôi vào cung điện này tôi tưởng ngài là người ở đợ, chứ không biết ngài là thừa tướng.

Ông thừa tướng đỏ mặt liền, bản ngã từ đây sanh ra. Muốn dẹp bản ngã thì phải tu tập, phải quán chiếu. Chúng ta sở dĩ bị khổ là do dính vào cái ngã. Bồ-tát Quán Tự Tại hành thật sâu, quán thật kỹ, chiếu kiến năm uẩn là không thì qua hết khổ nạn. Còn mình chiếu kiến ngũ uẩn giai có thì gặp nạn. Như vậy mình dẹp bản ngã dễ hay khó? Hôm qua Thầy Thông Không có nói: Cũng không khó, cũng không dễ. Đói ăn khát uống mệt ngủ khò.

Hỏi: Thế nào là cửa không của tự tánh?

đáp: Mình đừng có nhìn tướng bên ngoài. Mình tu là tu nhân thì quả mới được. Trong kinh Lăng Nghiêm nói “tu nhân vô sanh, quả mới thường trụ”. Đại chúng lấy quả mà tu thì ngàn đời tu, ngàn đời chết.

Câu “thấy biết là chơn tâm” của Hòa thượng là cái quả sáu mươi năm Hòa thượng mới thành tựu. Bây giờ mình thấy biết không phải là chơn tâm, là vọng tưởng mà mình lầm đây là chơn tâm thì chết. Chỗ thấy biết là chơn tâm của Hòa thượng đạt đến chỗ siêu xuất giống người đi qua bờ vực thẳm. Quả Hòa thượng thành tựu rồi, Hòa thượng chỉ ra để mình sau này đi đến chỗ đó rồi thì không còn nghi ngờ gì nữa, chỗ nào cũng là chơn tâm, chỗ nào cũng là Phật.

Phật nói “Nếu Như Lai ban đầu giáo hóa các thầy mà nói chỗ nào cũng là sắc Phật thì địa ngục không có chỗ.” Cho nên Đức Phật mười hai năm chỉ bày phương tiện là bốn bộ A Hàm, chỉ các thầy tỳ-kheo quán chiếu về năm uẩn, về sắc thân, rồi quán chiếu về con đường vô thường khổ như thế nào, cuối cùng mới chỉ sắc là sắc Phật, cầm hoa sen lên.

Thế nào là cửa không của tự tánh? Ví dụ như buổi sáng nhìn trên cửa kiếng thấy sương bám, mình muốn không còn sương bám vào cửa kiếng nữa thì lấy khăn lau. Cái khăn lau là cái biết mà cái biết đây là trí dụng. Ban đầu mượn trí dụng để mình lau gọi là phương tiện biết vọng, biết đây là vọng không có thực thể không có theo nữa. Khi cái vọng này lặng thì cái biết cũng lặng luôn đây gọi là tự tánh về cửa không.

Khi mình tu thuần thục rồi thì vọng đến tự tan vì trí tuệ quá mạnh, nhìn là biết nhìn là mất cho nên gọi là “tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu.” Đến giai đoạn này là phải trải qua hai hay ba chục năm. Đó gọi là tự tánh về ngay nơi mình, là tánh biết vọng chứ không phải dùng cái dụng biết vọng nữa. Tự tánh biết vọng vọng tự nó lìa cho nên ngồi thiền giống như ngồi chơi bình thường, vọng lên tự nó lặng một hồi tự nó hết.

Đại chúng mà sợ vọng hay muốn kháng cự vọng thì tôi kiểm thiền, nhìn là biết. Hồi xưa ở một thiền viện tôi giấu tên, có ông thầy ngồi thiền, tôi đi trị nhật thấy ông ngồi trên ghế: “Đi, đi, đi không!” Tôi chạy lên hỏi “Thầy đuổi ai vậy?”. Ông thầy trả lời “Vọng tưởng nhiều quá đuổi không đi”.

Bởi vì mình thấy vọng tưởng thật nên mới đuổi, còn biết vọng tưởng là bóng dáng của sáu trần, do dính mắc hồi sáng, hồi trưa, hay hồi chiều gì đó, bây giờ nó tái hiện lại mình biết nó là bóng không có thật.

Vua Trần Thái Tông nói:

Trúc ảnh tảo giai trần bất động,
Nguyệt luân xuyên hải thủy vô ngân.

Nghĩa là:

Bóng trúc quét thềm bụi chẳng động,
Vầng trăng xuyên biển nước không chao.

Từ nơi tự tánh phóng ra sáu cửa chiếu phá sáu cõi trời. Cho nên mình phải tu cái nhân, tức là biết tất cả các vọng tưởng không có thật, một thời gian vọng tưởng không còn thì thấy biết đều là chơn tâm. Còn bây giờ không khéo là mình dính.

Hỏi: Thưa thầy con là cư sĩ, vậy con phải hiểu và tu làm sao để đúng với chữ tùy duyên như trong bài kệ của vua Trần Nhân Tông:

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

đáp: Tổ Lâm Tế nói:

Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,
Nhậm vận trước y xiêm.

Nghĩa là:

Tùy duyên tiêu nghiệp cũ,
Hồn nhiên mặc áo xiêm.

Tùy duyên là sao? Chẳng hạn ở đây yết ma, yết ma là trước một tăng đoàn, một quy chế, quý Phật tử ngồi thiền tối một tiếng rưỡi, sáng hai tiếng đó là tùy duyên. Mình đến đây tu học ba ngày thì tùy duyên ngồi hết giờ xuống. Hoặc là đến đây tùy duyên là không được gọi điện thoại, lên bàn ăn không có trái ớt, tùy duyên. Tức là đến chỗ có quy chế mình tuân theo là tùy duyên. Mà tùy duyên trong cái trí chớ không phải trong vô minh tức là thuận theo duyên mình sống thì đạo kế bên. Khi ngủ cũng vậy, ở nhà giường nệm êm ấm nhưng lên đây mình ngủ một chiếc chiếu, cái gối, ngủ dưới đất tùy duyên nghiệp cũ mình tiêu.

Khi mình tu học ba ngày từ ăn uống, ngủ nghỉ mình theo quy chế trường thiền đưa ra mình tu tập đúng thì đó là tùy duyên, nghiệp cũ của mình hết. Còn mình không tùy duyên mà bức xúc khó chịu thì nghiệp cũ không tiêu, đó là tinh thần tùy duyên của Sơ Tổ Trúc Lâm.

Ở Miến Điện có một trường thiền rất lớn, khóa tu tổ chức thường là ba tháng hoặc sáu tháng. Tham dự khóa tu ở đây đặc biệt không được nói chuyện, ai nói chuyện bị mời ra và vĩnh viễn không được đến các trường thiền khác. Trong khóa tu, đến tháng thứ ba mới được gặp Hòa thượng trưởng lão mà chỉ được nói hai câu, nói câu thứ ba là bị đuổi.

Có ông người Mỹ tham dự khóa tu, trong sinh hoạt ông ráng tuân theo quy chế vì sợ bị đuổi và mất tiền. Tới tháng thứ ba chịu hết nổi ông lên gặp trưởng lão Hòa thượng nói một câu: “Giường cứng!” Vị trưởng lão gật đầu. Ông tiếp tục ở ba tháng, đến tháng thứ sáu ông lên gặp trưởng lão Hòa thượng nói: “Tôi đi!” Tức là không tùy duyên. Mình tu học ba ngày, ngủ dưới đất mà mình vượt qua được, mình tùy duyên là tu thiền đúng.

Hỏi: Hằng ngày con đều đọc kinh sám hối:

Tam bảo chứng minh con sám hối,
Dứt tâm tương tục kể từ đây,
Không hề tái phạm dù lỗi nhỏ,
Nguyện gìn ba nghiệp như giá băng,
Nguyện đạt chân tông giáo viên đốn,
Kiến tánh viên minh tâm nhất như,
Vọng tình ngoại cảnh dường mây khói,
Nghiệp thức vốn không trí sáng ngời.

Tất cả nội dung này là lời sám hối rất dứt khoát, quyết tâm, nhưng mà xem ra thì rất khó thực hiện, dường như là không thể. Hằng ngày sám hối như vậy nhưng mình không thể thực hiện những điều trên, vậy sám hối này có phải là sám hối suông hay không?

đáp: Chúng ta học kinh Bát-nhã, Bồ-tát Quán Tự Tại chiếu kiến năm uẩn đều không liền qua hết khổ nạn. Vậy tại sao mình đọc hoài, ăn cơm cũng tụng, ngồi thiền cũng tụng mà chiếu không nổi? Là vì mình đang ở trên văn tự của Bát-nhã. Mình nhờ văn tự Bát-nhã chiếu lần lần từng ngày. Mình không phải là chư Tổ chiếu một lần là xong. Buổi sơ khai ban đầu chư Phật và chư Tổ cũng giống như mình không khác mà các ngài cố gắng tinh tấn chiếu. Quán chiếu Bát-nhã một thời gian thì chúng ta mới thể nhập vào thật tướng Bát-nhã, trong con người mình hình thành hun đúc một người như Đức Thế Tôn.

Cũng giống như chúng ta, Đức Thế Tôn từng phạm tội bất hiếu bước qua đầu mẹ khi mẹ Ngài nằm xuống cản không cho Ngài đi biển. Bị rớt xuống địa ngục đội vòng lửa, Ngài hỏi cai ngục chừng nào vòng lủa của Ngài mới mất. Cai ngục bảo chừng nào có người bất hiếu giống như ông xuống đây thay thế. Lúc đó Ngài phát nguyện đời đời đội vòng lửa này, mong cho đừng có ai bất hiếu giống như Ngài. Tức khắc ngài sanh lên cung trời do nguyện lực. Lần thứ hai ngài phát nguyện dưới cội bồ đề: “Dầu cho thịt nát xương tan nếu không tìm được lý đạo quyết không rời chỗ này.”

Khi chúng ta sám hối những điều đó là chúng ta đang ở trên văn tự, hằng ngày mình sám hối không thấy gì nhưng khi gặp chuyện thì mình hơn những người khác. Giống như học võ thuật, ngày nào cũng đánh đấm không thấy gì nhưng khi học mười năm, múa quen rồi thì người khác đụng vào, gạt ra rất dễ. Nếu không học bị đấm là chảy máu mũi liền vì xưa giờ không chịu gạt không chịu đỡ.

Tôi đi giảng ở Sóc Trăng, có bà Bảy chơi thân với bà Tám. Một hôm bà Tám hỏi:

– Sáng nay bà đi đâu vậy?

Bà Bảy trả lời:

– Hằng tháng có vị thầy xuống giảng Phật pháp, hôm nay là ngày Thầy về giảng, tôi thấy hay quá nên tôi đi nghe.

Bà Tám nói:

– Bà đi nghe giảng Phật pháp, vậy bà nói tôi nghe Tam bảo là gì?

Bà Bảy nói:

– Tôi không biết Tam bảo là gì, quên rồi.

Bà Tám nói:

– Bà nghe Phật pháp cũng như không. Tam bảo mà không biết thì nghe làm gì.

Lát sau, bà Bảy lấy cái rổ dính đầy bụi xuống ao múc nước. Bà Tám nói:

– Càng học bà càng tửng tửng, tôi hỏi Tam bảo là gì mà bà đem cái rổ múc nước.

Bà Bảy hỏi bà Tám:

– Bà thấy cái rổ sao?

Bà Tám trả lời:

– Cái rổ hồi nãy dơ bây giờ múc nước nó sạch.

– Thì tôi cũng vậy, tôi tụng kinh, sám hối, ngồi thiền, nghe pháp không có dính gì hết, đúng là nghe xong tôi quên hết. Nhưng mà ngày xưa con trai, con dâu, con rể tôi mà làm gì không xong là chết với tôi nhưng bây giờ tôi chỉ cười.

Bà Tám nói:

– Công nhận Phật pháp rất hay.

Từ đó bà Bảy, bà Tám cùng đi học Phật.

Mình sám hối không thấy gì nhưng khi đụng cảnh, đụng duyên tự nhiên có sức dừng hơn những người thường, cho nên mình mới bỏ công tu. Quý phật tử coi truyền hình, tắt rồi nhưng màn hình vẫn còn những hột li ti. Chiếc xe đổ dốc chúng ta thắng rồi vẫn còn trớn đi xuống. Nghiệp lực của chúng sanh cũng vậy, chúng ta phải đào thải nhiều, từ văn tự đến quán chiếu, rồi thật tướng. Bồ Tát Quán Tự Tại chiếu kiến một lần là xong, còn mình chiếu mãi. Nhưng mà đừng sợ, cứ chiếu đi, đừng có nghỉ, đừng tắt đèn pin mà cứ chiếu….

Lục Tổ nói: “Mê văn kinh lụy kiếp, Ngộ tắc sát-na gian” nghĩa là mình mê coi kinh nhưng mà cứ coi đi, coi ngàn kiếp ngàn đời mà chỉ cần ngộ là xong hết. Cuộn chỉ rối mà mình không gỡ thì không bao giờ nó ra, cố gắng gỡ từ từ nó sẽ ra. Cứ học, cứ nghe, cứ tu. Ngày xưa mình nghe người đối diện nói gì mình không bỏ qua được nhưng bây giờ mình chỉ cười tức là tu tiến. Đường tu mình đừng cần ngộ gì hết mà mình đào thải ngày một chút là mình tiến, đừng nói ngộ đạo cao siêu hay kiến tánh gì hết mà từng ngày mình bỏ bớt, bỏ bớt rồi đến một lúc nào đó gùi mang đá của mình sạch hết thì nhẹ.

Hỏi: Trong Kinh thường hay đề cập đến con số 84000, ví dụ 84000 pháp môn, 84000 vi trùng, 84000 tòa sư tử. Như vậy, con số 84000 là gì?

đáp: Kinh Duy Ma Cật là một bản kinh đại thừa nói về lý tánh, bản thể. Kinh Duy Ma còn gọi là Kinh Tịnh Danh. Tịnh là tánhDanh là tướng, tánh tướng không có hai gọi là Tịnh Danh. Kinh Duy Ma Cật còn gọi là pháp môn bất nhị, vượt thoát phiền não và bồ-đề, vượt thoát khổ và vui, vượt thoát chủ và khách. Đây là bản kinh đại thừa nói thẳng về cái lý rất là sâu, chẳng hạn như trong kinh nói thất của ông Duy Ma Cật rất nhỏ mà chứa tám mươi bốn ngàn tòa sư tử.

Khi chúng ta phát tứ hoằng thệ nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Như vậy con số này không phải là con số có hình tướng, mà là con số trừu tượng nhắm vào thân ngũ uẩn của mỗi người chúng ta. Trong thân ngũ uẩn mình cũng có tám mươi bốn vạn những trần lao phiền não. Khi uống một bát nước, Đức Phật thấy có những con vi trùng.

Phật quán nhất bát thủy,
Bát vạn tứ thiên trùng.

Khi uống nước chúng ta không có chánh niệm, không có tỉnh thức, mình uống nước mà không biết đang uống nước thì đó là mình đang ăn nuốt chúng sanh. Còn mình uống nước mà tỉnh thức không có dấy niệm thì ngay trong giờ phút đó phiền não không có mặt. Phiền não không có mặt là mình không có uống chúng sanh, không làm chết chúng sanh. Ngay thân ngũ uẩn có tất cả trần lao phiền não thì phải dùng tất cả những phương pháp mà Đức Phật chỉ dạy để hóa giải những trần lao phiền não này. Chẳng hạn có người thèm khát về dục thì Phật dạy phương pháp quán thân bất tịnh; tâm họ loạn tưởng nghĩ đủ thứ chuyện thì Phật dạy sổ tức quán; tâm họ sân hận hay bực tức thì Phật dạy quán từ bi.

Những phương pháp để đối trị có tất cả tám mươi bốn ngàn pháp môn thì làm sao mình học hết? Ở đây ý muốn nói, tất cả pháp môn đều bắt buộc mình quán chiếu tất cả các pháp, kể cả thân phận của mình cũng như vạn pháp đều không có thực thể, như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng như điện. Quán chiếu thật sâu như thế thì ngay trong giờ phút đó mình thấu tột tất cả các pháp môn.

Thất của ông Duy Ma Cật tiêu biểu cho thân ngũ uẩn của mình, đầy đủ sự diệu dụng khi chúng ta tỉnh thức. Khi chúng ta giác ngộ thì thân này thất đại biến thành thất bảo. Cũng lời nói đó hồi xưa không tu tập thì mình làm cho người ta buồn khổ. Bây giờ mình có tu tập thì lời nói đó làm cho người ta vui, hạnh phúc. Mình biến khổ thành vui, biến phiền não thành bồ đề thì tức khắc thành tựu tất cả các pháp môn.

Hỏi: “Cư trần bất nhiễm trần” là gì?

đáp: Ở trần mà chẳng nhiễm trần, đây là nói cho các vị có tu tập. Những vị này ở trong trần làm hết tất cả các việc, cũng có vợ, có chồng, có con mà chuyện này không dính dáng gì hết. Giống như ông Bàng Long Uẩn, Bồ-tát Duy Ma Cật, Tuệ Trung Thượng sĩ. Nói khác hơn, ở đời này quý Phật tử mà tu tập được, ở trong trần mình làm cho có làm thôi, làm để vì thân bằng quyến thuộc mà con đường tu tập chúng ta không bỏ; chúng ta không khao khát, không mặn nồng về con đường danh lợi trong cuộc đời này nữa thì gọi là ở trần mà không nhiễm trần.

Hỏi: Kiến giải và hạnh giải giống nhau hay khác nhau?

đáp: Trong nhà thiền gọi hạnh giải tương ưng tức là lời nói và hành động phải tương ưng. Kiến giải là lời chúng ta học hiểu được mà việc làm thì chưa đến. Giống như mình nói từ đây lên Sài Gòn chỉ có bốn tiếng, khi vừa nói “bốn tiếng đồng hồ” là ý nghĩ lên Sài Gòn rồi, nhưng mà thực tế đi sau 4 tiếng mới tới. Mình thấu hiểu về chân lý của nhà Phật nhưng về tu tập phải trải dài năm này qua tháng khác thì mới tương ưng nên kiến giải và hạnh giải khác nhau.

Hỏi: Tùy thuận chúng sanh nhưng lỡ chúng sanh đòi làm việc ác thì làm sao tùy thuận được thưa thầy?

đáp: Cái này mình phải sáng suốt. Chẳng hạn mình có người em, biết nó lấy tiền để chích, hút ma túy hay làm việc ác mà tùy thuận cho tiền là không có trí huệ. Tùy thuận tất cả các pháp với điều kiện đối tượng mình tùy thuận phải làm các việc thiện pháp, phải tu tập, trong nhà thiền gọi là từ bi phải có trí huệ.

Hỏi: Chúng con đến thiền viện Bửu Minh thấy có hai câu đối:

Gì phàm, gì thánh? Sống chết ngay lúc này.
Hỏi trong hỏi ngoài! Ai kia dẫn đi mất.

đáp: Thầy Trúc Lâm để câu “Gì phàm, gì thánh? Sống chết ngay lúc này.” Cái gì phàm? Cái gì thánh? Nghĩa là dù phàm, dù thánh, cái chết đến mà trong giờ phút thực tại này ai biết sự sống, ai biết sự chết? Phàm thánh gì cũng đi con đường này gọi là “Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng.” Nếu chúng ta không biết tu thì đường trước mờ mịt. Chúng ta biết tu thì ngay giờ phút này chúng ta tỉnh táo sáng suốt, đường trước mở ra. Phàm hoặc thánh cũng đi con đường này, mà thánh thì khác:

Như nhau dọc mũi ngang mày,
Lòng phàm dạ thánh cách nhau ngàn trùng.

Cái chết đến mà các ngài cười các ngài vui. Cũng cái chết đến mình thì đau khổ.

Cho nên nói “Gì phàm, gì thánh? Sống chết ngay lúc này.” Ngay trong giờ phút thực tại này. Muốn được như vậy thì hàng ngày chúng ta phải quán chiếu. Sở dĩ Bồ-tát Quán Tự Tại không còn sợ chết nữa là vì không còn sợ hãi, chiếu kiến năm uẩn đều không cho nên vượt qua sự khổ nạn, vượt qua sự chết chóc. Còn mình chiếu kiến không được, năm uẩn mình thấy vẫn sờ sờ, đụng một chút là mình khóc la.

Trong thiền thoại có câu chuyện:

Một hôm trong đêm khuya thanh vắng, cái chuông nói với tượng Phật:

– Anh cũng làm bằng đồng, tôi cũng làm bằng đồng mà sao ai cũng đến đảnh lễ anh hết còn tôi thì không ai đảnh lễ?

Tượng đồng nói:

– Tôi suốt ngày ngồi một chỗ, ai sờ hay thọt lét tôi cũng không la. Ai khen ai chê tôi cũng ngồi yên bất động. Còn anh chỉ cần gõ nhẹ là anh la lên rồi.

Cho nên việc mình tu là đảm bảo chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa.

“Hỏi trong hỏi ngoài! Ai kia dẫn đi mất”

Nghe những câu chuyện chẳng hạn như chuyện ngày xưa Tổ Đạt-ma qua Trung Hoa, sau này các vị tăng đi hành cước đều hỏi “Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?” Hoặc nghe câu chuyện ngài Nam Tuyền chém mèo, mình suốt ngày đặt câu hỏi ngài Nam Tuyền chém mèo có lỗi hay không lỗi, có phạm vào nghiệp sát sanh hay không. Mình đã chạy theo con mèo ngài Nam Tuyền, bị nó dẫn đi mất mà con mèo của mình mình không chịu chăn. Mình không chịu nhìn lại con mèo của mình mà chỉ nhìn con mèo của ngài Nam Tuyền cho nên bị dẫn dụ đi mất.

Hỏi: Nhà con có một người dì 80 tuổi qua đời được một trăm ngày. Anh con ở chung với dì, bị bệnh lâu mà không đi khám, dì con mất được hai tuần thì anh mất. Đi coi thầy nói dì con chết nhằm cung càn, anh con cũng chết nhằm cung càn, nên tổ mai táng nói phải thiêu anh con rồi gởi hũ cốt vô chùa để cầu siêu bốn chín ngày, sau đó rải xuống sông để người đó không về bắt thêm người nhà đi. Rải xuống sông xong rồi anh con về nói với người chị thứ hai em lạnh quá cho em xin cái mền. Gia đình con không biết làm sao để giúp anh con.

đáp: Vạn vật vũ trụ có ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ thì con người cũng có ngũ hành. Tức là pháp giới vận chuyển như thế nào đó thì con người cũng thuận theo pháp giới vận chuyển để sống còn, nghịch thì không được: nghịch tắc tử thuận tắc sanh, tức là thuận thì sống mà ngịch thì chết. Từ đó có những nhà phong thủy giỏi ra đời chiếu theo cung mạch tức là tám hướng: càn, khôn, cấn, tốn, khảm, ly, chấn đoài nghĩa là khi tâm thiện thì pháp giới chung quanh đó cũng thiện gọi là chánh báo tốt thì y báo cũng tốt.

Chẳng hạn như chỗ tôi ngày xưa, hai mươi lăm chủ đất đến mua ở, người thì chết, người bị tai nạn, người bị tù, người thì con cái chém nhau, ở không được nên lần lần bán hết. Khi tôi đến thì người trong làng nói đất này rất cứng không ai ở được. Quả tình tôi đến tôi thấy đất đai khô cằn, thiếu sự sống. Bây giờ muốn tạo nên sự sống thì việc đầu tiên là tôi trồng cây, hằng đêm chúng tôi tụng Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Khi chánh báo tốt rồi thì tự nhiên vùng đó mưa thuận gió hòa, vì chánh báo tốt thì y báo sẽ tốt.

Cũng vậy, chúng ta đừng ngại chết ngày trùng về bắt gia đình mà chúng ta phải y theo lời Phật dạy. Mỗi con người chúng ta đi từ nghiệp, bệnh cũng từ nghiệp mà chết cũng từ nghiệp. Nghiệp do đâu mà có? Nghiệp do hoặc, hoặc là mê lầm từ xưa chúng ta tạo nghiệp, bây giờ ra hoàn cảnh khổ. Gia đình có người mất, đủ duyên thì còn mà hết duyên thì tan rã. Hiểu được như vậy thì bây giờ muốn cho người thân mình được an ổn khi chúng ta thấy giấc mộng như thế thì việc đầu tiên là mình in kinh, phóng sanh hồi hướng công đức lành này về cho người thân của mình, nhờ năng lực của quý thầy chú nguyện.

Một bàn tay vỗ không bao giờ kêu mà phải nhờ hai bàn tay. Hai bàn tay vỗ không lớn thì phải nhờ một trăm, hai trăm bàn tay vỗ chắc chắn sẽ kêu. Trong số một trăm, hai trăm chư tăng biết đâu có một người có nhân duyên với người đó. Không phải ai khai thị người thân của mình cũng thức tỉnh mà vị thầy phải có nhân có duyên với người đó. Kế nữa là vị thầy đó trong thời quá khứ đã từng phát đại nguyện làm việc này cứu giúp chúng sanh thoát qua biển khổ sanh tử khi chết thì ông làm mới được. Tức là phải cộng nhân, duyên, đại nguyện của vị thầy, nguyện lực của thầy và phần tu tập trong giờ phút thực tại đó thì người thân mình họ mới thức tỉnh, mới an trú vào sự tỉnh thức, an trú vào chánh niệm thì tức khắc họ vượt thoát chỗ đó.

Bây giờ cô về việc đầu tiên là phóng sanh, bố thí cho người nghèo, cúng dường, rồi ghi tên vào giấy gởi đến các thiền viện, các chùa nhờ quý Hòa thượng, nhờ quý thầy chú nguyện cầu siêu cho thân nhân mình được an ổn. Việc của mình là ráng tu tập hằng ngày, tụng kinh chẳng hạn kinh Địa Tạng, kinh Lương Hoàng Sám hoặc kinh Pháp Hoa, những bộ kinh đại thừa lớn để hồi hướng công đức lành này cho người thân.

Hỏi: Phẩm Thí Dụ trong kinh Pháp Hoa gọi là hòn ngọc trong chéo áo.

đáp: Trong kinh Pháp Hoa Đức Phật đưa ra câu chuyện:

Có hai người bạn thân, một người làm ăn giàu có, một người nghèo khổ. Một hôm người bạn nghèo đến thăm, anh bạn giàu đãi một bữa tiệc thịnh soạn. Thương bạn nghèo khó, muốn giúp mà sợ bạn không nhận, nhân lúc bạn say rượu nằm ngủ, anh bạn giàu cột viên ngọc quý vào chéo áo của người bạn nghèo. Hai mươi năm sau gặp lại, người bạn nghèo vẫn nghèo. Anh bạn giàu nói: “Ngày xưa tôi tặng anh viên ngọc quý cột trong chéo áo của anh mà sao bây giờ anh vẫn nghèo?” Anh nhà nghèo lật áo ra xem thì thấy viên ngọc.

Ở đây Phật ám chỉ mình, mình có viên ngọc vô giá, một kho tàng gọi là vô tận tạng, trong kho tàng này có đầy đủ hết tất cả mà không chịu nhận, mình lao ra bên ngoài nên vẫn là người nghèo khổ thiếu thốn, lang thang đi đầu đường xó chợ. Một hôm mình tu tập nhận ra được hòn ngọc thì mới hay ra rằng Đức Phật luôn luôn cho mình một viên ngọc vô giá, mà viên ngọc vô giá này từ nơi bản tâm, từ nơi Phật tánh, từ nơi tri kiến Phật.

Quý Phật tử muốn có một viên ngọc trong kinh Pháp Hoa thì phải nhớ lại bài kệ của ngài Phó Đại sĩ:

Đêm đêm ôm Phật ngủ,
Sáng sáng cùng Phật dậy.
Đi, đứng hằng theo nhau,
Mỗi mỗi cùng chung bước,
Không một phút chia lìa,
Nơi nào cũng sẵn có.
Muốn biết nơi Phật đi,
Chỉ chỗ nói nghe đó.

Tối ngủ mình ôm phiền não, ôm chuyện thị phi, chuyện hơn thua, ôm những chuyện lo buồn sướng khổ mà không chịu ôm Phật ngủ. Ngủ biết rằng mình đang ngủ đó là đang ôm Phật ngủ. Còn ngủ mà gác tay lên trán, không biết mai này ra sao, chừng nào mình giàu, chừng nào trúng số độc đắc… thì không bao giờ có viên ngọc. Viên ngọc trong chéo áo không chịu nhận mà mình toàn ôm những chuyện phiền não ngủ.

Hòn ngọc trong chéo áo lúc nào cũng có mà mình quên. Sơ Tổ Trúc Lâm nói một bài kệ:

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói ăn khát uống mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

Ở đời vui đạo mình cứ tùy duyên. Tùy duyên là gì? Sáng nay ăn cơm, bình thường cứ ăn cơm; sáng nay uống nước, bình thường cứ uống nước. Ăn cơm không chịu ăn mà nghĩ đủ thứ chuyện; uống nước lạnh không chịu uống, phải có nước ngọt, nước ép mới uống thì không có tùy duyên. Mệt không chịu ngủ mà suy nghĩ đủ thứ chuyện, cho nên không nhận được hạt ngọc trong chéo áo. Mình tu tập như thế nào đó ráng cố gắng nhận hạt ngọc trong chéo áo của mình mà Đức Phật trong kinh Pháp Hoa đã đưa ra ví dụ.

Đức Phật đưa ra một ví dụ nữa là chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa. Chàng cùng tử là người nghèo khổ, người nghèo khổ này lang bạt không những trong kiếp này mà vô lượng kiếp. Đức Phật đã nhắc nhở, chỉ dạy cho chúng ta đều có một viên ngọc vô giá. Viên ngọc này nằm trong sáu căn của mình, sáu căn thanh tịnh thì tức khắc hòn ngọc hiển hiện lên; sáu căn không được thanh tịnh thì viên ngọc biến mất.

Ai cũng có viên ngọc này mà phải ráng cố gắng để khám phá, để nhận ra. Cho nên trong tay ngài Địa Tạng Bồ-tát có viên ngọc, mình đừng nghĩ rằng Bồ-tát Địa Tạng mới có mà mình cũng có. Mình không nhận ra được cho nên mình vẫn là người cùng tử lang thang không biết bao giờ dừng chân lại để nhận ra viên ngọc này.

Hỏi: Gần nhà con có người này làm việc thiện rất nhiều nhưng hay đau yếu bệnh tật và làm việc gì cũng không như ý, còn người hàng xóm thì ngược lại nói những lời thô tục với gia đình và hàng xóm mà rất ít bệnh tật và làm ăn rất may mắn.

đáp: Vào thời Đức Phật, khi Đức Phật ra đời thì có những bậc thánh tái sanh trở lại trong cuộc đời này, trong đó có người xuất gia kể cả người tại gia. Đặc biệt người nam có cư sĩ Cấp Cô Độc, người nữ có nữ cư sĩ Visakha (Tỳ-xá-khư), là nữ hộ pháp đắc lực nhất thời Đức Phật. Khi mang thai được tám tháng, mẹ bà đến nghe Đức Phật giảng pháp, thì bào thai đó xoay chuyển hướng về Đức Phật chắp tay. Lớn lên Visakha được gả cho một người Bà-la-môn, ông này không bao giờ tin Đức Phật và thánh chúng, cho nên ông chưa từng bao giờ cúng dường.

Một hôm đang ăn cơm, bà Visakha nhìn ra cổng thấy một vị thầy tỳ-kheo đang ôm bình bát khất thực đứng khoảng chừng năm, mười phút mà cha chồng của bà không ngó ngàng gì hết, vì vậy Visakha nói: “Thưa thầy, thầy đi nơi khác khất thực vì cha chồng của con đang ăn những thức ăn thừa mà thức ăn này bị hư rồi.” Cha chồng rất tức giận, bởi vì ông đang ăn thức ăn rất ngon, thức ăn chỉ dòng dõi Bà-la- môn mới có, mà bà lại nói là thức ăn thừa, thức ăn thiu. Ông nói sẽ làm cho ra chuyện nếu không xong sẽ trả Visakha về gia đình.

Quý Phật tử biết thức ăn thừa là gì không? Chẳng hạn trong cuộc sống giữa đời thường này chúng ta làm việc được may mắn, tiền của nhiều là do phước lực của mình từ đời quá khứ. Từ đời quá khứ làm được, cho nên bà Visakha nói là thức ăn thừa, thức ăn thiu. Muốn không ăn thức ăn thừa, thức ăn thiu thì chúng ta phải biết bố thí, cúng dường, tạo các việc thiện pháp.

Ở đây cũng thế, nhìn trên mặt nổi thấy người này làm thiện, ăn nói nhỏ nhẹ, nói lời nhu nhuyến thanh tịnh mà lại hay bệnh tật, làm việc thiếu may mắn thì chúng ta phải biết rằng người hay bệnh tật không dính dáng gì đến việc bố thí cúng dường. Vì bệnh tật là do đời quá khứ chúng ta tạo nghiệp sát. Chẳng hạn như Tổ Quy Sơn năm đời làm vua, đại sư Giới Hiền mười đời làm vua cho nên ngài bị thấp khớp rất nặng do nhiều đời ngài làm vua, mà làm vua thì phải giết nhiều người. Hay bị bệnh tật là do trong đời trước chúng ta sát sanh. Nếu muốn bớt bệnh tật, chỉ có một con đường là chúng ta sám hối, phóng sanh. Còn việc bố thí cúng dường là việc khác.

Khi chúng ta làm việc gì thì có ba phần: một là hiện báo, hai là sanh báo, ba là hậu báoHiện báo là khi chúng ta làm việc gì nó trổ ra trong đời này hoặc là thiện hoặc là ác, chẳng hạn mình làm việc thiện pháp cộng với đời trước nữa cho nên đời này trổ ra liền. Sanh báo là chúng ta làm trong đời này mà mãi hai, ba đời sau mới có. Hậu báo là phải nhiều đời nhiều kiếp quả mới trổ ra.

Ví dụ trồng rau muống thì một tháng ăn, trồng giá thì một ngày đêm là ăn được. Nhưng giá, rau muống không làm nhà cửa được, đó gọi là hiện báo. Bây giờ chúng ta muốn trồng cây để làm nhà làm cửa được thì phải trồng cây căm xe, cây lim, cây gõ thì đó gọi là sanh báo, hậu báo.

Khi chúng ta tu tập tức là gieo trồng các việc thiện pháp, vun trồng cội đức là chúng ta trồng cây làm Phật, mà trồng cây làm Phật thì nhiều đời quả mới trổ ra. Cho nên Đức Phật phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, trải dài trong con đường sanh tử, tạo những việc thiện pháp rất nhiều thì mới đầy đủ một trăm pháp Ba-la-mật.

Ví dụ hai gia đình cùng buôn bán như nhau, đều cùng mở nhà máy xay gạo. Một năm trôi qua, hỏi anh thứ nhất trong một năm anh làm có dư dả gì không, thì anh này nói không dư. Anh thứ hai nói năm nay làm dư được hai trăm triệu. Nhà thứ nhất không dư bởi vì khi mở nhà máy xay gạo phải vay tiền ngân hàng cho nên phải trả lãi. Trong khi đó nhà anh thứ hai có tiền của cha mẹ để lại cho nên làm bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu. Việc này chúng ta thấy trong cuộc đời rất nhiều.

Chúng ta sống trong cuộc đời này Phật dạy không phải là một đời mà là ba đời: quá khứ, hiện lai, vị lai cộng lại.

Trong Sử Ba Mươi Ba Vị Tổ ghi: Vua nước Nam Ấn hiệu là Thiên-Đức nghe tin Tổ thứ hai mươi lăm (Bà-xá-tư-đa) sang cũng sửa sang xe giá ra đón tiếp, thỉnh Ngài về hoàng cung. Nhân vua có hai Thái tử, vị lớn là Đức Thắng thì thân thể mạnh khỏe mà tánh tình hung bạo, còn em thì hiền lành mà bệnh hoạn liên miên, sẵn dịp vua hỏi Ngài:

– Con tôi kính thờ Phật pháp, ưa làm việc lành, mà sao lại mắc bệnh kinh niên, vậy lẽ báo ứng lành dữ như thế nào ?

Ngài đáp:

– Bệnh của Thái tử là do công đức phát sanh. Song lý sâu xa nầy Đại-Vương phải khéo nghe.Phật dạy người có nghiệp nặng nơi thân, ví như bệnh nội thương quá nặng, uống thuốc không có công hiệu, sắp chết bệnh càng hoành hành. Nếu là bệnh nhẹ, gặp thuốc liền bớt, bớt rồi từ từ mạnh. Người nghiệp nặng cũng vậy, tuy có công đức mà không làm gì được, đến lúc gần chết nghiệp lại càng hiện. Nếu nghiệp nhẹ, làm các việc công đức, nghiệp trước liền hiện, trả xong sau sẽ thanh tịnh. Hiện nay Thái tử làm việc thiện mà bị bệnh lâu, hẳn là do làm các công đức nên phát ra nghiệp nhẹ nầy. Hiện nay tuy có khổ nhỏ, về sau sẽ an ổn. Kinh đã nói: “Nếu phải chịu nghiệp báo trong ba đường ác, nguyện đời này trả xong, để khỏi vào đường ác”. Vua còn nghi gì ư?

Vua Thiện Đức tín nhận, càng phát tâm làm phước.

Khi mình hiểu rồi thì cũng đừng trách cha mẹ sao không để của cải lại mà phải trách mình. Vì đời trước không biết tu cho nên đời này mình gặp những nghịch cảnh khốn cùng. Trong tinh thần này chúng ta phải dùng Tứ quán hạnh của Tổ Bồ Đề Đạt Ma.

– Báo oán hạnh: Hành giả tu đạo, trong khi bị các cảnh khổ bức bách nên nghĩ đây là do quả báo ác nghiệp đời trước thiêu đốt, nay ta cam tâm lãnh thọ không có sự oán thán. Khi tâm ấy sanh khởi, tất cùng lý tánh tương ưng, an tâm tu đạo.

– Tùy duyên hạnh: Tất cả chúng sanh vốn vô ngã , hết thảy theo nghiệp chuyển khổ nào cảm thọ ác quả báo danh dự, lợi dưỡng … tất do nhân đời trước cảm thành, hết duyên thời một vật hoàn không, được mất tùy duyên, tâm không tăng giảm, hỷ lạc không lay động, khiến thân hợp với đạo, gọi là tùy duyên hạnh.

– Vô sở cầu hạnh: Thế gian sống trong sự mê mờ, gặp cảnh đều sanh tâm đắm trước, việc ấy gọi là cầu, bậc trí thấu rõ tâm lý, an tâm vô vị, biết vạn vật đều không chỗ nguyện cầu, đây mới thật vô cầu tùy thuận đạo tu hành.

– Xứng pháp hạnh: Lý của tánh tịnh gọi là pháp, lý của các tướng đều là không, không nhiễm, không đắm trước, không bỉ, không thử. Bậc trí tin hiểu được lý này, thường xuyên xứng pháp để tu hành vậy.

Trang Tử kể câu chuyện: Có một ông lão rớt xuống vực thẳm, mọi người nghĩ ông đã chết, nhưng đến cuối nguồn thì thấy ông bơi lóp ngóp. Người ta hỏi:

– Ai rớt xuống đây cũng chết mà tại sao ông không chết? Ông nói:

– Thuận theo dòng nước nên không chết.

Tức là dòng nước xuống thì ông theo xuống, dòng nước nổi thì ông nổi theo lên. Thuận theo dòng nước cho nên ông sống, gọi là xứng với pháp mà tu, xứng với pháp mà làm. Khi hiểu rồi thì mình thấy là việc này cũng bình thường.

Qua phần này tôi nêu lên cho đại chúng thấy, khi người này nói thô tục với người hàng xóm và gia đình mà ít bệnh tật, gặp may mắn là do đời quá khứ người này tạo việc thiện pháp. Mình thắc mắc đời quá khứ tạo thiện pháp mà sao đời này không biết tu. Là do không quy y Tam bảo, không kết duyên lành với Tam bảo, quên thệ nguyện, quên đại nguyện, gặp hoàn cảnh bị dính mắc nên quên hết.

Khi chúng ta phát tâm Bồ-đề, phát tâm làm các việc thiện pháp, có thệ nguyện rồi thì mình đi tất cả các cõi đều có chư Phật, đại Bồ-tát theo bên mình nhắc nhở. Cũng giống như ngài Phó đại sĩ, ngài ở cung Trời Đâu Suất ngài xuống đây rồi ngài quên. Một hôm ngài đi trong rừng thì có ông tăng người Ấn kéo lại nói:

– Ông nhìn xuống hồ nước coi ông là gì?

Nhìn xuống hồ nước ngài giật mình, ngài thấy rằng ngài ở trên cung Trời Đâu Suất phát nguyện lớn xuống đây, vậy mà ngài quên. Vị Tăng nói:

– Ông đâu phải người thường đâu mà ông lăn lộn trong cõi đời này.

Ngài về bàn với người vợ tên là Thiện Huệ và hai người con, tất cả gia sản đem cho hết, cả gia đình lên núi tu, ba tháng sau hai vợ chồng và hai người con đều chứng đạo. Còn mình nhắc tới nhắc lui mà không chứng là do gốc mê mình nhiều quá nên bây giờ mình gỡ. Hiểu được như thế rồi thì bình thản.

Người tu như chúng tôi có những người tu rất là đắc lực mà gặp những việc không xứng ý, bệnh tật về thân hoặc hoàn cảnh bức ngặt. Nhưng Mạnh Tử nói “Trời muốn giao phó cho ông việc lớn phải làm cho ông khổ cái thân, lập cái chí, làm việc gì cũng nghịch ý ông rồi trời mới trao việc lớn cho ông.”

Người xưa nói:

Vô khảo đảo bất thành đại đạo.

Muốn lên thuyền Bát-nhã Như Lai,
Muốn cho thân được an lành,
Ác duyên trợ đạo chóng thành kim cang.

Mình không đi trong mưa thì không bao giờ biết lạnh, không đi trong gió sương thì không bao giờ biết cái lạnh của gió sương. Thiền sư Hoàng Bá nói:

Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bả thằng đầu tố nhất trường.
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Nghĩa là:

Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.
Chẳng phải một mai sương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương.

Tu mà muốn an lành thì không có, tu phải có những cái nghịch mà chúng ta vượt qua được thì mới thấy giá trị trong một năm hoặc hai năm mình tu. Vượt khỏi con đường trần lao này là việc chẳng thường, chúng ta cứ giữ lập trường tu, dầu ai nói ngả nói nghiêng mình vẫn tu. Hoa mai nếu không trải qua mùa đông thì làm sao có mùa xuân? Nhờ mùa đông nên mới có hoa thơm, có cánh mai của mùa xuân mà chúng ta hưởng. Trong suốt mười năm hoặc hai mươi năm khi chúng ta ngồi thiền đau chân, hôn trầm, khi dã dượi… đó là mùa đông đến. Lúc mình gục xuống ngủ thì mùa xuân không đến, nhưng khi vượt qua được những cảnh giới hôn trầm ngủ gục … thì lúc đó chúng ta mới hưởng được mùa xuân thanh bình.

Hỏi: Trong kinh Phật có dạy các loài hàm thức đều có tánh Phật. Vậy các con nhỏ nhít và cây cỏ có hay không?

đáp: Đức Phật dạy, các loài hàm thức, gọi là tứ sanh, đều có Phật tánh. Tứ sanh gồm thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, noãn sanh. Bốn loài này xem Đức Phật như cha lành: “tứ sanh như từ phụ”. Phật không nói cỏ cây có tánh Phật nhưng các loài hàm thức kể cả những con côn trùng nhỏ nhít cũng có tánh Phật gọi là Phật tánh. Cây cỏ không gọi là Phật tánh mà gọi là pháp tánhHữu tình gọi là Phật tánh, vô tình gọi là pháp tánh. Khi trở về Phật tánh tâm Phật của mình rồi thì mình nhìn ra vạn pháp cái gì cũng Phật, Phật đó không phải là pháp thân, mà là pháp tánh. Bởi vì khi tâm thanh tịnh thì nhìn tất cả từ cỏ cây, ngói gạch đều có bản thể chơn như nằm ở đó, cho nên nói tình và vô tình đều thành Phật đạo.

Trong thiền thoại có kể câu chuyện:

Thiền sư Chơn Quán tu về pháp môn chỉ quán. Khi ngộ đạo rồi ngài ra mở đạo tràng. Một hôm có vị tăng đến hỏi:

– Bạch Hòa thượng con nghiền ngẫm, con nghiên cứu suốt hai chục năm.

– Ông nghiền ngẫm nghiên cứu cái gì?

– Con nghiền ngẫm nghiên cứu chừng nào cỏ cây thành Phật.

Thiền sư Chơn Quán nói:

– Sao ông vô minh quá, ông bỏ hai chục năm chi uổng vậy. Tại sao ông không ráng tu tập và tự hỏi chừng nào mình thành Phật.

Vị tăng:

– Đúng đó Hòa thượng. Bây giờ con mới nghĩ ra, chừng nào con thành Phật?

Thiền sư nói:

– Cái đó chính là ông hỏi lại chính ông. Ông hỏi ông chừng nào thành Phật.

Ngay tức khắc ông đại ngộ.

Một vị tăng hỏi thiền sư Pháp Nhãn:

– Bạch Hòa thượng, chừng nào cỏ cây thành Phật?

Thiền sư Pháp Nhãn:

– Chừng nào trời sập!

Vị tăng hỏi lại:

– Chừng nào trời sập, Hòa thượng?

Ngài Pháp Nhãn:

– Chừng nào cỏ cây thành Phật.

Như vậy mình nghiền ngẫm nghiên cứu cỏ cây thành Phật để làm gì, mà chúng ta phải tu phải thắc mắc chừng nào mình thành Phật. Đó là điều cốt yếu cho người xuất gia, người tại gia.

Hỏi: Sao gọi là hữu tình không Phật tánh mà vô tình có Phật tánh. Đã là vô tình như ngói gạch, cỏ cây sao có Phật tánh, còn hữu tình là con người tại sao không có Phật tánh?

đáp: Câu này nằm trong Thiền sư Trung Hoa tập một. Có vị tăng đến hỏi ngài Bá Trượng “Thế nào là hữu tình không Phật tánh mà vô tình thì có Phật tánh?” Tôi nhớ ngày xưa khi vào Thường Chiếu, tôi còn trẻ, hai mươi ba tuổi. Một năm sau tôi về quê, năm đó tôi hai mươi bốn tuổi. Tôi ngồi trên xe ca trùng hợp lúc học sinh đi thi đại học về. Trên xe chỉ có mình tôi là người xuất gia mà còn trẻ, cho nên những cô gái trẻ và những anh thanh niên nhìn tôi chằm chằm. Tôi hỏi:

– Sao nhìn?

Một anh thanh niên trả lời:

– Xin lỗi thầy, con nghĩ thầy còn trẻ tuổi mà vào chùa tu thì chắc chắn rằng thầy bị thất tình!

Tôi trả lời:

– Đúng là tôi thất tình. Thất là mất, tôi mất tình cha, mất tình mẹ, mất tình người thân mới vào chùa được. Tôi biến sự mất tình này thành tình lớn, không những cho gia đình tôi mà cho tất cả mọi người. Còn các anh các chị sở dĩ không đi tu được vì có cái tình: tình cha, tình mẹ, tình người thân ràng buộc.

Hữu tình là có tình. Thấy nhà lầu mình cũng thích, thấy xe hơi cũng thích, thấy gì cũng thích cho nên có tình.

Mũi đắm các hương lưỡi tham vị,
Mắt mờ chúng sắc tiếng mê tai.
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm đường.

Chẳng hạn như chiều mình đi ngang qua quán nghe mùi gì thơm thì đứng lại ngửi, đi qua chỗ nào hôi thì bực, tức là lỗ mũi mình chạy theo mùi hương. Mắt mình chạy theo sắc, gặp cái gì đẹp thì nhìn. Chiều nay về đáng lý mình nghỉ ngơi nhưng vừa về nhà mở ti vi coi là có cái tình rồi, thì đúng là hữu tình không Phật tánh.

Vô tình là không có cái tình ràng buộc thì Phật tánh mới hiển lộ.

Hỏi: Con học hiểu Phật pháp rồi thì ở nhà dành thời gian tu tập, đâu cần thiết tham gia đạo tràng tu tập, chỉ gây thêm phiền phức có phải không?

đáp: Trong nghệ thuật sống có kể câu chuyện:

Có ông giáo sư về hưu, vì thương những đứa trẻ thất học trong làng, ông nhóm chúng lại để dạy học. Trong nhóm này có một em học rất giỏi, nhưng học một thời gian thì em không đến lớp của ông nữa. Ông tìm hiểu thì biết rằng em học sinh này học hiểu nhiều quá rồi nên không cần ông và bạn bè nữa.

Một hôm ông đến nhà thăm em vào lúc tuyết rơi nhiều, em nhóm lửa cho ông sưởi. Khi ngọn lửa cháy bùng lên, ông lấy một khúc củi để riêng một bên. Các khúc củi trong lò sưởi vẫn cháy bình thường, riêng khúc củi đem ra ngoài thì không tới năm phút là tắt ngấm. Nhìn khúc củi đã tắt ngấm, đứa trẻ quỳ xuống khóc: “Con hiểu lời thầy dạy.”

Cũng vậy, khi Phật tử đến thiền viện học hiểu, tu tập, có thể ngồi thiền được nửa tiếng hoặc một tiếng, mình tưởng việc của mình đã xong, nhưng khi ở nhà một thời gian ác pháp bắt đầu tăng trưởng. Cho nên người xưa có câu: “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn.” Mình ở nhà, tưởng xong việc rồi nhưng khi đụng chuyện còn sân hơn nữa. Nhiều khi ở nhà, mình có tâm ngã như thế này: “Mấy người đi chùa mà sân hận bực tức, tôi ở nhà mới giỏi.” Ngay trong giờ phút đó mình khởi niệm ngã mạn cống cao. Khi đến thiền viện, cọ xát tu tập mới biết mình là cái gì.

Ở biển có những hòn sỏi rất bóng, bởi vì ngày nào nó cũng bị những ngọn sóng đánh tới đánh lui. Hòn sỏi của mình góc cạnh nhiều mà không bị sóng đánh thì làm sao hết góc cạnh. Cho nên chúng ta phải đến thiền viện nghe pháp, tu tập, trưởng dưỡng đạo tâm.

Đức Phật xuống cõi đời này gọi là “Nhất Phật xuất thế, vạn Phật hộ trì”. Khi Đức Phật xuống cõi đời này, ngài Duy Ma Cật là cổ Phật ở phương Đông, các bậc Bô-tát lớn như: Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Đại Hạnh Phổ Hiền, Bồ-tát Quán Thế Âm,…các vị đều là cổ Phật đều thị hiện xuống để trợ giáo cho Đức Thế Tôn. Trong đạo tràng có một cô Phật tử ở Sài gòn rất siêng đi nghe pháp. Sư phụ giảng giờ nào cô cũng đi nghe. Cô nghe nhiều cô hiểu, đâu cần đi tới đây cho cực, nhưng mà nhờ cô đi thì cô kéo theo nhiều Phật tử khác. Như cô Thanh là huynh trưởng đạo tràng Phước Đức, cô ở nhà tu cũng được, tại sao cô đi cho cực? Nếu cô ở nhà, thì mọi người đi một thời gian nản ở nhà hết.

Bồ-tát thị hiện trong cuộc đời này, các ngài hiểu hết, nhưng ngài Tu-bồ-đề hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, đời sau có người an trụ tâm hàng phục tâm phải làm như thế nào?” Ngài hiểu nhưng ngài hỏi cho người sau, hỏi cho chúng hiện tiền ở đó. Các ngài biết các ngài vẫn hỏi, đó gọi là trợ giáo cho đạo tràng. Mình không trợ duyên trợ giáo thì mai kia mình sanh ra đời trở thành người sống cô độc. Quý Phật tử nhớ, cô độc khác với cô liêu. Cô liêu là không dính mắc các pháp, còn cô độc là thui thủi một mình.

Nên nói:

Thầy là đỉnh núi cô liêu ngàn đời tịch mặc

Trò là con sông dài cuồn cuộn chảy ra khơi.

Đức Phật dạy, bố thí cúng dường mà không kêu gọi người khác hùn vào thì đời sau mình giàu mà sống cô độc. Kêu người ta bố thí cúng dường mà mình không bố thí cúng dường thì đời sau quyến thuộc rất đông nhưng mình nghèo. Nếu bố thí cúng dường và kêu gọi người ta thì đời sau mình giàu có và quyến thuộc rất đông.

Khi một vị Phật ra đời thì vô lượng kiếp các ngài cũng giống quý Phật tử, cũng từng tham gia các đạo tràng, cũng từng tu tập. Sư Ông Trúc Lâm, Sư phụ Thường Chiếu các ngài đã gieo duyên rất nhiều với chúng sanh cho nên đạo tràng bây giờ rất đông.

Khi hiểu Phật pháp thì mình đến đây gọi là trợ duyên, trợ giáo. Chẳng hạn mình đến đạo tràng này, xuống phụ nấu cơm để cho ba trăm ông Phật vị lai ăn. Còn ở nhà mình nấu cơm thì chỉ có chồng con ăn, ăn mà có khi còn sanh tật rượu chè cờ bạc. Mình đến đạo tràng nấu nồi nước hay nấu nồi cơm cũng đều là công đức viên mãn. Mình đến đạo tràng làm việc vì Phật pháp vì cộng đồng đó là bản nguyện của mình thành tựu đại Bồ- đề. Có ông cư sĩ đến hỏi thiền sư Vô Tướng:

– Tại sao muốn làm Phật thì phải phát nguyện, phải đi đạo tràng, phải tu tập?

Ngài trả lời:

– Giống như một cội cây, rễ cây là chúng sanh, hoa là hạnh Bồ-tát, quả là hạnh Phật. Bây giờ ông muốn ra hoa kết quả thì ông phải tưới nước gốc cây mỗi ngày.

Cùng đạo tràng tu tập tức là tưới gốc cây. Mình muốn quả mà gốc cây không chịu tưới, thì chừng một hai tháng nó chết.

Người xưa nói “Muốn trở thành bậc long tượng, trước phải làm trâu ngựa cho chúng sanh cỡi”, muốn làm Phật thì phải vượt qua những chướng duyên, cho nên muốn làm bậc long tượng trong thiên hạ thì phải để lưng của mình giống như trâu, ngựa cho người ta cỡi. Người làm huynh trưởng, người dẫn dắt đạo tràng cũng có những phiền phức nhưng tại sao người ta vẫn vui vẫn làm? Vì nhớ thệ nguyện, đại nguyện mà người ta làm. Mình hiểu như thế thì không phải mình tu cho mình mà dìu dắt cho những người khác. Kinh Hoa Nghiêm Phật dạy: “Này các tỳ-kheo! Bồ-tát phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm một bậc đại y vương”, tức là làm thuyền trưởng đưa những con thuyền mắc cạn ra biển khơi.

Cho nên, có vị tăng đến viện Quan Âm gặp thiền sư Triệu Châu hỏi: Nghe danh cầu đá Triệu Châu đã lâu, đến đây chỉ thấy cây cầu gỗ.

Thiền sư Triệu Châu trả lời: Ông muốn biết cây cầu đá chăng?

Thế nào là cầu đá của Triệu Châu?

Độ lừa, độ ngựa, độ tất cả chúng sanh.

Hỏi: Sau khi tụng bài sám hối, đến phần phục nguyện có câu: “Cửa thiền thường nghiêm tịnh, toàn chúng mãi thuận hòa”, ở nhà con sửa lại “Toàn gia mãi thuận hòa” có được không?

đáp: Phục nguyện này của Sư Ông Trúc Lâm, rút tỉa trong phần Khoa Nghi Sám Hối của Vua Trần Thái Tông.

Quý Phật tử cố gắng phục nguyện cửa thiền thường nghiêm tịnh, bởi vì mình mong mỏi gia đình ra vào đều từ cửa thiền, tu tập được thanh tịnh giải thoát. Khi tâm thanh tịnh, Lục Tổ nói người này tuy ở nhà nhưng cũng giống như ở chùa. Còn chúng ta ở chùa mà nghĩ ở nhà thì cũng như ở nhà. Phục nguyện cửa thiền thường nghiêm tịnh, mình luôn luôn nhớ sáu cửa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều phóng hào quang từ cửa thiền. Mình mong mỏi gia đình từ trong cửa thiền trang nghiêm, thanh tịnh thì đúng lời Phật, đúng lời Sư Ông dạy. Đó là những lời tâm huyết mà Sư Ông đã đưa trong phần Khoa Nghi Sám Hối Sáu Căn.

Hỏi: Chúng con là Phật tử ở xa các thiền viện nhưng lại được nắm đường lối tu thiền của Hòa thượng Trúc Lâm rất rõ, nên con cũng biết điều tâm không theo vọng tưởng, ngồi thiền và xả thiền mà không thường xuyên. Vô chùa có gì vướng mắc con chỉ hỏi những người cư sĩ tu thiền lâu năm được không?

đáp: Quý Phật tử tuy ở xa các thiền viện mà cũng hiểu rõ đường hướng của Hòa thượng chỉ dạy, nhưng một hôm nào đó mình tu bị vướng mắc hoặc nghi ngờ gì đó, chúng ta hỏi những người đi trước mình, hỏi huynh trưởng, huynh phó, hoặc những người tu lâu năm. Có những người tu tập với Hòa thượng lâu năm, nếu chúng ta có thắc mắc mình đến hỏi cũng không sao. Nhiều khi gần thầy mình không dám hỏi nhưng huynh đệ thì dễ tâm sự hơn. Nếu huynh đệ giải quyết vấn đề cho mình mà trong đầu còn nghi thì mình chịu khó đón xe vào gặp sư phụ Thường Chiếu để giải mối nghi đó.

Hỏi: Thầy có dạy làm theo mục nữ trong kinh Địa Tạng nhưng con chưa được biết, con kính xin thầy từ bi hoan hỷ dạy cho con.

đáp: Trong kinh Địa Tạng diễn tả, người mẹ mục nữ trong cuộc sống đời thường bà tu tập với các Phạm chí Bà La Môn, phỉ báng con đường chánh pháp, không tin Phật pháp. Sau khi chết bà rớt trong đường khổ. Bà có một người con, cô đến Phật Giác Hoa Định Tự Tại để quán chiếu. Do năng lực của Đức Phật nên cô xuống được những chốn khổ đau nhất để gặp người mẹ khuyến khích tu tập.

Muốn cứu vớt những nhân duyên gia đình quyến thuộc thì quý Phật tử ráng tu tập giống như người mục nữ trong kinh Địa Tạng. Tất cả mọi người chúng ta có mặt trong cuộc đời này muốn cứu thoát thân bằng quyến thuộc thì chúng ta phải cố gắng tu tập để hồi hướng công đức lành này về cho những người thân của mình khi họ ra đi mà chưa biết Phật pháp. Mình phát nguyện lớn để gần gũi Tam bảo tu tập, gìn giữ phước đức trong tùng lâm. Phước đức của mình tăng trưởng thì khi hồi hướng công đức lành này đến cho người thân của mình rất có kết quả.

Hỏi: Trong lời Chí tâm phát nguyện có nguyện thứ tám là “Nghe suốt bỏ tam thiên”. Tại sao là nghe suốt bỏ tam thiên, xin thầy từ bi hoan hỷ chỉ dạy.

đáp: Trong mười hai nguyện của vua Trần Thái Tông, nguyện thứ tám là “nghe suốt bỏ tam thiên”. Trong kinh Pháp Hoa Đức Phật dạy rất rõ: “Tam giới vô an du như hỏa trạch.” Tam giới là tam thiên đại thế giới nằm trong lửa dữ thiêu đốt ngày đêm, dầu chúng ta sanh lên cõi trời Phi Phi Tưởng Xứ, tám mươi bốn ngàn đại kiếp trôi qua thì cũng rơi rớt trong con đường sanh tử luân hồi. Cho nên chúng ta học và nghe pháp mục đích là vượt thoát ba cõi, không dính mắc vào ba cõi: “tám nguyện nghe suốt bỏ tam thiên.” Cái đó giống như hòn bọt nổi trên biển cả mà chơn tâm bất sanh bất diệt của mình là biển cả. Chúng ta nghe pháp và tu tập để chứng nghiệm vào dòng giáo pháp để vượt thoát ba cõi. Mục đích trong lời phát nguyện là như thế.

Ở đây nói rõ thêm về con đường nhập thất, có một số Phật tử băn khoăn sợ nhưng mà tôi nói từ một ngày đến bảy ngày không có gì đâu, vào đó cũng giống như mình rửa bụi. Có một điều kiện là cư sĩ phải tu lâu năm, phải tha thiết. Nếu tâm ổn thì có thể vào nửa tháng hoặc hai mươi mốt ngày, cho nên đại chúng đừng có lo.

Chúng ta mở những cái thất thường là gần nhau chứ không xa. Một lần mở thường là ba hoặc sáu thất. Vào thất nam thì nam không, nữ thì nữ không, không có lẫn lộn. Chẳng hạn sáu cái thất kỳ này vào là sáu người nam, kỳ sau thì phải là sáu người nữ, chứ nam nữ vào thất gần kề nhau không tốt, kể cả người thân quyến thuộc của mình cũng không được. Đại chúng cố gắng duy trì tu tập thì mới có niềm tin với chánh pháp, chuyển hóa những nỗi khổ trong cuộc đời của mình.

Hỏi: Khi bị bóng người nhập vào thân thì phải làm cách nào để giải thoát?

đáp: Giống như nhà của mình bỏ hoang không có người ở thì người khác vào ở. Bởi vì tâm của mình:

Nghĩ vơ nghĩ vẩn không lúc nào dừng,
Mắc mứu tình trần kẹt tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén càng buộc càng bền,
Như bướm lao đèn tự thiêu tự đốt.

Mình nghĩ lung tung thì tâm hở trống và có cảm duyên với loài nào thì loài đó gá vào để ở hoặc đi đến chùa để tu. Bởi vì sinh thời những người này cũng có tu nhưng phạm vào những giới của nhà Phật nên không được làm thân người, không được làm những vị thần. Họ là những cái bóng vất vưởng rớt trong loài tinh mị chớ không phải loài ngạ quỷ. Đại chúng coi trong kinh Lăng Nghiêm, có những người già chết thành tinh gọi là tinh mị, họ gá vào bóng cây, nương vào cây cỏ. Khi biết họ gá vào mình thì mình đến chùa gặp chư tăng nhờ các ngài cầu siêu cho những thần thức đó, hoặc thường xuyên tu tập, sám hối, tọa thiền, thành tâm thì những loài đó cũng cảm được. Ở đây chúng tôi gặp rất nhiều trường hợp đó. Loài đó họ cũng rất có trật tự, chẳng hạn họ nương tựa về thiền viện để tu thì họ cũng giữ những quy chế trong thiền môn chứ không phải họ muốn đi đâu thì đi.

Nói chung gặp trường hợp này khi mình hiểu nguyên nhân rồi thì cố gắng đến chùa sám hối, tu tập, khởi lòng từ bi, phóng sanh hồi hướng thì từ từ sẽ hết.

Hỏi: Xin Thầy giảng cho hiểu ý nghĩa của câu “Đất trên đầu ngón tay và đất trên quả địa cầu” khi Phật hỏi đại chúng?

đáp: Một hôm khi đại chúng vân tập đầy đủ, Đức Phật lấy một miếng đất trên đầu ngón tay hỏi:

– Này các tỳ-kheo! Đất trên đầu ngón tay ta nhiều hay đất trên quả địa cầu này nhiều?

Đại chúng nói:

– Đất trên đầu ngón tay của Như Lai rất ít mà đất ở địa cầu rất nhiều.

Phật nói:

– Những người sanh trong thiện cảnh, thiên giới hoặc sanh làm người giống như đất trên đầu ngón tay, còn những người đọa xuống ba đường khổ thì nhiều giống như đất ở quả địa cầu.

Giống như kim cương không bao giờ hấp thụ đất, trên đầu mũi kim cương không bao giờ có đất, những người tin theo pháp tối thượng thừa, tin theo pháp đại thừa rất là hiếm. Tức là mình có chủng duyên sâu dày nhiều đời nhiều kiếp phát nguyện, thọ trì hoặc tu tập như thế nào thì đời này mình mới có nhân duyên ngồi thiền, biết sám hối, biết nghe pháp. Nghe pháp mà không có run sợ, chẳng hạn như nghe nói mình làm Phật mình vui, thích thú chứ không có sợ hãi thì gọi là có chủng duyên. Trong nhiều đời kiếp mình gieo hạt giống tối thượng thừa, chỉ cho một cảnh giới siêu xuất mà mình có niềm tin.

Thiền sư Đại Mai đến hỏi ngài Mã Tổ:

– Thế nào là Phật?

Mã Tổ nói:

– Tức tâm là Phật.

Ngài về núi tu ba mươi năm. Một hôm ngài Mã Tổ sai ông tăng đến nói:

– Bây giờ Hòa thượng không nói tức tâm tức Phật nữa mà nói phi tâm, phi Phật, phi vật.

Thiền sư Đại Mai nói:

– Mặc kệ ông già nói mớ ta cứ tức tâm tức Phật.

Khi trình Mã Tổ nói “Đại chúng! Trái mai đã chín”.

Tức là có niềm tin tâm mình là Phật thì chuyện đó rất hiếm giống như đất trên đầu mũi kim cương.

Hỏi: Trong mười hai lời nguyện của vua Trần Thái Tông thì thập địa là gì?

đáp: Thập địa tức là Thập địa Bồ-tátthập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng, tứ gia hạnh, thập địa, đẳng giác, diệu giác … có nghĩa là tâm luôn hướng đến con đường Bồ-tát đi. Trong lộ trình Bồ-tát phải đi phải qua con đường thập địa rồi lên đẳng giác và diệu giác tức là vô thượng chánh đẳng chánh giác nghĩa là thành Phật. Tâm phải luôn luôn thú hướng. Muốn đi trên con đường thập địa này chúng ta phải tu về pháp Lục độBố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ. Khi qua lộ trình đó thì con đường thập địa sẽ đến và từ con đường thập địa chúng ta bước lên con đường đẳng giác và diệu giác.

Lục độ tưởng đâu phải làm cho đủ hết các công hạnh nhưng trong sáu công hạnh đó chỉ một công hạnh mình làm đủ, làm tròn thì năm hạnh kia đến cùng một lúc. Tùy theo công hạnh của mình chứ không phải bắt buộc làm hết sáu công hạnh đó.

Ví dụ khi ngồi thiền thì bất thình lình có một con muỗi nhỏ đậu trên tay, mình nghĩ đập nó chết thì tội quá vì nó cũng là chúng sanh cho nên mình bố thí không đập nó là trì giới. Nó cắn mình đau mà chịu được là nhẫn nhục. Nhẫn nhục để vượt qua giờ ngồi thiền một tiếng gọi là tinh tấn. Trong tinh tấn có thiền định và trí huệ, cái gì thấy được những điểm đó. Lục độ Ba-la-mật thành tựu trong một con muỗi. Nhưng mình làm không được. Đạt đến chỗ vong ngã tức là quên cái ngã này rồi thì mình làm được dễ dàng. Chúng ta nắm được pháp thì thấy tu rất đơn giản.

Hỏi: Xin thầy giảng về ý thiền của bài kệ sau:

Người xây thành bằng đá,
Kẻ đào ao thả cá,
Ta chỉ là chiếc lá,
Phận của lá là sao?

đáp: Người xây thành bằng đá nghĩa là dầu cho xây bất cứ công trình nào, chùa tháp hay công trình thiên niên kỷ thì bản chất nó là thành, trụ, hoại, khôngsanh, trụ, dị, diệt.

Xây thành quách kiên cố bao nhiêu cũng không bằng đào ao thả cá phóng sanh. Đào ao thả cá phóng sanh cũng không bằng phát nguyện làm một chiếc lá, chiếc lá này lớn lên, già rụng xuống làm phân rồi đi lên làm chiếc lá, đi mãi trong cuộc đời này để nhiếp phục, hóa độ chúng sanh. Dầu cho xây thành bằng đá, đào ao thả cá không bằng phát nguyện là một chiếc lá đi vào trong cuộc đời này để làm vơi bớt nỗi khổ chúng sanh.

Hỏi: Sau khi chết gọi là linh hồn hay thần thức?

đáp: Có những tôn giáo nói có linh hồn nhưng nhà Phật không chấp nhận. Nói về người phàm, trong nhà Phật gọi là thần thức, người mới xuất gia thọ giới gọi là chơn linh, người tu lâu gọi là giác linh, nói khác hơn là cái biết hay cái tâm chứ không có nói linh hồn. Không ai sanh ra thần thức mà do nghiệp lực của chúng sanh kết tụ gọi là vô thủy vô chung, tức là không có ngằn mé. Cho nên nhà Phật bắt buộc mình luôn luôn sống trong giờ phút thực tại để mình chuyển hóa, làm cho tâm trong sáng, thanh tịnh để không rớt xuống những đường khổ, đó là việc cấp bách nhất.

Trong kinh Tương Ưng Bộ kể: Vào thời Đức Phật, có một thầy tỳ-kheo đến hỏi Đức Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, thế giới này là hữu biên hay vô biên, thế giới này còn hay là mất? Sau khi chết rồi thần thức sanh về đâu? Thần thức có trở lại không? Ai sẽ sanh ra thần thức?”

Phật im lặng không trả lời. Vị tỳ-kheo nói:

– Thế Tôn không trả lời những câu hỏi này, con sẽ cởi bỏ y áo con hoàn tục không tu nữa.

Đức Phật nói:

– Khi ông vào xuất gia với tôi, ông có nói là tôi sẽ phải trả lời những câu hỏi này, nếu tôi không trả lời thì ông không tu, ông có nói vậy không? Mà ban đầu vào đây ông hỏi tôi “Bạch Đức Thế Tôn cuộc đời này quá khổ, làm sao để chấm dứt sự khổ đau?” Tôi chỉ ông con đường, đó là Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nguyên nhân nào gây khổ? Tham sân si. Con đường đi là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chấm dứt con đường đó là có niết-bàn, chấm dứt con đường khổ đau. Tôi chỉ dạy cho ông chớ đâu có nói với ông về thế giới hữu vi vô vi, hay thần thức này ai sanh.

Nói cái đó ra thì mình cũng chạy theo những vọng tưởng điên đảo, mà ngay trong giờ phút thực tại này cái gì làm cho mình khổ để mình tu tập. Chấm dứt cái khổ, thì niết-bàn có mặt. Tinh thần của nhà Phật, nhà thiền không đưa mình vào chỗ viễn vông, mơ mộng không có chứng cứ.