Đạo Phật Đến Để Mà Thấy
ĐĐ.Thích Khế Định thuyết giảng tại
Thiền tự Đạo Viên Canada
Đức Phật đã dạy: “Gieo nhân nào gặt quả đó”. Ngày hôm nay quý vị được làm thân người, sáu căn đầy đủ thì phải biết rằng trong quá khứ mình đã gieo nhân rất tốt. Nếu không tiếp tục gieo nhân thì dù cho quý vị có đến chùa, được Thầy cầu chúc điều tốt lành mà quý vị còn có tâm sát sanh thì lời cầu chúc cũng vô ích. Nếu muốn được an vui thì phải khởi tâm từ bi.
Muốn có được tâm từ bi thì phải gieo nhân.
Có một vị Thừa tướng một hôm đến thưa với Thiền sư Mã Tổ: “Nên ăn thịt uống rượu hay không nên ăn thịt, uống rượu?”
Thiền sư Mã Tổ trả lời: “Ăn thịt uống rượu là duyên phận, còn không ăn thịt uống rượu là phúc khí”. Tức là nếu quý vị được ăn thịt, uống rượu đầy đủ là duyên phận của quý vị tốt. Nếu quý vị ở một xứ nghèo khổ, muốn ăn thịt, uống rượu cũng không có. Đó là do trong quá khứ đã gieo nhân xấu nên giờ chịu quả khổ đói kém.
Còn “Không ăn thịt, uống rượu là phúc khí”, có nghĩa là mình có mà mình không ăn hoặc giảm bớt, chẳng hạn như có ngày đáng lẽ quý vị định giết gà để ăn mà mình kiêng cữ không sát sanh (như mùng 1 hoặc ngày rằm), tức là có sự giảm bớt thì phúc của quý vị ngày càng tăng trưởng, tạo nhân lành để kiếp sau mình sinh ra trong cảnh yên ổn hơn ngày hôm nay. Cho nên chúng ta phải tạo dựng cho mình một cuộc sống có sức mạnh của lòng từ.
“Từ” là ban vui, “bi” là cứu khổ. Đức Phật thấy chúng sanh còn lăn lộn trong ba đường sáu nẻo, sống chết không biết đi về đâu nên Ngài khởi tâm từ bi, bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con thơ nên quyết tâm ra đi tìm đạo, thấy được con đường thoát khổ và chỉ dạy lại cho chúng sanh cũng ra khỏi cảnh khổ.
Tinh thần của Bồ Tát đạo luôn luôn lấy ba pháp làm tiêu điểm.
Một là “chúng sanh từ”, có nghĩa là theo cặp mắt của người giác ngộ thì thấy tất cả chúng sanh trong cõi đời này đều có nhân duyên nhiều đời từ kiếp quá khứ, hoặc làm cha, hoặc làm mẹ, hoặc làm anh em. Đức Phật có dạy: Đi cùng trên một chiếc thuyền hay chuyến đò đã có nhân duyên 500 kiếp, cho nên phải có nhân duyên rất sâu dày nên ngày hôm nay chúng ta mới cùng nhau ngồi đây nghe và học hiểu Phật pháp. Cho nên hàng Bồ Tát lấy “chúng sanh từ” làm tiêu điểm để đi vào cuộc đời này. Quý vị thử nghiệm một điều: Tại sao trong cuộc đời, nhiều khi mình khởi được tâm từ bi đối với con vật nhưng lại không thể khởi được tâm từ bi đối với con người, có khi cả với người thân của mình, thậm chí nhiều khi còn thù ghét, tật đố, ích kỷ. Sở dĩ như vậy là do chúng ta không có sức mạnh của lòng từ. Còn khi chúng ta có sức mạnh của lòng từ thì dù cho người đó có chỉ trích, đánh đập, hủy nhục mình, mình vẫn cười, an ổn sống trong cuộc đời này. Đó mới là người Phật tử chân chánh. Cho nên Phật pháp rất là thiết thực, mình học Phật pháp không phải là học suông mà học để cho mình có được sức mạnh của lòng từ.
Hai là “Pháp giới từ”. Theo cặp mắt giác ngộ của chư Phật, chư Bồ Tát thì tất cả chúng sanh đều là huyễn và tất cả các pháp cũng đều là huyễn. Bồ Tát vào cuộc đời này, biết các pháp là huyễn, chúng sanh là huyễn nhưng các Ngài vẫn khởi tâm từ bi, dùng sức mạnh của lòng từ để đánh thức, lay tỉnh mình khỏi cơn mê.
Ba là “Vô duyên từ”, tức là lòng từ không cần duyên cớ. Sở dĩ các Ngài bố thí, thấy đói liền cứu, thấy khổ liền giúp, làm hết tất cả thiện pháp mà không chấp, không trụ là bởi vì có lòng từ không duyên cớ. Sở dĩ các Ngài được như vậy là do có sức mạnh của lòng từ bi đã gieo nhân từ thời quá khứ. Còn mình nhiều khi bố thí, cúng dường cầu phước là mình có pháp để chấp, có pháp để trụ.
Trong Kinh nói: “Chư Phật trong mười phương đều chứng quả trong nhân đạo”, có nghĩa là Phật pháp tại thế gian, chẳng lìa thế gian mà giác ngộ. Lìa thế gian tìm quả Bồ đề giống như tìm sừng thỏ. Muốn thành Phật đạo, đừng ỷ lại vào việc đến chùa, tụng kinh, sám hối. Đến chùa gieo duyên với Tam Bảo cũng tốt, nhưng chỉ là tu với Phật, còn ra ngoài đời mới là tu thực sự. Ở chùa, quý vị tụng kinh, sám hối, ngồi thiền rất là thành tâm nhưng về nhà bị người thân nói ra nói vào mà quý vị nổi tham, sân, si thì Phật đạo khó thành, sau này cận tử nghiệp đến sẽ dễ chiêu cảm quý vị đến cảnh giới xấu.
Trong Kinh Duy Ma Cật: “Làm hết tất cả các việc phàm phu mà luôn luôn khởi niệm Phật đạo”, tức là khi lái xe hay khi nấu cơm, quét nhà, giặt giũ đều trong tinh thần chánh niệm, tỉnh giác. Muốn biết một người giải thoát hay không giải thoát thì thấy người đó sống trong cuộc đời giải thoát hay không giải thoát.
Đức Phật do sức mạnh của lòng từ bi đã độ thoát cho người cực ác như Ương Quật Ma La (giết người rất nhiều) hay người nghèo hèn như ông Ni đề (làm nghề hót phân).
Nhân địa tu hành Bồ Tát đạo: Bồ Tát thường dùng sức mạnh của lòng từ bi làm bổn nguyện, lấy thân mình làm cầu để độ cho tất cả chúng sanh, dù người đó là người thiện hay người ác. Bồ Tát vào cuộc đời đối với người thân hay người thù ghét, hủy nhục mình đều coi như bình đẳng, giống như cây cầu, có tình nhưng vô tình với tất cả các pháp. Quý vị cũng có thể có tình, thương hết tất cả mọi người nhưng trong tình thương đó vẫn lồng bản ngã của chính mình, không thâm nhập được tinh chất của con đường vô ngã, ai đụng vào mình thì dễ nổi sân, si.
Thiền sư Triệu Châu một hôm có một vị tăng đến hỏi:
“Nghe danh cầu đá Triệu Châu đã lâu, nhưng đến đây chẳng thấy cầu đá, chỉ thấy cầu khỉ”.
Thiền sư Triệu Châu nói:
“Ông chỉ thấy cầu khỉ, chưa từng thấy cầu đá”.
Ông Tăng hỏi: “Thế nào là cầu đá của Triệu Châu?”
Ngài nói: “Độ lừa, độ ngựa, độ hết tất cả mọi người”.
Cầu đá Triệu Châu, đó là tâm bình đẳng độ hết tất cả chúng sanh, cho nên các ngài vào cuộc đời này nhưng không bị cuộc đời này làm cho đau khổ. Còn mình làm thiện pháp mà có tâm chấp trước thì ai nói gì mình cũng đau khổ.
Trong Nhân địa Bồ Tát hạnh, Đức Phật cũng từng xả hết tất cả: đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân để bố thí, cúng dường. Sở dĩ Ngài làm được như vậy bởi vì Ngài có sức mạnh của lòng từ bi. Quý vị cũng có thể bố thí giống như Đức Phật ngày xưa.
Chẳng hạn có người chửi mắng, nhục mạ quý vị thì quý vị đừng duyên theo tiếng chửi mắng mà khởi lòng thương người đó đang nằm trong cảnh giới vô minh, nếu giờ mình chửi mắng lại thì không khác gì người đó cả. Tức khắc giờ đó quý vị đang bố thí lỗtai. Hoặc đi đến chùa hay chỗ đông người, nhìn thấy người mình không ưa, có thù ghét mà tâm bình thản, coi người đó giống như người thân của mình thì giờ phút đó mình đang bố thí cặp mắt (sau này ra đời cặp mắt như hoa sen). Trong cuộc sống, ai sanh ra cũng muốn mình xinh đẹp, nhưng không phải ai cũng được như ý, đó là do nhân địa tu hành ngày hôm nay, mình nói xấu người này, thị phi người nọ. Nếu như mình không nói xấu người này, người khác thì giờ phút đó mình đang bố thí lưỡi. Rồi trong cuộc sống, mình làm hết tất cả các việc thiện pháp mà không chấp trước, thì lúc đó mình đang bố thí tay, bố thí chân, bố thí tất cả mà không chấp trước tất cả. Bố thí bao gồm nội bố thí và ngoại bố thí.
Ngoại bố thí là bố thí tiền, tài, của cải mà nội bố thí là bố thí thân mình, làm hết tất cả trong tinh thần từ bi và trí tuệ.
Thực hành hạnh nguyện từ bi để làm sức mạnh trong cuộc sống đầy của cải vật chất. Trong cuộc sống giữa đời thường, nếu chúng ta không có sức mạnh, năng lực của lòng từ bi thì tâm thức mình sẽ luôn bị phiền não chi phối.
Trong Kinh Trung bộ số 21, Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ kheo, như khi những tên đạo tặc hạ liệt dùng cưa hai lưỡi cắt tay chân các ông. Tuy vậy, ngay khi ấy, người nào giữ tâm thù hận, vì lý do đó người ấy không thực hành lời dạy của ta.
Ở đây chư Tỳ kheo, các ông cần tu tập như sau: Tâm sẽ không lạc hướng, ta cũng không thốt lên lời ác mà chúng ta sẽ sống thân ái, bi mẫn với tâm thân thiện, không thù nghịch, chúng ta sẽ sống sung mãn toàn thể thế gian với tâm thuần thiện, bao la quảng đại, không căm thù, không sân hận, này các Tỳ kheo, đấy là các ông phải tu tập bản thân”.
Chúng ta là Phật tử có dám phỉ báng Phật không? Phật nói nếu người nào tu học Phật pháp mà không thâm nhập được nghĩa lý của Phật pháp, không hành theo lời Phật dạy thì người đó phỉ báng Như Lai. Nếu ai đó nói nặng lời với mình, ngay khi đó mình giữ tâm bình thản, không thù hận, không thốt lên lời ác thì lúc đó mình đang sống với tâm từ ái, là thực hành theo những lời Phật dạy.
Trong Kinh Trường bộ 1, Phật dạy:
“Tu tập đời sống tối thượng là cách hành trì của các bậc thượng nhân, sống đời từ bi bởi vì đây chính là cách sống tối cao ở đời, hoặc là những trạng thái tâm cao thượng có tên từ ái, tình thương vô hạn, bao la và đầy thiện chí. Đối với muôn loại hữu tình, bi mẫn với tất cả chúng sanh đang đau khổ trong bất an, hoạn nạn và mong được cứu giúp”.
Do đó, Đức Phật thường khuyến khích các đệ tử thực hành hạnh từ bi và Ngài luôn luôn nhấn mạnh đến con đường tu tập lòng từ. Nhờ phát triển lòng từ mà các đệ tử ngài có sức mạnh đi vào cuộc đời mà không bị cuộc đời làm cho đau khổ.
Toàn bộ giáo pháp của Đức Phật đều nêu lên sức mạnh của lòng từ bi. Nếu có năng lực của lòng từ bi, quý vị khỏi cần ai cầu chúc điều gì cả mà vẫn được mạnh giỏi, được an lạc. Còn cầu chúc hay mà quý vị không gieo nhân thì cũng không được như lời chúc. Gieo nhân tốt thì mới gặt được quả tốt.
Quý vị phải nhớ, đến chùa không phải là để xin. Phật không phải là một vị thần linh để ban phước, giáng họa cho ai mà Đức Phật là bậc thầy dẫn đường, chỉ cho mình biết đi con đường nào là con đường khổ, đi con đường nào là con đường an lạc và hạnh phúc, còn đi hay không đi là do chính mình quyết định.
Trong Kinh A Hàm, khi ngài A Nan bạch Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, nửa phần giáo pháp của Đức Thế Tôn nằm trong việc tu tập lòng từ.
Đức Phật dạy rằng: Không phải nửa phần mà toàn bộ giáo pháp của Như Lai.
Trong Kinh Pháp cú, Phật dạy: “Lấy từ bi và ôn hòa để thắng nóng giận, lấy hiền lành để thắng hung dữ. Lấy bố thí và lòng rộng rãi để thắng san tham. Lấy chân thật để thắng giả dối”.
Sở dĩ quý vị nóng giận là do mình không phát khởi được tâm từ bi. Nếu tâm từ bi sung mãn thì dù người đó nói nặng mình cũng bỏ qua. Cho nên những người hay nóng giận phải quán tâm từ bi thật nhiều để xóa bớt nghiệp nóng giận.
Trong Kinh Pháp cụ, Phật dạy:
“Vui thay khi ta sống
Không hận giữa hận thù
Giữa những người hận thù
Ta sống không hận thù”.
Tức là mình sống giữa những người tật đố, những người ghét mình mà mình không có hận thù, không có tật đố. Muốn được như vậy, mình phải phát khởi tâm từ bi thật rộng. Tinh thần từ bi đó có trí tuệ Bát Nhã, thấy đúng như thật.
Chiến thắng chính bản thân mình, chiến thắng sự nóng giận, lòng tham lam của chính mình thì đó là người có sức mạnh bậc nhất.
“Thắng ngàn quân địch chưa phải là chiến công oanh liệt nhất. Tự chiến thắng mình, đó mới là chiến công oanh liệt nhất”.
Phương pháp tu tập hàng ngày để chuyển hóa tâm sân hận thành tâm từ bi:
Trong Kinh A Hàm kể lại: Một hôm đi khất thực, Tôn giả La Hầu La được mấy đứa nhỏ chửi mắng. Lúc này La Hầu La khởi niệm hoàn tục, về nhà nối ngôi vua, sau đó sẽ giắt binh lính đến tàn sát làng này, đặc biệt là mấy đứa nhỏ. Đức Phật thấy được tâm niệm của La Hầu La bèn trách và bắt La Hầu La ngồi xuống dùng phương pháp sổ tức, theo dõi hơi thở và từng niệm xấu ác của mình. Sau khi thấy rõ được niệm xấu của mình thì quý vị mới chuyển hóa được niệm xấu thành niệm tốt được, còn mình sợ và trốn tránh thì làm sao mà chuyển hóa được.
Tối trước khi đi ngủ, chịu khó ngồi lại tịnh tâm nhìn lại ngày hôm nay mình đã làm điều gì xấu ác, ảnh hưởng đến những người chung quanh mình. Khi thấy được rồi thì phải phát nguyện từ nay trở đi con không làm điều gì xấu ác cho người khác nữa. Như vậy, chắc chắn khi ra đi mình sẽ sinh về cảnh giới lành. Trong lúc đi trên con đường Bồ Tát đạo, quý vị phải thực thi con đường chánh niệm, làm việc gì rõ biết mình đang làm việc đó, biết là đúng hay sai. Đó là “trạch pháp giác tri”, phân biệt rõ ràng thiện và ác.
Vì thế, tâm từ có đặc tính không luyến ái bất kỳ ai. Nó bao hàm một tình thân hữu không có nhục dục. Bởi vậy tình thương của Đức Phật trải rộng ra không chỉ có loài người, mà còn cho tất cả chúng hữu tình.
Như trong Kinh Tiểu bộ, Phật nói:
“Nguyện cầu an lạc chúng sanh.
Mọi loài tâm trí tốt lành vui tươi.
Cầu sao tất cả muôn loài,
Cao to yếu mạnh ngắn dài, nhỏ chung.
Dầu ta thấy được hay không,
Những loài xa vắng hay gần bên ta.
Những loài đã được sanh ra,
Hoặc chưa sanh thảy an hòa tâm tư”.
Trong Kinh A Hàm, Phật dạy tiếp:
“Này các Thầy Tỳ kheo, thật không dễ dàng tìm thấy một vị hữu tình nào ở trong tiền kiếp lại không phải là mẹ, cha, anh, chị, con trai, con gái các ông ở một kiếp quá khứ trong vòng luân hồi tái sinh vô thủy này”.
Có một ông Tăng trong pháp hội của Ngài Trí Khải đại sư, một hôm nhớ mẹ quá nên khóc. Ngài Trí Khải bèn nói: “Ông chỉ thấy được kiếp hiện tại là mẹ ông thôi, còn trong quá khứ lâu xa biết bao chúng sanh là cha, là mẹ của ông. Vô lượng kiếp về trước, cha mẹ ông rất là nhiều”. Lúc này ông Tăng tỉnh ngộ.
Sở dĩ mình đau khổ trong cuộc đời này là mình chấp chặt vào cha mẹ trong hiện đời, còn với cặp mắt giác ngộ của đức Phật thấy tất cả mọi người đều là cha, là mẹ của mình. Thấy như vậy, quý vị còn khởi niệm sân hận được không?
Trong Kinh Tăng chi bộ, Phật nói về mười một điều lợi ích của sự tu tập từ bi:
- Ngủ ngon
- Thức dậy thấy khỏe, nhẹ nhàng trong lòng (Người có tâm quảng đại, luôn bao dung, tha thứ thì ít bệnh hơn những người luôn cau có, cằn nhằn).
- Ngủ không có ác mộng.
- Được gần gũi và thân cận với nhiều người.
- Được thân cận loài phi nhơn và chim cá
- Chư Thiên ủng hộ, bảo vệ
- Không bị lửa, chất độc làm hại
- Dễ đi vào thiền định
- Nét mặt luôn trầm tĩnh
- Lúc chết không có mê mờ,
- Khi chết sanh vào cõi trời Phạm thiên.
Trong Kinh Như Thị ngữ, Đức Phật dạy: “Tất cả công đức mà ta thực hiện ở trên đời, góp lại cũng không bằng sự thực tập từ quán. Làm chùa, đúc chuông hay làm việc xã hội, v.v…, tất cả những công đức đó chỉ bằng một phần mười sáu công đức thực tập lòng từ. Cũng như khi nhìn lên trời, chỉ thấy trăng vào sao, và nếu ánh sáng của các ngôi sao hợp lại không bằng ánh sáng của mặt trăng”.
Tóm lại, sống trong cuộc đời này phải luôn luôn phát khởi lòng từ bi đối với tất cả mọi người, đó là năng lực, là sức mạnh để chúng ta sống trong cuộc đời này mà không bị cuộc đời làm cho đau khổ.