Diệu Chỉ Phật Tâm Tông
Thích Đạt Ma Khế Định
Mục Lục
- DẪN NHẬP
- MỤC ĐÍCH CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- TRÍ DỤNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- CHỖ CHỈ THÚ CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- ĐƯỜNG HƯỚNG PHẬT TÂM TÔNG
- Ý CHÍ HƯỚNG THƯỢNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- LỰC DỤNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- DIỆU LỰC CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- NĂNG LỰC CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- CÔNG ĐỨC CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- TRƯỞNG DƯỠNG VÀ NUÔI LỚN THAI THÁNH CỦA PHẬT TÂM TÔNG
- THIỀN ĐỊNH VÀ PHẬT TÂM TÔNG
- CỘI NGUỒN LÀ ĐÂY
Người tu theo tinh thần Thiền tông là cốt nhận ra được Bản tâm, thấy được Bản tánh của mình. Một khi nhận ra được Bản tâm, mới tin tâm mình “xưa nay là tâm Phật”, khi thấy được Bản tánh mới hay tánh mình “vốn tự thanh tịnh, vốn tự đầy đủ”.
Nhưng thử hỏi Tâm tánh ở đâu? Tâm tánh là gì? Tất cả người tu ai ai cũng đều thắc mắc vấn đề này, hoặc hỏi Tâm tánh ở đâu? Nơi nào? Thật không khác người cưỡi trâu tìm trâu, vác Phật cầu Phật, ở giữa dòng mà gào than khát nước, biết bao giờ thấy được Bản tâm.
Sao chúng ta không mạnh bạo như Thiền sư Huệ Hải:
Ban sơ Sư đến tham vấn Mã Tổ, Tổ hỏi:
– Từ đâu đến?
Sư thưa:
– Ở Việt Châu chùa Đại Vân đến.
– Đến đây tính cầu việc gì?
Sư thưa:
– Đến cầu Phật pháp.
Tổ bảo:
– Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy tìm cái gì? Ta trong ấy không một vật, cầu Phật pháp cái gì?
Sư lễ bái thưa:
– Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
– Chính nãy ngươi hỏi ta là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ cầu bên ngoài.
Ngay câu nói này, Sư nhận được Bản tâm.
Quả thật không ở đâu xa, chỉ cần chúng ta can đảm tin nhận thì nó sờ sờ trước mắt, bằng chúng ta chẳng tin nhận thì tìm mãi suốt kiếp. Bởi do chúng ta quá sức tưởng tượng: Chân tâm phải như thế này, thế nọ, vẽ vời tô điểm bộ mặt của Bản tâm, nên không nhận ra được Chân tâm thù diệu của chính mình nên nhọc nhằn hướng ngoại tìm cầu nắm bắt, khác nào như người cưỡi trâu tìm trâu, ở giữa dòng mà gào than khát nước.
Thật vậy, chúng sanh vốn sẵn có Phật tánh Chân như thường hằng bất biến, dẫu cho bị nghiệp lực kéo lôi khiến phải chìm nổi trong ba đường sáu nẻo, khi mang thân thú, khi làm thân người, hoặc lắm lúc làm người thiên giới … nhưng Phật tánh vẫn hằng hữu không vơi, không đầy, không mờ, không tỏ, lúc nào Phật tánh vẫn sáng suốt linh diệu, ứng tác ra muôn pháp, diệu dụng như hằng sa công đức. Cho nên Kinh nói: “Phật với chúng sanh vốn đồng một thể”. Thể ấy trùm khắp cả Tam thiên sa giới, nên một khi hành giả nhận ra được Bản tâm mình, thì dưới con mắt của hành giả Phật ngự ở khắp nơi, họ thấy rõ trong tâm địa sâu thẳm của chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai thanh tịnh tròn sáng. Bởi vậy, để cúng dường hằng hà sa số chư Phật, hành giả đâu cần phải vào tận cảnh giới chư Phật để dâng hoa, để xông đốt hương trầm nghi ngút, mà chỉ cần mỗi niệm, mỗi niệm hành giả phải luôn hồi quang phản chiếu lại mình. Lâu ngày chầy tháng huyền cơ bộc phát rõ được Bản tâm, mới tự tin tâm “xưa nay vốn đã có Phật”.
Hôm nay rảnh chút truân chuyên lại nhờ sự gia bị của mười phương chư Phật, Lịch đại Tổ sư, chúng tôi mạo muội mượn núi Phụng Hoàng làm thẻ tre thay giấy, tạm mượn nước hồ Tuyền làm mực – khêu ngọn đèn tâm nguyệt để viết bản luận nhỏ này. Ngõ hầu, gần là để báo đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của Hòa thượng Tôn Sư khả kính, xa là hoằng dương pháp môn Đốn giáo thượng thừa của mười phương đức Như Lai và chư vị Lịch đại Tổ sư.
Vì viết lần đầu, không thể tránh khỏi những điều sơ suất. Kính mong những bậc cao minh sáng mắt chỉ bày thêm. Chúng tôi thành thật tri ân.
Trúc Lâm đầu hạ Nhâm Ngọ
Kính đề
Đạt Ma Khế Định.
DIỆU CHỈ PHẬT TÂM TÔNG
I. DẪN NHẬP:
Thiền tông lấy sự truyền trì mạng mạch Phật Tổ làm tôn chỉ, tức là phương pháp “Dĩ tâm ấn tâm”. Tâm của Phật Tổ đã như thế, thì người được truyền đạo cũng phải khế hợp tâm cơ của Phật Tổ.
Như trường hợp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền tâm ấn cho Tổ Ma Ha Ca Diếp:
Kinh “Đại Phạm Thiên Vương Hỏi Phật Quyết Nghi” nói:
“Đức Thế Tôn ở trên hội Linh Sơn niêm hoa thị chúng. Lúc bấy giờ, trăm muôn trời người thảy đều không thấu suốt, riêng có Ngài Kim Sắc Đại Đầu Đà chúm chím mỉm cười. Đức Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp”.
Đây là cảnh giới ly ngôn trực tiếp biểu thị thể dụng Phật tánh, ngay đây chỉ cần hành giả dừng bước mọi toan tính mong cầu thì tức khắc cảnh giới thực tại có mặt. Do đó, chúng ta phải biết cảnh giới này chỉ có những con người bẩm chất thuần tịnh, huân tu nhiều kiếp mới có thể ngay cái khoảnh khắc đang là, hốt nhiên khế nhập Chân như giữa mình và Phật, hòa đồng vào cái nhất thể tuyệt đối. Thế nên cảnh giới thù diệu này Đức Phật muốn biểu thị cho chúng sanh thấy rõ không cần văn tự mà vẫn có thể trực tiếp ngộ nhập Chân như Bản thể.
Song với con mắt tuệ nhãn thuần tịnh, Đức Thế Tôn thấy rõ các đại đệ tử thọ pháp Thế Tôn huân tập đã lâu, đức Thế Tôn biết rõ các đệ tử mình căn cơ đã thuần thục nên khai thị pháp môn vi diệu này, khiến đốn ngộ vô sanh vượt thẳng đến Phật địa.
Như trong bài Chứng Đạo Ca, thiền sư Huyền Giác nói:
Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.
Nghĩa là:
Một bước nhảy vào đất Như Lai.
Một bước này chúng ta đừng nghĩ rằng sẽ có bước thứ hai, hoặc thứ ba mà một bước này chính là cảnh giới thực tại tối hậu siêu việt lý luận. Cảnh giới này chỉ có đến với những hành giả nào siêu thoát tán tâm vọng niệm nơi tâm thức. Và bằng vào cái trí tuệ Bát Nhã hành giả liền khai phóng một nguồn năng lực vào nội giới. Bấy giờ giữa cái thấy và cái bị thấy đồng thời có mặt trong giờ phút thực tại tối hậu.
Thế nên, nói đến Thiền là nói đến cảnh giới thực tại tối hậu, trong đó luôn luôn vắng bóng tính chất của ngã tánh, mà chỉ có thuần nhất ánh sáng Bát Nhã của Tự tâm hành giả. Do đó khi Phật Thế Tôn đưa lên cành hoa sen, ngài Đại Ca Diếp liền đốn kiến vào mảnh đất thực tại. Bằng vào cái thấy thuần tịnh này mà mãi mãi về sau trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn còn tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao cho Ma Ha Ca Diếp”. Một pháp môn này chính là tiêu biểu cho dòng thiền Tổ sư sống dậy. Và cũng chính duyên khởi này mà dòng phái Phật tâm tông đều y cứ vào “Dĩ tâm ấn tâm” làm chỗ cốt tủy truyền trao.
Như trường hợp Tổ Đạt Ma ấn chứng cho Tổ Huệ Khả chẳng hạn:
“Một hôm Huệ Khả thưa với Tổ:
– Bạch Hòa thượng, tâm con bặt các duyên.
Tổ bảo:
– Coi chừng rơi vào không.
Huệ Khả thưa:
– Rõ ràng thường biết làm sao rơi vào không được.
Tổ liền ấn chứng nói:
– Ông đã như thế, ta cũng như thế, mười phương chư Phật cũng đồng như thế”.
Thế nên nói đến Thiền là nói đến cái rõ biết ngay trước mắt bạn, không che đậy, không giấu diếm dẫu trong phút giây khoảnh khắc. Và ngay giây phút này toàn bộ cái biết luôn luôn khai phóng vào mảnh đất uyên nguyên nơi đương xứ. Hãy kiến chiếu vào tận nguồn tự thể của tâm thì tức khắc mảnh đất thực tại liền có mặt. Phật tánh của mỗi chúng ta ở trên mọi hình tướng tốt xấu, khen chê, thương ghét… Phật tánh ấy nó thường tại và tịch miên, tròn đủ. Song muốn biết nó ở đâu hãy ngay nơi sáu căn và tứ đại phản chiếu soi tìm vào tận căn rễ của chúng. Ánh sáng của Phật tâm trùm khắp tất cả, dẫu xuân qua hạ đến mà ánh sáng của Phật tâm chưa từng vắng mặt. Muốn được Phật tâm luôn luôn khai phóng ta hãy để thế giới nhị nguyên vắng bóng, hãy quên hết cả hai, siêu việt mọi ngôn từ hí luận cùng sự khái niệm truy cầu ý thức. Ở đó ta chỉ bắt gặp những nguồn năng lực Bát Nhã mà chính nó là tiêu điểm đưa ta đến ngôi vị Vô thượng giác. Nếu ngay đây ta không định vị mà hướng ngoại tìm cầu thì mảnh đất uyên nguyên đó vắng bóng. Vì thế Tổ Đạt Ma tuyên bố: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.
Do đó, Thiền luôn luôn nhắm vào cảnh giới thực tại tối hậu, bởi vậy Thiền đòi hỏi chúng ta phải nắm ngay đích điểm và tại đó đốn kiến vào chân lý tối hậu. Song một khi tâm thái ta mọi toan tính, tật đố, ích kỷ nổi lên thì tinh ma có mặt và định kiến gia tăng, thì Thiền sẽ biến mất mãi mãi trong mê lộ. Như Thiền sư Thạch Sương Khánh Chư nói: “Phải dứt hết tham ái, để miệng lên meo, trở thành mảnh lụa trắng tinh, một niệm muôn năm, như tro lạnh cây khô, như lò hương trong miếu cổ”.
Hãy mạnh dạn và đặt hết mọi hùng lực vào lời trên. Tu tập và hành trì như thế để cho thân tâm hoàn toàn tê liệt mọi sự cám dỗ tham ái đời thường. Một khi đạt đến trạng thái như lời nói trên thì sự tham ái dường như biến mất. Liền thật bất ngờ chúng ta sẽ nhận ra một niềm an lạc vĩnh cửu thật sự đến với ta. Bấy giờ tứ đại và ngũ uẩn không còn là vật chướng ngại nữa. Mọi toan tính của đời thường như tan biến vào thế giới Hoa tạng của chư Phật Thế Tôn. Đồng thời ánh sáng của ta cùng ánh sáng của mười phương chư Phật hòa diệu lại trong cảnh giới bất khả tư nghì.
Do đó, sự truyền thừa Phật tâm này tiếp nối theo nhau mãi mãi, đời này truyền sang đời khác, đồng một tôn chỉ duy nhất. Điều đáng chú ý là sự truyền thừa của Phật tâm tông đều lấy sự giác ngộ của người Thầy đối chiếu qua sự giác ngộ của người trò. Như trường hợp Lục Tổ Huệ Năng ấn chứng cho Tổ Nam Nhạc Hoài Nhượng.
“Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744) đến Tào Khê tham vấn Lục Tổ Huệ Năng.
Tổ hỏi: – Ở đâu đến?
Sư thưa: – Ở Tung Sơn đến.
Tổ hỏi: – Vật gì đến?
Sư thưa: – Nói một vật tức khắc không trúng.
– Lại có thể tu chứng không?
– Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.
Tổ bảo: – Chính cái không nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ngươi đã như thế, ta cũng như thế”.
Thế nên đạo Phật sở dĩ truyền trao chánh pháp không dứt tuyệt, là do tôn chỉ truyền thừa đã nói rõ trên đây. Tôn chỉ đã vững chắc, đạo pháp đã có người truyền thừa thì vạn thế sẽ lưu truyền từ đời này sang đời khác. Vì chánh pháp đã sáng tỏ nơi đời, mạng mạch Phật pháp cũng đã bủa giăng khắp chốn, những người hâm mộ tu thiền muốn đến chỗ cao siêu diệu viễn, đều phải căn cứ vào kinh pháp lưu truyền. Như Thiền sư Thần Hội nói kinh Kim Cang Bát Nhã là một bộ kinh có thể làm kim chỉ nam cho các bậc thiền giả.
Song nếu chúng ta có duyên lành chí lớn, đều có thể thọ trì “Chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” trong cuộc sống sinh hoạt đời thường.
Như trường hợp Thiền sư Bảo Tích:
“Thiền sư Bảo Tích, ở Bàn Sơn U Châu, nhân đi chợ thấy người mua thịt lợn nói với người bán thịt:
– Ông cắt cho tôi một miếng thịt ngon.
Người đồ tể buông dao, đứng khoanh tay nói:
– Này trưởng tử, miếng nào mà chẳng ngon.
Ngay câu nói Sư liền có tỉnh”.
Đây là tinh thần đốn kiến vào nội giới của sư Bảo Tích. Qua câu nói của người đồ tể, Sư thấy rõ pháp pháp đều là chân pháp, pháp pháp đều là thật pháp. Bởi do vô minh chấp trước nên chúng ta không nhận ra được tánh tri kiến như thật của chính mình. Từ đó chúng ta sanh ra bao thứ ảo tưởng ngon dở, tốt xấu, phải trái… nên mãi mãi trôi lăn trong biển khổ sanh tử. Giờ đây với con mắt thuần tịnh nhất như, chúng ta hãy khai phóng vào cảnh giới thực tại đang là, thì tức khắc mảnh đất uyên nguyên liền có mặt. Cũng như sư Bảo Tích qua bao năm tháng lăn lộn trong cuộc sống đời thường, mà ánh sáng Bát Nhã chưa từng khai phóng. Ngày nay do túc duyên lành huân tu nhiều kiếp chạm vật hiện hình, ngay tiếng mà thầm nhận nên Sư liền có tỉnh. Để rồi từ đây trên bước đường công phu tu tập Sư không còn thắc mắc hay nghi vấn nữa, mà trước mắt Sư giờ đây ánh sáng chân lý luôn tỏa rạng trong hào quang của mười phương chư Phật.
Thế nên, trong cuộc sống đời thường này, nếu chúng ta quyết tâm hạ thủ công phu tu tập, thì cảnh giới thực tại sẽ đến với chúng ta. Ta đừng tìm kiếm cảnh giới thực tại này bên ngoài mà vô ích, hãy đốn kiến vào nội tâm thì sẽ rõ biết ta là ai. Hãy thật sự đốn kiến vào mảnh đất thực tại thì hào quang của chư Phật liền hiện tiền.
Do đó, Lục Tổ nói:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ đề
Khắp tợ tầm thố giác.
Dịch:
Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa thế tìm Bồ đề
Giống như tìm sừng thỏ.
“Lần khác Sư ra cửa thấy người khiêng đám tang đi qua, người hát mướn lắc linh, xướng:
Vầng hồng quyết định về tây lặn,
Chưa biết hồn linh đến chỗ nào?
Dưới tấm màn hiếu tử khóc hu hu!
Sư chợt thân tâm nhẹ nhõm về đem việc ấy thuật lại với Mã Tổ, Tổ liền ấn khả”.
Đây là nhằm diễn tả cảnh giới ly ngôn thực tại tối hậu. Trong cuộc sống đời thường chúng ta luôn luôn chấp thủ chỗ đi, chỗ đến, nghĩa là trong tri giác của chúng ta luôn luôn chấp trước nơi chốn. Từ chỗ chấp trước đó mà bít lấp ánh sáng giác ngộ của chính mình. Thật ra cảnh giới tối hậu này chỉ có người trong cảnh mới biết. Tuy nhiên đứng về phương diện danh tướng, thì phải tạm ngôn từ mà diễn đạt lý đạo nên nói: “Văn dĩ tải đạo”. Song chỗ ngộ của Sư chính là cảnh giới thực tại tối hậu đang là trong phút giây thực tại.
Như chúng ta biết qua sự kiện này nhằm diễn tả pháp thân luôn luôn hiện hữu ngay khi hiếu tử khóc hu hu! Đó chẳng phải cảnh giới thực tại là gì? Tuy nhiên chớ lầm chấp cho sự đốn kiến vào mảnh đất thực tại là quá ư dễ dàng mà phải nhớ rằng:
Chớ nghe hu hu rồi lầm chấp
Quên rằng ôm ấp đã bao năm!
Bởi vậy người xưa dụng tâm đâu phải là một bề tọa thiền! Mà trong lúc đi, đứng, nằm đều luôn luôn tỉnh giác và kiểm soát nội tâm mình qua các hành động ngôn từ và ý nghĩ. Từ đó chúng ta khẳng định rằng Thiền tông chính là nền tảng của đạo Phật. Như khi xưa Tổ Ca Diếp nhân nhìn cành hoa sen mà đốn kiến vào tự thể của chính mình. Dẫu người xưa và người nay tuy cách xa nhau hằng bao thế kỷ mà chỗ thấy biết nhau cũng như “Hoa lưu động khẩu ưng trường tại”.
II. MỤC ĐÍCH CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Mục đích của Thiền tông là “kiến tánh thành Phật”.
Vì thế nói đến Thiền tông là nói đến sự khai ngộ. Khai ngộ là lẽ sống thực của Thiền, là sanh mạng tất yếu của Thiền. Nếu người nào chưa khai ngộ trực nhận ra được con người chân thật nơi mình thì chưa thật sự tham thiền, cũng như chưa tin chắc tâm mình là Phật. Thế nên không khai ngộ thì không phải là Thiền. Tuy nhiên khi nào chúng ta còn ý thức về sự khai ngộ vẫn còn là sự trói buộc miên man trong dòng sông ý thức.
Như Lục Tổ nói:
Tình còn một niệm ngộ
Sao lụy kiếp mê xưa.
Lại nữa mục đích của Thiền tông là dung hội các tôn giáo trở về chỗ duy nhất, như Thiền tông Trung Hoa vào đời nhà Tống dung hội “Tam giáo đồng nguyên” hay ở Việt Nam vào thời nhà Trần dung hội “Tam giáo đồng nguyên”. Vì sao? Vì dưới con mắt của người giác ngộ thấy rõ trong chiều sâu thẳm tâm thức của tất cả chúng sanh đều đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai không khác: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, mà trong kinh Pháp Hoa Bồ tát Thường Bất Khinh đã nói rõ: “Tôi chẳng dám khinh các ngài vì các ngài sẽ thành Phật”.
Như ngài Đạo Sinh cũng nói: “Nhất xiển đề tuy đoạn thiện căn vẫn có Phật tánh”.
Do đó, chúng ta thấy rõ bằng năng lực khai phóng tri kiến Bát Nhã vào nội giới, các Ngài thấy rõ trong tâm địa sâu thẳm của chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai thanh tịnh tròn sáng, đức tướng này cùng với mười phương chư Phật vốn bình đẳng nhất như tuyệt đối. Ở Thánh không tăng, nơi phàm không giảm. Song tại sao chư Phật quá khứ thì các Ngài đã thành tựu từ vô lượng kiếp, còn chúng ta vẫn chìm nổi lên xuống trong ba đường sáu nẻo? Khi làm thân thú, khi làm thân người, hoặc lắm lúc thì đọa lạc trong ba đường ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Chúng ta hãy chín chắn xem cho thật kỹ ở điểm này để rồi chúng ta gia công tu tập thiền định để không uổng phí một đời sống vô ích.
Như Thiền sư Duy Chiếu thượng đường dạy chúng:
Phật xưa nói: “Khi ta mới thành chánh giác chính thấy chúng sanh trên đại địa thảy đều thành chánh giác”. Sau, Ngài lại nói: “Sâu thẳm xa xôi không người hay đến”. Kẻ không kiến thức khéo đầu rồng đuôi rắn.
Sư liền xuống tòa.
Đoạn này thiền sư Duy Chiếu dẫn chứng trong kinh Hoa Nghiêm, vì trong kinh Hoa Nghiêm có nói rõ về điểm này. Kinh nói:
Lúc ấy, Đức Như Lai dùng thiên nhãn thanh tịnh không chướng ngại quan sát tất cả chúng sanh. Ngài quan sát xong bèn nói: “Lạ thay! Lạ thay! Tại sao chúng sanh ở trong thân có đầy đủ trí tuệ Như Lai mà không tự thấy biết? Ta phải dạy cho các chúng sanh ấy giác ngộ Thánh đạo, để chúng lìa hẳn sự trói buộc của vọng tưởng điên đảo, thấy đầy đủ được trí tuệ Như Lai ở trong thân họ cùng với Phật không khác”.
Tuy nhiên như thế, Ngài lại nói: “Sâu thẳm xa xôi không người hay đến”. đây mới là chỗ cho chúng ta nhắm đến để hạ thủ công phu tu tập. Tuy là chúng ta đồng với đức tánh của Phật, mà đồng ở Phật nhân, còn Phật quả thì phải trải qua công phu tu tập trong vô lượng kiếp.
Như Cổ Đức nói:
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Tạm dịch:
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió dừng sóng vẫn vỗ
Lý hiện niệm còn xâm.
Đây là một bài kệ của người xưa để lại răn nhắc cho hàng hậu học. Trong cuộc sống tu tập giữa đời thường, các Ngài đã chứng kiến không biết bao nhiêu hành giả thông tột lý thiền, song trên con đường hành hạnh Bồ tát đạo vẫn còn vấp ngã những chuyện thường tình của thế gian nào là: tài, sắc, danh, thực, thùy… đó là nỗi ám ảnh của các Tông sư luôn răn nhắc các hàng hậu học phải cẩn thận dè dặt. Chớ được một chút mà đã tự cho là đủ. Lỡ khi nghiệp duyên đến thì lấy gì chống đỡ.
Như thiền sư Dũng Tuyền Hân nói:
“Ta bốn mươi chín năm tại chỗ này còn có tẩu tác, bọn các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, còn người hạnh giải thì trong muôn người mới có một. Kiến giải, ngôn ngữ thảy cần phải cho thấu triệt, nhưng thức tình nếu chẳng hết thì tôi dám nói là hãy còn luân hồi. Sao vậy? Bởi vì thức lậu chưa hết. Ông chỉ cần sạch hết thức lậu thì lúc bấy giờ mới thực thành tự lập”.
Thế nên, mục đích của Thiền tông trước phải kiến tánh rồi sau mới khởi tu. Nghĩa là dạy chúng ta ngay nơi thân sanh diệt này nhận ra “Chân tâm thường trụ khắp pháp giới”. Cũng như tôn chỉ kinh Pháp Hoa nhằm khai thị ngộ nhập “Tri kiến Phật”. Song giai đoạn ngộ nhập “Tri kiến Phật” chưa phải là hoàn toàn thôi nghỉ mà hành giả còn phải gia công tu tập để triệt chứng Chân như Bản thể. Như Hòa thượng Bạch Vân Đoan nói:
“Cần phải ngộ mới được! Sau khi ngộ rồi, cần phải gặp thiện tri thức. Nhà ngươi nói: Ngộ là xong, đâu cần gặp thiện tri thức. Nếu ngộ rồi lại gặp thiện tri thức thì đang lúc ra tay làm phương tiện hẳn tự có đường xuất thân, chẳng làm mù mắt người học. Còn nếu chỉ ngộ được đầu cây cải khô thì chẳng những làm mù mắt người học mà khi chính mình cử động trước tiên phạm nhằm mũi nhọn bị thương tay”.
Như chúng ta đã rõ sở dĩ các Ngài luôn luôn cảnh tỉnh chúng ta là sau khi đốn ngộ rồi cần phải tiệm tu là có mục tiêu chánh đáng. Vì sao? Vì trong vô lượng kiếp sanh sanh tử tử chúng ta tạo không biết bao nhiêu nghiệp chướng nào là: tham dục, sân hận, si mê và ảo vọng. Cứ mỗi lần đọa lạc ta lại tiếp tục tạo nghiệp và cứ như thế ta cứ đi, đi mãi, càng quanh quẩn nhiều ta càng lạc lối thêm. Như vua Trần Thái Tông nói:
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.
Tạm dịch:
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày cách xa quê muôn dặm đường.
Do đó, ngày hôm nay tuy vào dòng trí yển hà, đốn kiến Bản tâm, song tập khí huân nhiễm từ vô thủy đâu phải một lần là xong việc, cần phải huân tu nhiều năm, nhiều tháng mới hoàn toàn lột sạch bản ngã thể nhập Chân như pháp tánh thường hằng viên miễn. Đến đây rồi mới mặc tình “Chèo nhịp sóng xanh, xướng khúc năm Nghiêu hòa nhạc thanh bình”.
Như Thiền sư Quy Sơn dạy:
“Có vị khách tăng hỏi Sư:
– Người đốn ngộ còn tu nữa chăng?
Sư bảo:
– Nếu người khi thật ngộ được Bản tánh thì họ tự biết, tu cùng không tu chỉ là lời nói hai đầu. Như nay có người sơ tâm tuy từ duyên được một niệm đốn ngộ chân lý nơi mình nhưng vẫn còn tập khí nhiều kiếp từ vô thủy chưa có thể liền hết, nên cần phải dạy hắn trừ sạch dòng thức tạo nghiệp hiện tại, tức là tu vậy. Không nên nói có một pháp riêng dạy hắn tu hành thú hướng. Từ nghe vào được lý, nghe lý sâu mầu tâm tự tròn sáng không có chỗ mê lầm, hiện thời dù có trăm nghìn diệu nghĩa thăng trầm, hắn vẫn ngồi mặc áo, tự biết tạo sanh kế”.
Nói tóm lại, chỗ lý chân thật không nhận một mảy bụi, trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp. Nếu được như vậy là một mình cầm đao xông thẳng vào, lòng phàm thánh sạch, hiện bày chân thường, lý sự không hai, tức như như Phật.
III. TRÍ DỤNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Thiền tông có chỗ diệu dụng rất sâu kín. Chỗ trí dụng của Thiền tông như rồng ẩn trong mây, như sư tử táng thân trong núi sâu rừng rậm. Các Ngài sau khi triệt chứng Bản tâm, đốn kiến vạn pháp rồi, thì tùy loại đồng sự nhiếp, hay “hòa quang đồng trần” như Tế Điên Hòa thượng là hình ảnh sống động nửa thực nửa hư, như có như không của một người đã đạt đỉnh cao của tâm thức, thanh thản vân du đây đó hoặc tùy duyên hóa độ chúng sanh.
Như qua bài kệ này ta sẽ thấy rõ sức sống tâm linh của Ngài đã đạt đến trình độ sắc sắc không không ảo ảo huyền huyền như thế nào.
Hòa thượng Tế Điên ca:
Tiếc thay người đời chẳng biết không
Mê hoa đắm rượu tỏ anh hùng
Nhọc nhằn rốt cuộc về chầu Tổ
Số hết đến kỳ giũ tay không
Khéo léo nào hơn mèo bắt chuột
Thời gian thấm thoát tợ tên bay
Thảng như lực kiệt tinh tấn hết
Thây chết đành vùi chốn huyệt sâu
Suy đi nghĩ lại tỏ tường
Namkha giấc mộng cũng dường ấy thôi!
Gấp vội vội, Tây lại Đông
Loạn cào cào, vinh với nhục
Tơ lơ mơ, vùn vụt đã năm canh
Trăm năm cuộc thế xoay vần
Lên voi xuống chó nhọc nhằn mộng thôi!
Tỉnh ra nào có ai đâu
Vui buồn cảnh mộng chỉ là rỗng không.
Hay là:
Thầy tu đâu có luyến gia môn
Mây nước là nhà tịch diệt tôn
Hoa huệ sáng ngời in lối đạo
Thuyền nan một lá thảnh thơi hồn!!!
Lại nữa, các vị tu theo tinh thần Thiền tông có nhãn quan tự tại, nên tuy sống trong luân hồi mà không bị dính mắc trong luân hồi, ở trong sanh tử mà không bị sanh tử trói buộc; ở trong danh lợi, tài sắc, quyền uy, cung vàng, điện ngọc… mà coi như đôi dép rách, dám bỏ hết tất cả để vào rừng sâu núi thẳm hạ thủ công phu tu hành cho đạt đến quả vị Chân tâm thường trụ. Các vị này đều thành tựu ngôi Bảo giác. Các vị này luôn luôn “tùy duyên mà bất biến, bất biến mà tùy duyên” như trường hợp Sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông qua bài “Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca” nghĩa là “ Bài ca thành đạo ở cảnh u tịch của núi rừng”.
Sinh có nhân thân
Ấy là họa cả
Ai hay cốc được
Mới ốc là đã
Tuần này mà ngẫm
Ta lại xá ta
Đắc ý cong lòng
Cười riêng ha hả
Công danh chẳng trọng
Phú quý chẳng màng
Tần Hán xưa kia
Xem đà nhàn hạ
Yên bề phận khó
Kiếm chốn dưỡng thân
Khuất tịch non cao
Náu mình sơn dã
Vượn mừng hủ hỉ
Làm bạn cùng ta
Vắng vẻ ngàn kia
Thân lòng hỉ xả
Thanh nhàn vô sự
Quét tước đài hoa
Thờ phụng Bụt trời
Đêm ngày hương hỏa
Tụng kinh niệm Bụt
Chúc Thánh khẩn cầu
Tam hữu tứ ân
Ta nguyền được bả
Niềm lòng vằng vặc
Giác tính quang quang
Chẳng còn bỉ thử
Tranh nhân chấp ngã
Trần duyên rũ hết
Thị phi chẳng hề
Rèn một tấm lòng
Đêm ngày đon đả
Ngồi cong trần thế
Chẳng quản sự thay
Vắng vẳng ngàn kia
Dầu lòng dong thả
Học đòi chư Phật
Cho được viên thành
Xướng khúc vô sinh
An thiền tiêu sái
Ai ai xá cốc
Bằng huyễn chiêm bao
Xẩy tỉnh giấc hòe
Châu rơi lã chã
Cốc hay thân huyễn
Chẳng khác phù vân
Vạn sự giai không
Tựa dường bọt bể
Đem mình náu tới
Cảnh vắng ngàn kia
Dốc chí tu hành
Giấy sồi vó vá
Lành người chăng chớ
Dữ người chăng hay
Ngậm miệng đắp tai
Hề chi họa cả
An thân lập mệnh
Thời tiết nhân duyên
Cắt thịt phân cho
Dầu là chim cá
Thân này chẳng quản
Bữa đói bữa no
Địa thủy hỏa phong
Dầu là biến hóa
Pháp thân thường trụ
Phổ mãn thái hư
Hiển hách mục tiền
Viên dung lõa lõa
Thiền tông chỉ thị
Mục kích đạo tồn
Không cốc truyền thanh
Âm hưởng ứng dã
Phô người học đạo
Vô số nhiều thay
Trúc hóa nên rồng
Một mai là họa
Bởi lòng vờ vịt
Trỏ Bắc làm Nam
Nhất chỉ đầu thiền
Sát-na hết cả.
Kệ rằng:
Sống yên giữa cảnh lặng lòng không
Gió mát hiu hiu lọt bóng thông
Dưới gốc, giường thiền, kinh một quyển
Thanh nhàn hai chữ đáng muôn đồng.
Lại nữa, các bậc Tông sư tu theo tinh thần Thiền tông là sau khi triệt chứng Bản tâm xuyên suốt muôn pháp, các Ngài có cái nhìn thẩm thấu bằng vào tánh tri kiến Bát Nhã chớ không có cái nhìn phàm phu phân biệt tà kiến như chúng ta nữa. Từ thân hành động, lời nói, ý nghĩ đều là đạt đến trạng thái nhu nhuyến thanh tịnh. Các Ngài tuy sống giữa phố thị đầy ắp sự náo nhiệt mà chẳng khác nào ở trong cảnh giới thuần tịnh A-lan-nhã. Vì sao? Vì các Ngài đã vô sự với tất cả muôn hình vạn tượng, vô sự với tất cả để trở về với tất cả. Trở về là trở về với trời đất, với cỏ cây, hoa lá, suối nguồn… và với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để như mọi người thấy trăng là trăng, nước là nước.
Như vua Trần Thánh Tông nói:
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
Kim niên du thắng, tích niên du.
Tạm dịch:
Trăng vô sự soi người vô sự
Nước vẻ thu ngậm trời vẻ thu
Bốn biển đã quang trần đã lặng
Chuyến đi này hơn chuyến đi xưa.
Thật vậy, chừng nào trong tâm thái của chúng ta mọi toan tính hận thù, ích kỷ, tật đố, ghen ghét lắng đọng, thì đối với tất cả muôn sự ta mới thật sự vô tâm vô sự. Song trong Tự thể vô tâm vô sự này là chúng ta như ngu như ngơ, si si ám sám không còn biết rõ muôn sự muôn vật thế nào! Mà tâm vô tâm vô sự ở đây chính là một cuộc hành trình trở về, mà trở về là để nhập cuộc, nhập cuộc là nhập vào cái trật tự, tự nhiên như nhiên đã có mặt từ vô thủy vô chung của pháp giới ấy.
Trong sự trật tự ấy, chúng sanh và Phật vốn đồng một Tự thể bình đẳng nhất như tuyệt đối, do đó một hòn sỏi, một cọng cỏ, một chiếc lá, một con kiến, một con chim… cũng đều là một vô sự nên vô vi. Song muôn pháp này vô vi nên bình đẳng nhau trong pháp giới tự tại vô ngại nào là: nước chảy, gió thổi, mây trôi, trăng trong, hoa nở … Tất cả muôn hình vạn tượng đều dung thông nhau nên vô ngại và tự tại, không phải tự tại ở một cảnh giới cao siêu nào, mà tự tại ngay trong giờ phút thực tại, ngay tại đây và bây giờ. Thực tại ấy chỉ có mặt khi nào tâm thái của chúng ta vắng bóng lòng vị kỷ và chấp ngã, thì thực tại ấy mới hiển bày trong ta và pháp giới. Ấy mới chính là dòng sông vĩnh cửu đã có mặt từ vô thủy đến vô chung, vì dòng sông ấy không có sự bắt đầu và kết thúc. Nếu dòng sông ấy có cái bắt đầu và kết thúc thì dòng sông ấy chưa phải là dòng sông vĩnh cửu trong cái đang là hiện hữu. Tâm thái vô tâm vô sự của chúng ta đâu khác gì dòng sông ấy. Không bắt đầu không kết thúc và siêu việt cả không gian, thời gian muôn thuở.
IV. CHỖ CHỈ THÚ CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Nói đến đạo Phật là nói về con đường thực nghiệm, thực chứng trong quá trình gia công tu tập, để gạt bỏ những cù cặn của dòng tâm thức, do đó Phật giáo hướng dẫn hành giả hiểu rõ chỗ chỉ thú của từng Thừa mà người tu Phật sẽ kinh qua:
– Như người tu theo Nhân thừa thì chỗ chỉ thú sẽ được làm người.
– Người tu theo Thiên thừa, chỗ chỉ thú sẽ sanh về các cõi trời.
– Người tu theo hạnh Thanh văn, chỗ chỉ thú sẽ đạt đến quả vị A-la-hán.
– Người tu theo hạnh Duyên giác, chỗ chỉ thú sẽ thành tựu Phật Độc Giác và quả Phật Bích Chi.
– Người tu theo hạnh Bồ tát, chỗ chỉ thú tu pháp Lục độ vạn hạnh, cuối cùng khi viên mãn sẽ thành tựu Vô thượng Chánh giác.
– Riêng về Thiền tông thì chỗ chỉ thú khác biệt hơn: “Thiền tông không chấp Phật để mong cầu, chẳng chấp pháp để mong cầu, chẳng chấp Tăng để mong cầu”.
Như kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Nghĩa là: Phàm cái gì có tướng đều là giả dối, nếu thấy các tướng mà chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai.
Thiền sư Trúc Nguyên cũng nói: “Ngộ suốt Tâm tông của chư Phật, thấu triệt việc bổn phận của Nạp tăng, việc làm và sự hiểu biết xứng hợp nhau, mắt trí tuệ sáng tỏ tròn đầy, đó là chỗ chỉ thú của Thiền tăng. Ba thời bình đẳng một đạo rỗng rang. Khắp mười phương thế giới là toàn thân của Sa-môn, muôn sự muôn vật là Thể tánh kim cương, không hoại không tạp, không thiếu không dư. Trên không có chư Phật để thành, dưới chẳng có chúng sanh để độ, bình ổn nhàn hạ, thân tâm nhất như, chẳng còn có việc gì. Thế mới gọi là chỗ chỉ thú của bậc đạo nhân. Đến chỗ này không có người thứ hai, cũng không có niệm thứ hai. Tình chấp về phàm thánh chân vọng đều hết sạch”.
Thế nên chỗ chỉ thú của Thiền tông là “Minh tâm kiến tánh”, do đó người tu theo tinh thần Thiền tông là cốt khai phóng ánh sáng Bát Nhã từ quê hương tịch thần của chính mình, thì mới tin chắc tâm mình xưa nay là Phật, dẫu cho ai nói ngả nói nghiêng mà tâm họ vẫn nhất như bình đẳng một đạo thanh nhàn. Người như thế mới dám:
Đơn đao đột nhập Vô thượng giác
Tam độc bát phong không chướng ngăn
Chỉ một chân như tam muội ấn
Tiến thẳng vào trong nhà pháp thân.
Như trường hợp Thiền sư Đạt Mai Pháp Thường chẳng hạn:
“Sư họ Trịnh, quê ở Tương Dương, lúc nhỏ xuất gia theo Thầy ở chùa Ngọc Tuyền, Kinh Châu. Ban sơ đến tham vấn Mã Tổ, Sư hỏi:
– Thế nào là Phật?
Mã Tổ đáp:
– Tức tâm là Phật.
Sư liền đại ngộ.
Đời Đường khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-805TL), Sư đến núi Đại Mai cách xa huyện Ngân bảy mươi dặm, kết cỏ làm am, ở ẩn trong rừng mai.
Mã Tổ nghe Sư ở núi bèn sai một vị tăng đến thăm dò. Tăng đến hỏi Sư:
– Hòa thượng gặp Mã Tổ được cái gì, về ở núi đây?
Sư đáp:
– Mã Tổ nói với tôi “Tức tâm tức Phật”, tôi bèn ở núi này.
– Gần đây Mã Tổ lại nói: “Phi tâm phi Phật”.
– Ông già mê hoặc người chưa có ngày xong, mặc ông “Phi tâm phi Phật”, tôi chỉ biết “Tức tâm tức Phật”.
Vị tăng trở về thưa lại Mã Tổ những lời Sư nói. Mã Tổ nói với đại chúng:
– Đại chúng! Trái mai đã chín.
Từ đây nhiều vị Thiền khách đến tham vấn Sư”.
Lại nữa, người tu theo tinh thần Thiền tông chỉ thẳng tiến đến biển trí tuệ Bát Nhã (Nhất thiết chủng trí). Sau khi nhận chân được tánh tri kiến Bát Nhã rồi thì đối với sanh tử không nhàm chán, Niết bàn chẳng chấp thủ, chỉ tùy loài đồng sự, hoặc làm vua, hoặc làm quan, hoặc làm Bà-la-môn, hoặc làm thầy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc lắm lúc làm Đế thiên cai quản các tầng trời Lục Dục. Như câu chuyện Thiền sử thầy trò Đạo Ngô và ngài Tiệm Nguyên chẳng hạn.
“Thiền sư Trọng Hưng Tiệm Nguyên ở Đàm Châu. Nơi Đạo Ngô, Sư làm Thị giả. Một hôm Sư theo hầu Đạo Ngô điếu tang nhà đàn việt. Sư vỗ quan tài nói:
– Sanh ư? Tử ư?
Đạo Ngô nói:
– Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói.
– Vì sao chẳng nói?
– Chẳng nói! Chẳng nói!
Trên đường về Sư thưa:
– Hôm nay Hòa thượng phải vì con nói. Nếu chẳng nói, con đánh Hòa thượng.
Đạo Ngô nói:
– Đánh thì mặc cho ông đánh, nói tức chẳng nói.
Sư liền đánh.
Khi về đến viện. Đạo Ngô bảo Sư:
– Ông nên từ giã đi, e Tri sự biết được việc này không tốt.
Sư lễ bái từ giã ra đi, vào ở ẩn nơi thôn việc trải qua ngót ba năm. Một hôm chợt nghe đồng tử tụng kinh Phổ Môn đến câu “Nên dùng thân Tỳ-kheo được độ tức hiện thân Tỳ-kheo”, bỗng nhiên Sư đại ngộ, bèn đốt hương lễ bái nói: “Rõ thật lời của Tiên sư để lại trọn chẳng hư dối, tự ta chẳng hội, lại oán trách Tiên sư”.
Trong kinh Phổ Môn đức Phật nói rõ về năng lực thần biến thị hiện của Bồ tát Quán Thế Âm. Chúng sanh mong muốn có La hán thì Ngài hiện thân La hán, chúng sanh mong muốn Bích chi Phật thì Ngài hiện thân Bích chi Phật, hoặc làm Phạm Vương, Đế Thích, Thiên đại tướng quân, Tỳ-sa-môn Thiên vương, hoặc làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… mà để độ chúng sanh thoát ra khỏi con đường sanh sanh tử tử. Đây là bổn phận của mỗi hành giả công hạnh sâu dày tùy theo đại sự nhân duyên. Pháp này tuyệt đối siêu Phật vượt Tổ. Kinh Duy Ma nói “Pháp này không có chỗ so sánh, không có chỗ tương đối”.
Lục Tổ Huệ Năng cũng nói:
“Pháp này phải đến trong tánh Phật mà cầu, chớ hướng ngoài thân mà cầu, phải tự thấy Bản tánh, mê thì làm chúng sanh, giác tức là Phật.
Như nói quy y Phật, Phật ở chỗ nào? Từ ngày nay trở đi xưng “Giác” làm Thầy, lại chẳng quy y tà ma ngoại đạo, dùng Tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên thiện tri thức quy y Tự tánh Tam Bảo. Phật là Giác, Pháp là chánh, Tăng là Tịnh vậy. Tự tâm quy y gọi là Lưỡng túc tôn. Tự tâm quy y Chánh, niệm niệm không tà kiến, vì không tà kiến tức là không nhân ngã cống cao, tham ái chấp trước gọi là Ly dục tôn. Tự tâm quy y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, tự tánh đều không nhiễm trước, gọi là Chúng trung tôn. Nếu tu hạnh này, ấy là tự quy y”.
Đây là tiêu biểu ngôn cú “Tự tâm chúng sanh tức là Tự tâm giác ngộ”, có thể nói đây chính là chỗ chỉ thú của Thiền tông lấy “Minh tâm kiến tánh” làm nền tảng cho sự giác ngộ giải thoát.
V. ĐƯỜNG HƯỚNG PHẬT TÂM TÔNG:
Thiền tông chủ xướng đường hướng “Kiến lập pháp tràng giương cao ngọn cờ chánh pháp”. Nương Phật sự làm gia nghiệp, lấy việc độ sanh làm bản hoài, tùy duyên kiến lập đạo tràng mở mang tông chỉ để tiếp độ chúng sanh. Những bậc Thiền sư có chí hạnh rộng lớn, không ngại nhọc gian lao để tiếp Tăng độ chúng. Như Tổ Đạt Ma từ Thiên Trúc lặn lội qua xứ Trung Thổ để nêu cao ngọn cờ chánh pháp, chỉnh lý cơ đồ Phật giáo và chủ xướng Thiền phong:
Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền.
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Song con đường mà các chư Tổ trải qua thật là lắm nhiều trở ngại, mạng sống của các Ngài như “chỉ mành treo chuông”, do đó Tổ đã bị Lưu chi Tam Tạng ám độc có hơn sáu lần và cuối cùng thấy cơ duyên sắp mãn, Tổ sẵn sàng cam chịu đầu độc rồi an nhiên thị tịch. Hôm ấy là ngày mùng 9 tháng 10 năm Bính Thìn, nhằm niên hiệu Đại Thông năm thứ hai nhà Lương (529TL)
Rồi đến sự thọ nạn của Nhị Tổ Huệ Khả cũng tương tợ như Sơ Tổ Đạt Ma không khác. Sau khi Sư được Sơ Tổ Đạt Ma truyền y bát, Sư đến huyện Quảng Thành nơi tam quan của chùa Khuông Cứu diễn nói đạo Vô thượng, thính giả kéo đến đông như rừng. Lúc đó, Hòa thượng Biện Hòa làm pháp sư ở chùa ấy đang giảng kinh Niết Bàn, mọi người nghe pháp sư thuyết pháp dần dần bỏ đi, rút đến chỗ Sư đang giảng nói. Biện Hòa vô cùng căm tức bèn đi vu cáo Sư nơi trưởng ấp là Địch Trọng Khản. Khản nghe lời tà, buộc tội sư làm chuyễn phi pháp liền gia hình. Sư vui vẻ chấp nhận.
Bởi vậy chúng ta thấy rõ mặc dầu có nhiều người, thân tuy ở trong cửa đạo mà tâm vẫn còn chạy theo sắc tướng, nhiễm đắm hư danh để chuốc họa vào thân và đọa đày trong các loài phi cầu tẩu thú …
Như Thiền sư Huyền Giác nói:
Khứ thánh viễn hề tà kiến thân
Ma cường pháp nhược đa oan hại
Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn
Hận bất diệt trừ như ngõa toái
Tác tại tâm, ương tại thân
Bất tu oan tố cánh vưu nhân
Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp
Mạc báng Như Lai chánh pháp luân.
Tạm dịch:
Hiền thánh xa rồi, tà vạy sâu
Ma mạnh pháp yếu nhiều ác tệ
Nghe nói Như Lai pháp đốn tu
Hận chẳng nghiền nát như ngói bể
Tại tâm làm, tại thân chịu
Đừng có kêu oan chớ trách người
Muốn khỏi nghiệp vương muôn kiếp lụy
Vành xe chánh pháp chớ chê ngươi.
Vì vậy đường hướng của Phật tâm tông có hai chiều rõ nét: một mặt mở đạo tràng khắp nơi để thâu nạp những người có chí hướng thượng và có tâm ý muốn tiến thẳng vào con đường giải thoát tri kiến, một mặt đem tinh túy của Thiền tông hoằng truyền cho những người có nhân duyên “xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần”.
Nói chung, đường hướng của Thiền tông là đường hướng “Truyền tâm yếu Phật”. Thế nên có nhiều phương tiện, có nhiều nguyện lực, cũng có nhiều đức trí để phát huy tông yếu tế độ quần sanh.
Bởi thế, đường hướng của Thiền tông, không hạn cuộc một bề mà phân ra có nhiều phương hướng để tùy duyên hóa độ đủ mọi thành phần trong xã hội.
Như xưa ở xứ Ấn Độ có ngài Duy Ma Cật, ở Trung Hoa có ông Bàng Long Uẩn, có Việt Nam có Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ và vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông… Tuy các Ngài mang hình thức cư sĩ song chỗ chứng ngộ của các Ngài đều lấy “trời xanh làm nhà, chúng sanh làm bạn hữu”. Như Tuệ Trung Thượng Sĩ nói kệ:
VÀO CÁT BỤI
Xăm xăm cất bước vào bụi đời
Vàng óng đầu mi, mở khơi khơi
Xóm bắc rong chơi vào bụng ngựa
Nhà đông cười nói nhập thai lừa
Roi vàng đánh đuổi trâu sắt chạy
Dây sắt lôi đầu cọp đá về
Rồi một này mai băng giá hết
Trăm hoa như cũ rộn xuân dài.
Đây nói về đại hạnh nguyện của các bậc Đại Bồ tát. Các Ngài luôn luôn ra vào trong ba đường sáu nẻo hoặc thị hiện làm vua, làm quan, làm trưởng giả, hoặc thị hiện làm những con người danh vọng và quyền uy nhất trong nước… Đây là hình ảnh sống động nhất và cũng là thiết thực nhất trong quá trình hoằng pháp lợi sanh, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn.
Nhìn chung các bậc Bồ tát là những con người không khác chúng ta, song Bồ tát có những đặc tính và phương tiện thiện xảo.
- Trí tuệ siêu việt.
- Công hạnh rộng lớn.
- Tình thương rộng lớn.
Sao gọi là trí tuệ siêu việt? Vì Bồ tát dùng trí tuệ thấy rõ các pháp đều như huyễn, như mộng, như bóng chớp… nên Bồ tát sẵn sàng lao vào cuộc đời này để dìu dắt cho tất cả chúng sanh lên bờ giải thoát. Song tuy thực hành hạnh lợi tha mà dưới con mắt của các Ngài không thấy mình giáo hóa và người được giáo hóa. Đó là tinh thần vô ngã vị tha của nhà Phật, mà cũng chính là nhân tố đưa hành giả đến con đường Phật quả.
Sao gọi là công hạnh rộng lớn? Bồ tát dùng vô số phương tiện thiện xảo và bi nguyện rộng lớn độ vô lượng vô số chúng sanh mà không biết mệt mỏi. Có khi các Ngài thị hiện vào chốn khổ đau cùng cực như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… để dìu dắt cho chúng sanh tỏ sáng tánh tri kiến của chính mình. Như có người đến hỏi một vị Thiền sư:
– Hòa thượng sau khi chết đi về đâu?
– Làm lừa, làm ngựa!
– Sau đó thế nào?
– Ta vào địa ngục.
– Hòa thượng là bậc đại thiện tri thức vì sao bị vào địa ngục?
– Ta không vào địa ngục thì ai đến đó giáo hóa ông?
Sao gọi là tình thương rộng lớn? Bồ tát dùng con mắt Bát Nhã thấy rõ giữa mình và chúng sanh vốn đồng một thể tánh sáng suốt. Song do một niệm bất giác vọng động truy cầu nên chúng sanh chìm đắm trong tham ái trần cấu. Bồ tát khởi lòng đại bi bình đẳng xem tất cả chúng sanh như người thân của chính mình, thấy chúng sanh đau khổ Bồ tát cảm thấy như mình đang đau khổ. Bồ tát luôn lấy cái khổ của chúng sanh làm cái khổ cho mình nên các Ngài vận dụng lòng từ vô duyên (lòng từ không mục đích) bắc nhịp cầu sanh tử đưa chúng sanh thoát khỏi cảnh sanh tử.
Như Tăng hỏi Thiền sư Triệu Viễn ở Thạch Môn Tương Châu:
“Tăng hỏi: – Thế nào là tác dụng thầm kín của Hòa thượng?
Sư đáp: – Nước giọt chẳng mục đích
Ngàn núi chẳng bày thân”.
Lại nữa, bi nguyện của Bồ tát thật là vĩ đại. Tuy các Ngài đã thành tựu Nhất thể vô tướng mà chẳng thể chứng vô tướng, tuy chứng pháp thân thường trụ mà vẫn bi nguyện tiếp vật độ sanh, tùy theo tánh dục của chúng sanh mà thi thiết các phương tiện thiện xảo, hoặc làm dâm nữ, hoặc làm kẻ say, hoặc làm kẻ bần cùng, cũng đờn ca, cũng uống rượu ăn thịt, nhưng không đắm nhiễm các pháp. Đó là hình ảnh “ở trần mà chẳng nhiễm trần” chỉ vì tùy theo nghiệp dụng của chúng anh mà thị hiện ra các tướng. Song đáo cùng đều lấy “không” làm tự thể, “sắc” làm hoạt dụng. Thật là:
Trúc ảnh tảo giai trần bất động
Nguyệt luân xuyên hải thủy vô ngân.
Tạm dịch:
Bóng trúc quét sân bụi chẳng động
Vầng trăng xuyên biển nước không chao.
Như trong quyển Thiền Học Tập Thành có nói về một vị Thiền sư thị hiện để dạy dỗ các đệ tử:
“Xưa có một vị Thiền sư không rõ họ tên, Ngài đã đến trình độ nội chứng thâm sâu. Để đánh thức số người còn chấp trước, Ngài sống một cuộc đời thật thoải mái, ăn uống hỗn tạp, đụng mặn ăn mặn, đụng chay ăn chay, ăn không có chọn lựa, vì thế các đệ tử của Ngài thấy thế cũng bắt chước theo Ngài.
Một hôm có đám hỏa táng, Ngài liền gọi các đệ tử bắt chước hành động của Ngài đi đến nơi hỏa táng. Khi thiêu xác, Ngài gọi các đệ tử đến gần, đến khi tro tàn còn sót lại ít thịt cháy xém, Ngài bèn trộn với đồ ăn thịt cá. Ngài ngồi ăn thản nhiên và bảo các đệ tử đến ăn chung. Các đệ tử người nào cũng xám mặt ói mửa.
Lúc đó, Thiền sư mới bảo: – Ta sở dĩ thị hiện ăn uống như thế này, vì nhiều đời đã tu hành phạm hạnh nên không có chọn lựa như ngày nay. Nếu các ông ngang đây cùng ta ăn uống thì mới duy trì sự ăn uống này.
Các đệ tử nghe rồi liền cung kính ngày đêm lo tu hành giữ giới phạm hạnh”.
Do đó, Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói:
“Cắt tim không đau mới cho ăn thịt. Uống rượu như uống nước tiểu thì mới cho uống. Thấy gái đẹp như thấy tử thi thì mới cho hành dâm. Tuy nhiên như thế cũng chưa thuận nghịch được, há huống chi chưa được mà phạm phải. Khốn thay! Khốn thay!”
Bởi vậy, chúng ta thấy rõ người xưa rất dè dặt về chỗ này, chưa được nói được, chưa chứng nói chứng dẫu cho được thuận nghịch. Song đời này cũng làm người mô phạm như Thiền sư Nam Nhạc làm người mẫu mực ở dất Dĩnh mười một năm rồi mới ra giáo hóa. Người xưa đã còn như thế, huống nữa chúng ta ngày nay vui cười hỉ hả tham nhiễm thế tình, có ai nói thì bảo rằng tùy duyên vô quái ngại! Sao không tự xét lại khi chúng ta vui cười tâm chúng ta còn chạy theo dục nhiễm hay không? Nếu còn thì phải ngày đêm ráng cố gắng công phu tu tập để quên sạch tập khí dư thừa thì mới có chút phần tương ưng. Nếu không thì “gieo nhân lành mà chuốc lấy quả dữ”. Như Ngài Quy Sơn nói:
“Nếu có kẻ trung lưu, chưa thể nhất thời vượt bực, hãy để tâm nơi giáo pháp, bối diệp ôn tầm, tìm tòi nghĩa lý, truyền bá rộng sâu, dẫn dắt người sau để trả ơn Đức Phật; cũng chẳng nên phung phí thời giờ, quyết phải dùng nó để phò trì chánh pháp. Đến như uy nghi trụ chỉ cũng là pháp khí trong Tăng.
Chúng ta đâu chẳng thấy dây sắn nương quấn cội tùng mà vượt lên ngàn trượng, ấy cũng bởi nương nhờ thắng nhân, mới có thể được nhiều lợi ích.
Hãy tha thiết tu trì trai giới, chớ nên dối thiếu vượt qua, kiếp kiếp đời đời gắng gieo trồng nhân quả thù diệu.
Chớ nên lần lựa qua ngày, dần dần hết buổi, thì giờ đáng tiếc lại chẳng cầu tiến lên! Đó là luống tiêu của mười phương tín thí, cũng chính là cô phụ bốn ơn, tội lỗi chứa chất càng nhiều, lòng trần dễ bề khỏa lấp, sự lý không thông bị người khinh phụ.
Cổ đức dạy rằng: Kia đã trượng phu ta cũng vậy. Chẳng nên tự khinh mà thối chuyển. Nếu không như thế, luống ở cửa thiền, lê lết một đời không điều lợi ích”.
VI. Ý CHÍ HƯỚNG THƯỢNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG
Con đường hướng thượng của người tu theo tinh thần Thiền tông trước hết phải chuyển phàm thành Thánh, chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển mê thành giác, chuyển tham sân si thành giới định tuệ… Nhờ vào năng lực phát đại tâm đại hạnh mà hành giả mới có đủ cơ duyên phát huy năng lực khai phóng tiềm năng để đạt đến con đường tự lợi lợi tha, tự giác giác tha cho đến giác hạnh viên mãn, hoàn tất phương trình Phật quả vô sanh.
Tông chỉ hướng thượng của Phật tâm tông chẳng dùng lời để nói, chỉ thầm hội yếu chỉ cương tông của Phật Tổ mà xưa kia Đức Phật đã dùng con đường hướng thượng này mà hoàn tất phương trình Phật quả vô sanh.
Song con đường hướng thượng như thế nào? Điều cần yếu phải khai phóng chí khí, phải kiên tâm nhẫn nại, phải nhẫn nhục thực hành, phải khổ công tham cứu, phải tín tâm trường viễn.
Nhờ vào sự gia công tu tập này mà huân tập và hun đúc những đức tánh cao quý, những chí hạnh kiên cường. Do đây mà có được con đường hướng thượng vững chắc và sâu thẳm.
Nói đến ý chí hướng thượng, phải thứ lớp thực hành miên mật. Lý, sự, tánh, tướng đều phải viên dung khế hợp tâm ấn của Phật Tổ. Tức là phải nỗ lực gia công hành trì miên mật mới có ngày tiến thẳng vào ngôi Bảo giác. Như trường hợp Ngài Kiệt Phong Ngu chẳng hạn:
“Kiệt Phong Ngu thiền sư trước tiên học đạo với Tổ Thạch Môn. Sư vâng giữ pháp ngữ của Tổ, ngày đêm mải miết tham cứu. Về sau Sư đến tham vấn Tổ Chỉ Nham, tham câu “Không phải tâm, không phải vật, không phải Phật”. Lúc ấy lòng nghi càng tăng, Sư bỏ hết muôn việc, quên cả ăn ngủ. Hết mai lại chiều, Sư ngồi sững như tượng gỗ. Một đêm, Sư nghe vị Tăng ở phòng cạnh bên ngâm câu “Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân” trong bài Chứng Đạo Ca, bỗng nhiên thấy tự do như người trút gánh nặng. Sư đắc ý hai câu:
Dạ bán hốt nhiên vong nguyệt chỉ
Hư không tịnh xuất nhật luân hồng.
Dịch:
Đêm vắng bỗng quên tay chỉ nguyệt
Hư không thoát lộ bóng dương hồng”.
Như chúng ta thấy rõ người xưa dụng công tu tập thật là thiết tha gắng gổ miên mật, dẫu ngày hay đêm nên mới có ngày triệt chứng Bản tâm, chóng thành quả vị. Đâu như ngày nay chúng ta dụng công lơ là cho ngày qua tháng lại. Song nếu được bậc thiện tri thức chỉ bày lại tuyên bố đạo đã có sẵn lại đâu cần dụng công. Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, quơ tay múa chân, khạc nhổ, nhướng mày chớp mắt đâu ngoài cái ấy. Song thử hỏi nếu lúc thân này bại hoại thì cái ấy ở đâu?
Như trong luận Thiền Tông Trực Chỉ của Ngài Thiên Cơ nói:
Gần đây có một số tà sư dạy người, không do cố gắng dụng công, lại nói: “Cổ nhân chưa từng dụng công”. Lời nói này rất độc, làm mê lầm kẻ hậu học, sẽ vào địa ngục vậy.
Thiền sư Đại Nghĩa làm bài minh Tọa Thiền nói:
“Chớ tin rằng đạo chẳng cầu tham
Thánh trước chăm chăm làm chỉ nam
Dù rằng gác cũ nhàn điền địa
Một phen gầy dựng thật gian nan.
Nếu chẳng cần tham cứu mà bảo được lý, đây là Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên, bọn này thật là đáng thương xót vậy. Bởi vì họ chẳng hiểu tham cứu, hoặc thấy người xưa một hỏi một đáp liền lãnh ngộ, bèn đem cái hiểu biết của tình thức để giải thích, là dối gạt người. Hoặc bị cơn bệnh ngặt, liền kêu la om sòm, những cái hiểu lúc đương thời đem dùng không được. Hoặc đến lúc sắp chết, như con cua bỏ vào chảo nước sôi, tay chân rối loạn, bây giờ hối hận chẳng kịp”.
Thiền sư Hoàng Bá nói:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Lời này thật rất thân thiết. Nếu đem bài kệ này luôn luôn cảnh sách công phu thì tự nhiên thực hành được tiến bộ. Như người đi con đường trăm dặm, đi một bước là gần một bước, không đi thì đứng nguyên chỗ cũ. Dù người ấy nói được sự nghiệp ở quê hương rõ ràng, rành rẽ, trọn không đến nhà, làm sao được việc lớn ấy.
Do đó, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ cũng thống thiết răn dạy như thế này:
“Cửa học đạo không có gì kỳ đặc, chỉ cần gột sạch căn trần và những chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến giờ. Các ông nếu tiêu trừ hết tình niệm, đoạn dứt vọng duyên, đối với tất cả thứ ái dục ở thế gian tâm không động nhiễm như cây đá, dù đạo nhãn chưa sáng tự nhiên thân tâm an tịnh. Nếu gặp bậc Đạo Sư chân chánh phải thiết tha thân cận, giả sử tham chưa thấu triệt, học chưa thành tài, một phen tai nghe đạo vị tạo thành chủng tử trong tàng thức, kiếp kiếp không sợ vào ác thú, đời đời không mất thân người, vừa sanh ra đã một nghe ngàn ngộ”.
VII. LỰC DỤNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Hành giả tu theo tinh thần Thiền tông phải đạt đến chỗ kiến tánh và vượt lên đến chỗ cùng tột. Nay đã rõ suốt phần hướng thượng rồi, thì phần lực dụng phải cho vững chắc như tường đồng vách sắt vậy.
Như thiền sư Ngưu Đầu Pháp Dung chẳng hạn:
“Sư họ Vi quê ở Duyên Lăng, Nhuận Châu. Năm mười chín tuổi, Sư đã học thông kinh sử, tìm xem bộ Đại Bát Nhã hiểu thấu lý chân không.
Một hôm, Sư tự than: “Đạo Nho sách đời không phải pháp cứu kính, Bát Nhã chánh quán là thuyền bè xuất thế”. Sư bèn vào ở ẩn núi Mao theo thầy xuất gia học đạo.
Sau, Sư đến núi Ngưu Đầu ở trong thất đá trên ngọn núi phía Bắc chùa U Thê. Lúc đó, có các loài chim tha bông đến cúng dường. Các loài thú dữ quanh quẩn bên Sư không ngớt.
Khoảng niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-650TL), Tổ Đạo Tín nhân thấy khí tượng lạ tìm đến gặp Sư. Nhân đó, Sư được đại ngộ.
Song chuyện kể rằng từ khi đắc pháp về sau các loài chim không còn tha bông đến cúng dường nữa. Đây đều là do lực dụng của Thiền Sư Pháp Dung. Ngài đã đạt đến trình độ Pháp tánh bình đẳng thâm sâu vi diệu.
Vì thế sau này có vị Tăng nhân câu chuyện lạ lùng mới đâm ra thắc mắc đến thưa hỏi Thiền sư Tử Thuần ở Đơn Hà. Tăng hỏi:
– Ngưu Đầu khi chưa thấy Tứ Tổ thế nào?
Sư đáp:
– Cúc vàng nở hoa ong đua hút.
Tăng hỏi:
– Sau khi thấy thế nào?
Sư đáp:
– Mầm khô hoa rụng rõ không nương”.
“Hòa thượng Kim Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư đem cái bát cất kỹ gần bên mới yên tâm. Có lần, nhân tuổi thọ Sư đã hết, vua Diêm La sai quỷ đến bắt Sư, song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười nhập định, xem vua Diêm La làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư, đợi một ngày, hai ngày… không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý Thổ địa, Thổ địa bảo:
– Thiền sư Kim Bích Phong này rất thích ái bát ngọc, nếu ngươi có cách đem cái bát ấy đi, Ngài động niệm sẽ xuất định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe tiếng cái bát động, động niệm xuất định giữ lại. Quỷ thấy Sư xuất định liền vỗ tay cười to:
– Hay đấy! Giờ xin mời Ngài theo tôi đến gặp vua Diêm la.
Thiền sư Kim Bích Phong vừa nghe lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát, làm mất tuệ mạng ngàn năm của mình, liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại, và để lại bài kệ:
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong.
Dịch:
Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong
Trừ phi sắt luyện khóa hư không
Nếu hay khóa được hư không ấy
Trở lại bắt ta Kim Bích Phong.
Do đó, chúng ta thấy rõ cuối cùng Ngài cũng phải đi sâu vào nội giới “không nghĩ thiện, không nghĩ ác chính khi ấy là gì?”. – Mầm khô hoa rụng rõ không nương.
“Thiền sư Đạo Ưng ở Vân Cư, Sư cất thảo am nơi Tam Phong, trải qua tuần nhật không xuống trai đường, Động Sơn thấy lạ hỏi:
– Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?
Sư thưa:
– Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.
Động Sơn bảo:
– Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh chiều lại.
Chiều Sư đến. Động Sơn gọi:
– Ưng am chủ!
Sư ứng thanh:
– Dạ!
Động Sơn bảo:
– Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái gì?
Sư trở về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường”.
Do đây chúng ta thấy rõ từ xưa đến nay, tuy có rất nhiều người đầy đủ chánh tri kiến, nhưng muốn đạt đến chỗ lực dụng hiện tiền thì mọi vọng niệm thiện ác đều phải buông sạch. Bấy giờ lực dụng mới khai phóng ánh sáng Bát Nhã.
Thế nên những tác gia phải quên mình vì đạo, đem hết tinh thần khả năng, tạo nên lực dụng mạnh mẽ, khai phóng ánh sáng Bát Nhã hòng để gánh vác gia nghiệp Phật Tổ, thổi mạnh ngọn gió tông phong, dựng lập ngọn cờ chánh pháp, đốt lên ngọn đuốc Thiền tông, hòng dìu dắt những kẻ còn đang lầm đường lạc lối.
Tuy nhiên ở trong cuối đời mạt chánh pháp suy vi, ma cường pháp nhược, ngũ dục lẫy lừng, tuy ở trong cảnh Không mà chưa lìa danh tướng, tuy ngồi yên trong nhà Bảo giác mà thanh sắc chưa quên, thì thử hỏi Phật pháp làm sao không bị mai một? Cơ đồ Tổ giáo không bị dứt truyền? Khi xưa đức Như Lai đã từng nói: “Giáo pháp của ta chỉ có đệ tử ta phá hoại, giống như trùng trong thân sư tử, ăn thịt sư tử vậy!”.
Than ôi! Lời này thật là bi thương thống thiết. Thế thì, ngày nay chúng ta lại khoanh tay ngồi yên, an nhàn không việc hay sao? Cần nhất phải có những con người đầy đủ đại lực dụng, đại trí tuệ, lòng bi bình đẳng, thì mới có thể dựng lên rường cột chánh tông, phá tà hiển chánh. Có được như vậy mới không đến nỗi đoạn tuyệt ngôi nhà chánh giác của đức Như Lai đã dày công dựng lập.
VIII. DIỆU LỰC CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Những bậc Tông sư trên bước đường vân du hành đạo có đầy đủ trí lực nên có nhiều phương tiện diệu dụng, tùy cơ cảm của chúng sanh mà các Ngài thi thiết các phương tiện thiện xảo. Có lúc các Ngài đánh như thiền sư Đức Sơn, có lúc các ngài hét như thiền sư Lâm Tế, thảng hoặc một câu hỏi như nhau mà có lúc các Ngài đáp “không”, có khi các Ngài đáp “có”. Song điều đáng cho học nhân lưu ý là cốt tháo đinh nhổ chốt cho người đương cơ học đạo.
“Có người đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
– Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp: – Không.
– Trên từ chư Phật, dưới đến loài trùng kiến đều có Phật tánh, vì sao con chó không có Phật tánh?
– Vì nó còn nghiệp thức.
Lại, có người hỏi:
– Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp: – Có.
– Đã có Phật tánh vì sao còn chui vào torng đãy da?
– Vì biết mà cố phạm”.
Bởi vậy diệu lực là một tiến trình huân tu của những bậc đại sư chân chánh. Chỗ dụng công của các Ngài đều y cứ vào “Thánh trí tự giác” mà diễn bày pháp âm “Vô tận tạng”. Như Thiền sư Duy Chánh ở viện Tịnh độ Hàng Châu chẳng hạn:
“Có vị Tăng hỏi:
– Thầy lấy danh là Thiền sư sao không nói thiền?
Sư đáp:
– Ngày đêm nhờ vạn tượng diễn bày mà thôi. Ngôn ngữ có gián đoạn mà pháp này vô tận, nên gọi là tạo hóa vô tận tạng”.
Đây là đứng về mặt lý tánh tuyệt đối mà các Ngài chủ trương pháp học vô vi, cũng có khi đứng về mặt sự tướng mà chủ trương pháp học hữu vi. Sự vận hành và biến chuyển của các Ngài giống như “trời thu trăng sáng” hoặc như “sóng bủa mưa sa”. Đây chính là ánh sáng Bát Nhã đã khai phóng từ quê nhà muôn thuở.
“Như có người hỏi:
– Đã lâu nghe tiếng cầu đá Triệu Châu, nay đến chỉ thấy cầu nổi.
Sư bảo:
– Ông chỉ thấy cầu nổi mà không thấy cầu đá.
– Thế nào là cầu đá?
– Độ lừa độ ngựa.
– Thế nào là cầu nổi?
– Mỗi mỗi độ người”.
Bởi vậy, có những lúc các Ngài ẩn vào chốn rừng sâu hoang vắng, cô hành độc bộ, có khi vào nơi thành thị phố phường, dựng lập pháp tràng, nêu cao tông yếu. Chỗ hành tàng của các ngài lúc ẩn lúc hiện, chợt có chợt không, chợt còn chợt mất, hư hư thật thật, người đời khó mà lường xét nổi. Chí hạnh của các bậc Tông sư giống như con thần long, lúc hiện ra thân lớn đùa giỡn vẫy vùng nơi biển thẳm trời cao, hoặc hóa hiện ra thân nhỏ để tùy duyên chuyển biến hóa độ quần sanh. Như Tế Điên Hòa thượng:
Người đời bảo rằng ta kẻ điên
Điên điên đảo đảo chốn mê say
Ta say mà hồn ta vẫn tỉnh
Hóa độ muôn loài trong cơn say.
Vì vậy, mặc dầu bị người đời phê bình những lời hay dở hoặc nhục mạ, mà các Ngài vẫn an nhiên tự tại sống theo hạnh nguyện của mình. Như lời của Thiền sư Lâm Tế nói: “Kẻ ngu cười ta, người trí biết ta”, hay như lời Khổng Tử nói: “Ngàn người ngu biết ta không bằng một người trí biết ta”.
IX. NĂNG LỰC CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Người tu theo tinh thần Thiền tông có năng lực mạnh mẽ phi thường, những người có đủ phước duyên huân tu nhiều kiếp theo học Thiền tông, với chí khí ngất trời, với tâm thái tự tín chắc thật, sừng sững như ngọn Thái Sơn, thần tốc như kiếm Thái A… những người này tạo cho mình một năng lực dồi dào, một đức tin vững mạnh nơi chính mình. Lập trường của họ vững chắc như tường đồng vách sắt, không ai phá vỡ được, dẫu cho có dấn mình vào hang hùm cọp sói để nhào nặn công phu cho đến chín muồi mà lòng họ vẫn an nhiên rảo bước. Như Thiền sư Qui Tông chẳng hạn, trong Thiền sử Trung Hoa có nói:
“Ngày kia Tư Mã Đầu Đà từ Hồ Nam đến yết kiến Bá Trượng, thưa:
– Qui Sơn là thắng cảnh nên lập đại đạo tràng kết tập bạn pháp.
Bá Trượng hỏi:
– Lão tăng muốn đến Qui Sơn chăng?
– Qui Sơn kỳ tuyệt có thể họp một ngàn năm trăm chúng, nhưng chẳng phải chỗ Hòa thượng ở.
– Sao vậy?
– Hòa thượng là người xương, núi kia là núi thịt, dù có ở, đồ đệ chẳng đầy một ngàn.
– Trong chúng có người ở được chăng?
– Đợi xem qua mới biết.
Bá Trượng sai Thị giả gọi Đệ nhất tọa đến, tức sư Hoa Lâm hỏi:
– Người này thế nào?
Đầu Đà bảo Hoa Lâm tằng hắng một tiếng, đi vài bước, thưa:
– Người này không được.
Bá Trượng sai Thị giả gọi Điển tọa đến, tức sư Linh Hựu, Đầu Đà thưa:
– Đây chính là chủ Qui Sơn.
Tối lại, Bá Trượng gọi Sư vào thất dặn dò:
– Ta hóa duyên tại đây, ngươi sẽ ở thắng cảnh Qui Sơn để nối tiếp tông môn của ta và rộng độ kẻ hậu học.
Hoa Lâm nghe tin đến thưa:
– Con là Thượng thủ, tại sao Linh Hựu được trụ trì?
Bá Trượng bảo:
– Nếu ai hay ngay trong chúng này nói được một câu xuất cách, sẽ cho trụ trì.
Bá Trượng liền chỉ tịnh bình hỏi:
– Chẳng được kêu tịnh bình, ngươi kêu là gì?
Hoa Lâm thưa:
– Không thể kêu là cây lủng vậy.
Bá Trượng lại hỏi Sư, Sư đạp nhào tịnh bình rồi đi ra. Bá Trượng cười bảo:
– Đệ nhất tọa thoái lui núi này.
Bá Trượng bèn sai Sư đến Qui Sơn.
Non Qui cao vót không có bóng người lai vãng, là hang ổ của cọp sói. Sư đến đây cất một am tranh, hằng ngày lượm trái lật, trái dẻ làm thức ăn nuôi sống”.
Bởi vậy chúng ta thấy rõ năng lực của Thiền giả ngày xưa kia là mảnh gương kiên cố, quyết tiến mà không lùi, dù ở tận trong rừng sâu núi thẳm nhưng vẫn một lòng một dạ quyết tâm hàng phục khách trần phiền não. Nhờ nương vào năng lực kiên cố vững mạnh này mà không ít các bậc Tông sư làm nên sự nghiệp vẻ vang cho chánh pháp, gây dựng ngôi nhà pháp bảo của đức Từ Phụ.
Vì thế, chúng ta thấy rõ các bậc Tông sư xưa kia đã làm những gì cao quý, chúng ta là hàng hậu học cũng phải cố gắng làm cho được như vậy, chớ không nên tự khinh mình mà lui sụt. Ngài Qui Sơn có nói:
Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ
Bất ưng tự khinh nhi thối khuất.
Dịch:
Kia trượng phu ta cũng trượng phu
Chẳng nên tự khinh mà thối bước.
X. CÔNG ĐỨC CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Nói đến công đức của Phật tâm tông tức là nói đến “công đức huân từ Tự tánh Bát nhã” chớ chẳng phải tìm cầu bên ngoài, tạo các thứ phước điền mà cho là đạt đến chỗ “công đức chân thật”.
“Xưa kia vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Đạt Ma rằng:
– Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép Kinh độ Tăng Ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì không?
Tổ đáp:
– Đều không có công đức.
– Tại sao không có công đức?
– Bởi vì những việc ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
– Thế nào là công đức chơn thật?
– Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.
– Thế nào là thánh nghĩa đế thứ nhất?
– Rỗng rang không Thánh.
– Đối diện với Trẫm là ai?
– Không biết”.
Do đó chúng ta thấy rõ “công đức của Phật tâm tông” không phải tìm cầu bên ngoài mà được, mà công đức này phải huân từ Tự tánh Bát nhã, phải huân từ Bản tâm chân thật của chính mình như Lục Tổ Huệ Năng nói về công đức của Phật tâm tông, Tổ dạy:
“Thấy tánh là công, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy Bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh dựng lập muôn pháp là công. Tâm thể lìa niệm là đức; không lìa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức tâm tức không có khinh người, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không công. Tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả. Này thiện tri thức, mỗi niệm không gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này thiện tri thức, công đức phải là nơi Tự tánh mà thấy, không hải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng công đức khác nhau”.
Vì vậy, các bậc Tông sư đạt đến chỗ “công đức chân thật” rồi thì lúc nào cũng khiêm nhường, không bao giờ tỏ ra thái độ tự mãn tự thị. Càng khiêm cung đức độ càng sâu dầy, lời nói càng khiêm nhã ôn hòa. Song trong lời khiêm cung đều cần yếu phải đạt đến tinh thần vô ngã. Nếu còn vẩn đục cù cặn vị kỷ trong tâm thức thì lời khiêm cung ấy chỉ là lời nói rỗng, là tinh hồn ma quái của lòng si mê và tật đố, chớ chẳng phải là lời nói chân thật được khai phóng từ quê nhà tịch chiếu.
Do đó các Ngài sống giữa cuộc đời này chỉ biết dung hòa giữa hai thái cực phân biệt đối đãi chấp trước của chúng sanh chớ không bao giờ chỉ trích đây phải kia quấy, đây đúng kia sai. Vì sao thế? – Vì tâm còn thấy hai là tình chấp chưa đoạn, mà tình chấp chưa đoạn là quyến thuộc của lòng tật đố và thù hận. Thế nên các Ngài chỉ khéo léo dùng phương tiện thiện xảo để nhiếp phục chúng sanh. Nhân vì pháp Phật bao la, phương tiện tùy cơ chỉ giáo để tiếp độ khắp cả mọi người đồng hương về cảnh giới tịnh lạc, vì vậy nên đức Như Lai diễn bày cảnh khổ để nêu rõ cảnh vui. Có khi nói hiếu đạo hữu vi để khuyên người thế tục kiến tạo “phước điền” và định vị con đường hạnh phúc trong giờ phút thực tại và mai sau, có lúc lại diễn bày cảnh giới vô vi để khai mở trí lực với những người có tâm thái vượt thoát ba cõi để kiến tạo “tâm điền”. Nói chung chư Phật chư Tổ có lúc nói quyền, có khi nói thật, hoặc có khi nói mật, có khi nói hiển đều tùy cơ cảm của chúng sanh mà mở mang giáo pháp.
Do đó chúng ta phải biết: Giáo pháp của Phật đến chỗ thẩm sâu vi diệu, thường là “động tịnh nhất như”. Vì vậy trong thể “vắng lặng” mà hàm ẩn tướng “động”, trong thể “động” mà hàm ẩn tướng “vắng lặng”. Vì thế trong cái “phước điền” đã hàm tàng công đức “tâm điền”, trong công đức “tâm điền” đã hàm tàng “phước điền”, cho nên nói: động tức tịnh, tịnh tức động, tâm điền tức phước điền, phước điền tức tâm điền. Động tịnh, tâm điền và phước điền là hai nguồn công đức bao la cùng tột.
“Tịnh” như Tổ Đạt Ma, suốt chín năm quay mặt vào vách, không nói một lời mà pháp an tâm đến hôm nay vẫn còn vang dội, người người vẫn còn thao thức và bồi hồi sửng sốt âm vang giữa thầy và trò.
“Tổ Huệ Khả bạch:
– Bạch Hòa thượng, tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.
Tổ Đạt Ma bảo:
– Đem tâm ra ta an cho.
Tổ Huệ Khả thưa:
– Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.
Tổ Đạt Ma nói:
– Ta đã an tâm cho ông rồi!”
“Động” như đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp độ sanh, trên ba trăm pháp hội lưu lại biết bao nhiêu lời trong ba tạng giáo điển: Kinh, Luật, Luận, song cuối cùng vẫn là:
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại.
Dịch:
Nhìn hoa cười mỉm còn nguyên đó.
Thế nên phải biết: Trong tâm thể bao la rộng lớn, trong pháp giới mười cõi gồm đủ, lẽ đâu lại không có tướng hữu vi, vô vi dung hòa? Lẽ đâu lại không có “phước điền” để trang nghiêm tự thân và “tâm điền” để trang nghiêm thật tướng? Song trong cảnh giới “vô vi” thì không có một điểm vi trần, mà trong cảnh giới “hữu vi” thì bao hàm khắp cả mười phương cõi, như Tổ Qui Sơn có nói:
Thật tế lý địa bất thọ nhất trần
Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp.
Tạm dịch:
Chỗ lý chân thật không nhận một hạt bụi
Trong cửa muôn hạnh không bỏ một pháp.
XI. TRƯỞNG DƯỠNG VÀ NUÔI LỚN THAI THÁNH CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Có người ngộ nhận rằng sau khi hành giả trực nhận ra được Bản tâm mình, liền vào núi sâu rừng thẳm để trưởng dưỡng và nuôi dưỡng thai thánh, nghĩa là có một cái gì ở ngoài mình để mà nuôi lớn thai thánh. Nếu hiểu theo thế này thì thật là “hàm oan cho ba đời chư Phật”. Trưởng dưỡng và nuôi lớn thai thánh có nghĩa là tiêu trừ tập khí dư thừa từ vô thủy đến nay.
Như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy:
“Như nước đục lóng trong, lấy đồ đựng để yên mãi không lay động thì đất cát tự chìm xuống, nước sạch hiện tiền, ấy gọi là ban đầu hàng phục khách trần phiền não. Kế là gạn bỏ đất bùn chỉ thuần nước trong, ấy gọi là dứt hẳn cội gốc vô minh, tướng minh tinh thuần, tất cả đều biến hiện mà không bị khách trần phiền não, đều khế hợp với đức tánh thanh tịnh Niết Bàn”.
Đoạn này Phật dạy: Như bước đầu chúng ta muốn hàng phục khách trần thì Phật thường dạy các thầy Tỳ-kheo vào chốn A-lan-nhã để tiêu trừ tập khí dần. Kế là chúng ta phải huân tu nhào nặn một thời gian nữa. Cuối cùng cội gốc vô minh dứt hẳn chỉ thuần tịnh là ánh sáng Bát Nhã mà không lay động bởi khách trần phiền não tác động vào. Đây mới thật sự là khế hợp với đức tánh thường trụ Niết Bàn, cũng là khế hợp vớ đức tánh thường hằng của mười phương chư Phật.
Do đó, Thiền sư Tông Cảnh Đại Huệ cũng nói: “Nạo sạch chánh tánh, trừ sạch nghiệp nhân, chẳng thọ hiện nghiệp”.
Song thế nào là chánh tánh? Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy:
“Sao gọi là chánh tánh? A-nan, chúng sanh tu Ta-ma-địa như vậy, trước phải cần yếu nghiêm trì giới luật cho thanh tịnh, đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sanh mà muốn ra khỏi ba cõi, thì thật không có lẽ ấy, phải quán sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù”.
Vì thế các Ngài sau khi kiến tánh rồi cần phải khởi tu để đoạn sạch hết tập khí dư thừa và hằng sống với Bản tánh như như bất động của chính mình. Nên người xưa nói: “Như lò hoang miếu cổ, như dải lụa trắng đi” là ý này vậy. Hay Thiền sư Trần Tôn Túc nói:”Việc lớn chưa sáng như đưa tang mẹ, việc lớn đã sáng như đưa tang mẹ”.
Bởi vậy, khi xưa những bậc Tông sư khi ngộ đạo rồi, liền tìm đến núi cao, hang thẳm, rừng sâu để nuôi dưỡng đạo tâm và tiêu trừ tập khí, bắt đầu từ khi còn non nớt yếu kém, cho đến lúc già dặn cứng cáp mới dám ra làm bậc thiện tri thức, dìu dắt tông đồ, lập bày tông chỉ, nêu cao pháp yếu. Hoặc lắm lúc các Ngài xả bỏ nhân duyên đời này, qua đến đời sau đầy đủ cơ duyên, tìm nơi mở đạo, hoặc tìm nhân duyên trả nghiệp độ sanh. Sau mới làm bậc đại thiện tri thức đầy đủ đại lực lượng, đại trí tuệ liền kiến lập đạo tràng, khai mở đạo pháp, lập bày tông yếu đúng theo chí nguyện nhân duyên xả mạng ba đầu, để làm lợi lạc cho quần sanh và truyền thừa mạng mạch Phật pháp như trường hợp Tài Tòng đạo giả tái lai làm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chẳng hạn.
“Một hôm Tổ Đạo Tín đi viếng núi Long Phong gặp một vị sư già trồng tòng – thời nhân gọi là Tài Tòng đạo giả. Vị Sư ấy hỏi Tổ rằng:
– Đạo pháp của Như Lai có thể cho tôi nghe được chăng?
Tổ đáp:
– Tuổi ông đã già, dù có nghe được cũng không hoằng pháp kịp. Nếu có tái sanh được thì ta cũng nán chờ.
Đạo giả nghe dạy rồi từ tạ đi xuống núi. Đến huyện Huỳnh Mai, thấy một cô gái đang giặt áo ở bờ sông, ông chào và hỏi:
– Nhà cô ở gần xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được chăng?
Cô đáp:
– Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền. Mời Sư vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.
Ông bảo:
– Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết?
Cô đáp:
– Riêng tôi bằng lòng.
Đạo giả nghe cô hứa chịu, bèn trở về núi ngồi ngay thẳng viên tịch
Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với Đạo giả rồi, không bao lâu có thai. Cha mẹ cô thấy chưa chồng mà có thai, là làm ô nhục gia phong quyết định đuổi cô đi.
Cô đang tuổi trẻ mà mang phải cái nợ giữa đường, sống bơ vơ không chỗ nương đỡ, phải đi kéo chỉ mướn nuôi miệng qua ngày.
Đến ngày, cô sanh ra một đứ con trai xinh xắn nhưng vì sự kỳ dị không chồng mà có con nên cô đành đem thả xuống sông. Sáng ngày, cô thấy đứa bé ngồi xếp bằng trên mặt nước, khí sắc tươi tỉnh lạ thường. Cô vừa lấy làm lạ vừa xót thương nên bồng về nuôi dưỡng. Đến bảy tuổi, đứa bé gặp Tổ Đạo Tín đối đáp một cách phi thường, được Tổ xin về cho xuất gia đặt tên là Hoằng Nhẫn.
Hoằng Nhẫn có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa là Tổ Đạo Tín nhẫn chờ đứa bé khôn lớn truyền pháp.
Theo truyện này, Tổ Hoằng Nhẫn là thân sau của Tài Tòng đạo giả”.
Do đó, thiền sư Viên Ngộ dạy rằng:
“Hàng nạp tử đang lúc đau bệnh, phải lấy sanh tử làm việc lớn, siêng năng lo tiêu trừ tri kiến, cởi mở sự chướng ngại, thấu triệt và chứng ngộ nhân duyên lớn của Phật Tổ truyền trao. Chớ ham ưa danh tiếng, phải lưu bước đến chỗ chưa chắc thật. Càng lặng lẽ ẩn dấu mà càng thêm ẩn dấu chỗ kín đáo mới được. Các bậc Thánh nhân và hàng Thiên long có lúc đưa ông lên ngôi vị Thánh nhân để mở mang đạo cả”.
Đây là ngài Viên Ngộ dạy rất rõ trước phải thẩm thấu sanh tử là việc lớn hun đúc tâm cơ hướng thượng ban đầu. Vì sao? Vì kinh nói:
Sanh tử sự đại
Vô thường tấn tốc
Dịch:
Sống chết là việc lớn
Vô thường thật nhanh chóng.
Thật vậy! Chúng ta gẫm lại cuộc đời của mình thật là nhanh chóng, mới hồi nào còn tiếng khóc oe oe mà nay thì tóc đã pha màu tuyết. Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu, do đó một hôm Khổng Tử đứng trên cầu nhìn dòng nước chảy, ông cảm khái thốt lên:
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ
Tạm dịch:
Chảy mãi! Chảy mãi ư! Ngày đêm không dừng nghỉ.
Do đó, vua Trần Thái Tông trong bài “Rộng khuyên phát tâm Bồ đề” cũng nói:
“Rõ ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát na, thân huyễn tứ đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày chìm đắm trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức càng mênh môn, vô tận. Chẳng biết một tánh viên minh, luống theo sáu căn tham dục. Công danh cái thế cũng chỉ là trường đại mộng, phú quý kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ. Tranh nhân tranh ngã rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu kính chẳng thật.
Gió lửa khi tan không già trẻ
Núi sông bại hoại mấy anh hùng.
Đầu xanh chưa mấy lúc tóc bạc đã sớm điểm sương, ngày vui vừa đến thì ngày điếu cũng đi theo. Một bao máu mủ nhiều năm khổ luyến ân tình, bảy thước hài buông lòng tham tài bảo. Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm ngày mai”.
Kế là ngài Viên Ngộ dạy phải siêng năng tinh tấn lo tiêu trừ và giải thoát tri kiến phân biệt phải quấy, tốt xấu, thương ghét… và thấu tột nhân duyên lớn của Phật Tổ, chớ ham cầu danh lợi ở đời mà chuốc lấy quả khổ về sau.
Hãy thận trọng! Hãy thận trọng!
Hạt tuyết ơi!
Bạn có biết
Bạn chỉ là
Giọt nước thôi.
Lại như Quốc sư Huệ Trung từ khi được tâm ấn nơi Tào Khê, Sư về cốc Đảng Tử trên núi Bạch Nhai, Nam Dương, nơi đây Ngài tu hành hơn bốn mươi năm chưa từng xuống núi. Công phu miên mật không có gián đoạn, đạo hạnh của Ngài được người đương thời đồn đại đến đế đô.
Thiền sư Nam Tuyền trụ tích nơi đất Trì Dương tự kiến lập thiền trại, hình bóng chẳng ra ngoài hơn ba mươi dặm.
Lại như thiền sư Độc Phong Thiện bế quan ở Dục Khê. Trong thất, Ngài không kê giường, chỉ để một cái ghế ngồi. Ngài tự nguyện: “Nếu chẳng tỏ ngộ, ta không rời khỏi chỗ này”. Một đêm, hành đạo quá mỏi mệt, Ngài vừa lại ghế ngồi, bất giác ngủ quên đến canh ba. Tự trách mình, Ngài chỉ đi đứng chớ không ngồi nữa, nhưng một hôm Ngài lại dựa vách ngủ quên. Sau khi thức giấc, rất hối hận, Thiền sư lập thệ không nương tựa vách. Chừng ấy thân thể nặng nề mệt mỏi, mí mắt chỉ muốn sụp xuống. Ngài khóc lóc lễ Phật sám hối, tìm đủ cách để đánh đuổi ma ngủ đi. Nhờ thế, công phu của Ngài càng lúc càng tăng tiến thêm. Một đêm nghe tiếng chuông, Ngài bỗng cảm thấy thân tâm vắng lặng không còn chỗ nương tựa, liền đắc ý bài kệ:
Trầm trầm tịch tịch tuyệt thi vi
Xúc trước vô đoan, hầu tợ lôi
Động địa nhất thinh tiêu tức tận
Độc lâu phấn túy mộng sơ hồi.
Dịch:
Thầm thầm lặng lặng bặt duyên ngàn
Một tiếng chày kình tợ sấm vang
Manh mối khôn tìm, tin tức vắng
Đầu xương sọ nát, mộng vừa tan.
Đây đều là những phương pháp quên mình vì đạo, xả bỏ thân tâm. Từ xưa, các bậc Tông sư, mỗi người khi muốn đào luyện thân tâm hay trưởng dưỡng thai thánh, không ai là không buông xả thân tâm nhồi thành một phiến. Nhưng tựu trung trong đó mỗi người làm một cách không đồng nhất. Có những bậc tông sư đi sâu vào chốn núi rừng, lánh xa trần tục, chỉ thuần ăn hạt dẻ uống nước suối để nuôi dưỡng dấu tích của đạo như Thiền sư Pháp Thường ở núi Đại Mai, thảng hoặc có người ẩn nơi thành thị như ông cư sĩ Bàng Long Uẩn ở Nhượng Châu hoặc có người trụ trong chốn tòng lâm như Thiền sư Triệu Châu, hoặc có người ở yên trong tịnh thất hai ba mươi năm mà chưa từng xuống núi như ngài Trí Hoàng, ban đầu tham học nơi Ngũ Tổ, tự cho đã được chánh thọ, mới cất am thiền mãi trải qua hai mươi năm mà chưa từng xuống núi. Nói chung Phật pháp là bất định pháp, chỉ tùy bệnh mà cho thuốc, bệnh hết thì thuốc chẳng dùng.
Cho nên muốn đến với người xưa để biết rõ cảnh giới chứng đạo, điều cần thiết phải cho chín chắn, phải thông đạt yếu chỉ tông thừa, đề cương Phật Tổ. Một pháp cũng không, đây mới đúng là trưởng dưỡng thánh thai vậy. Còn nếu thấy có mình trưởng dưỡng, có pháp sở đắc, vọng cầu chấp trước ấy là trưởng dưỡng thai phàm. Như Mã đại sư ở Giang Tây nói: “Nuôi lớn thai thánh, tùy duyên qua đời”. Đây vốn là lời nói hay, bởi vì bậc học về tâm, sau khi đã rõ biết đại đạo, chẳng phải phế bỏ tu chứng, mà cũng chẳng nhiễm nơi tu chứng. Song lời này đã biểu hiện thai thánh, tức biết chẳng phải thai phàm. Lại bảo là nuôi lớn tức chẳng phải là một sớm một chiều vậy. Do đó, cần phải khế hội với ý chỉ lời này, nên trước biện rõ duyên do ngộ này thuộc về Đại thừa hay Tiểu thừa, thuộc Thiên hay Viên giáo, rồi sau mới biết được là thích đáng hay không. Tại sao? Bởi ngộ là ngộ chỗ của mình nuôi dưỡng, dưỡng là dưỡng chỗ mình đã ngộ. Chỗ ngộ và chỗ dưỡng chẳng thể nguyên bỏ một bên, do nơi liên kết nhau. Vậy thì sao lại bảo ngộ “đại” mà lại “viên”? Tức là thiên trước đã thuật lấy vô minh trụ phiền não làm trí bất động của tất cả chư Phật (không phải bỏ cái này lấy cái kia). Lại nói tâm Phật, chúng sanh, Bồ đề, phiền não, tên khác mà thể chỉ một. Đoạn phiền não mà được trí tuệ đó là cái học của Tiểu thừa. Tức ngay phiền não mà được trí tuệ, đó là cái học của Đại thừa. Bởi vì phiền não của chúng sanh chẳng phải từ bên trong mà ra, chẳng từ bên ngoài mà vào, cũng chẳng ở tại khoảng giữa. Đã ở ba chỗ tìm cầu chẳng thể được, thì đâu có đoạn. Nếu ngộ lý này ngay nơi sát na vô minh chóng dứt thành Phật đã xong. Về sau đó, trong khoảng ứng dụng hằng ngày mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, còn chẳng thấy có chư Phật, chúng sanh, Bồ đề phiền não, huống nữa là có chứng thay! Đó là nghĩa nuôi lớn thai thánh, tùy duyên qua thời vậy. Như riêng khởi tâm, hoặc cầu thiền định giải thoát thì giả sử đạo đức rất to lớn, tiếng tăm vang cả một đời đi nữa, thì e là dưỡng thai phàm, chẳng phải là dưỡng thai thánh.
Bởi vậy, chúng ta nếu muốn trưởng dưỡng thai thánh cho được thành hình thì danh lợi chẳng nên để vào lòng, của cải vật báu chẳng nên nhớ nghĩ đến, tâm tâm thuần nhất, niệm niệm chuyên tâm, thì không cầu quả vị Bồ đề mà tự khắc ứng hiện. Giống như phiền não hết thì Bồ đề có mặt, vọng tâm dứt thì Chân như hiện tiền. Thử còn nhọc tìm kiếm cái gì bên ngoài vô ích? Nếu kiếm được thì cũng là mộng tưởng không hoa nhọc lòng nắm bắt, đến đây rồi thì thử hỏi trưởng dưỡng cái gì? Nuôi lớn cái gì?
Nên Thiền sư Viên Ngộ dạy:
“Bậc cổ nhân khi đến đạo rồi, dấn mình vào trong am tranh hang đá, lượm những chiếc nồi mẻ để nấu cơm ăn, hái những gốc rau đồng ăn cho qua buổi. Suốt đời không cầu danh lợi, buông thả thân mình, tùy duyên phóng khoáng. Chỉ một lời chuyển ngữ làm một ý tu hành. Điều cần yếu là truyền Phật tâm ấn để báo đền ân sâu của Phật Tổ. Những bậc Nạp tăng, việc nhà đại sự khi sắp đặt xong rồi, từ đó về sau, suốt đời chỉ lo một pháp dưỡng đạo mà thôi. Chớ nên làm mất phí thì giờ tốt đẹp, đừng lo tu tạo, cũng chớ gắng gượng mong mỏi có nhiều học chúng. Người xưa, khi đến kiến lập chùa chiền, nhóm họp người tu, chẳng phải tự cầu riêng cho mình. Đạo nghiệp khi đã đến lúc thuần thục rồi, dù cho có chống cự mà hàng thiên nhân, họ cũng tìm đến lần lần một ngày một đông, chẳng cần phải kiến lập tinh xá mà hàng thiền giả một ngày một đến nhiều”.
Bởi vậy người xưa chẳng mến chuộng cửa danh nên đạo tâm kiên cố. Lời nói và hành động luôn luôn khế hợp Phật tâm, do đó trên từ chư Phật dưới đến các bậc Tổ sư đều khuyên nhắc các hàng nạp tử rũ bỏ danh lợi âm thanh sắc tướng, vào chốn rừng sâu núi thẳm để trưởng dưỡng đạo tâm ngày càng thuần thục. Có vậy mới nâng đỡ chân phong của Phật Tổ, phát huy tông giáo, dựng lập pháp tràng, tiếp dẫn hậu lai, không để sa rớt vào cảnh tà ngụy. Người như thế mới đáng được trời người qui kính, ai dám bảo là Tăng cơm cháo!
Như Quốc sư Đại Đăng có làm bài tâm yếu:
“Lão tăng sau khi đi hành khước, hoặc ở chỗ chùa chiền được hưng thạnh, Phật các kinh quyển đều khắc chữ bằng vàng bạc chói ngời, mà nơi đây chúng lý đông đảo ồn ào, hoặc tụng kinh trì chú ngồi chẳng nằm. Ngày ăn một bữa ngọ trai, sáu thời đều hành đạo. Dầu cho có những việc gì cũng vẫn đủ điều quy chẳng hề bỏ sót. Song vì chẳng thấm nhuần diệu đạo của Phật Tổ nên những ý chỉ nhiệm mầu chẳng để vào lòng. Do đó họ mờ mịt lý nhân quả. Vì vậy chân phong của Phật pháp từ dó bị rơi lìa. Đây đều là những bọn tà ma xen vào cửa Phật phá hoại chánh pháp của Phật, bởi Lão tăng qua đời đã lâu, nên con cháu mới gây ra nhiều sự tệ hại trong chốn thiền môn. Thảng như có một người nào lánh mình vào chốn núi non, ẩn thân vào nơi hang thẳm, lấy nồi mẻ nấu cơm, ăn hái rau đồng làm vật thực, sống lây lất qua ngày, chuyên tâm nhất ý, cứu minh công việc của mình, cùng Lão tăng mỗi ngày thấy mặt nhau, phải nên báo ân cho người này vậy. Đâu có dám khinh thường những người tu chân chánh hành đạo như thế?”
Như vậy đã gắng gổ càng thêm gắng gổ. Nay xin làm bài văn này dùng lời cảnh ngữ trong tinh thần trưởng dưỡng Thánh tâm vậy.
Cuối cùng, “Diệu chỉ Phật tâm tông là gì? – Hãy nhìn thẳng dưới gót chân bạn!”.
Tụng rằng:
Gió lặng trăng tà soi bóng trúc
Đường về quê cũ vốn không xa
Chỉ cần dừng lại niềm mong ước
Pháp giới vô sanh thảy thảy đồng.
XII. THIỀN ĐỊNH VÀ PHẬT TÂM TÔNG:
Thiền là gì?
Danh từ “Thiền được chuyển âm từ Phạn ngữ “Dhyàna”, nói đủ là “Thiền na”, tựu trung là “Thiền định”. Thiền định bao gồm cả Thiền quán, Chỉ quán và Cửu thứ đệ định.
Thiền định nói thẳng là pháp chung của cả phàm phu, ngoại đạo, thế gian và xuất thế gian. Ngoại đạo tu thiền định nhằm mục đích sinh lên cõi trời Sắc giới hay Vô sắc giới. Hàng đệ tử của Phật tu Thiền định là nhằm khai phá trí huệ vô lậu tự có sẵn của chính mình.
Bởi vậy Thiền định là phương tiện cho các hành giả tu tập từ địa vị phàm phu vào đất Phật. Do đó hàng Tiểu thừa muốn vào Thánh vị đều phải đoạn hoặc chứng chơn, cũng thuộc về con đường Thiền định. Bậc Bồ tát tu tập Lục độ vạn hạnh cũng phải từ con đường Thiền định để thể nhập vào biển lớn trí huệ Bát nhã. Do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng Thiền định là công cụ để siêu Phật tác Tổ.
Song, nếu muốn thành tựu Thiền định, điều kiện thù thắng thâm diệu nhất là phải siêu thoát tán tâm vọng niệm hư ảo trong tâm thức. Hàng Tiểu thừa và bậc Đại Bồ tát cùng một điểm xuất phát như nhau, song kết quả thì khác hẳn nhau. Vì sao thế? Đó là vì Phật pháp tuy không chối bỏ Thiền định nhưng không chấp vào con đường Thiền định, mà pháp đích thực của mười phương chư Phật là nhận ra tánh tri kiến như thật. Bởi vậy, duyên khởi đầu tiên phát huy ra nguồn thiền chính thống đều lấy điểm xuất phát từ Tổ Ma Ha Ca Diếp trên hội Linh Sơn, khi Ngài nhìn hoa sen của đức Thế Tôn, hốt nhiên ngộ nhập tánh tri kiến như thật có sẵn tự bao giờ. Vì thế, Thiền tông không chủ trương con đường Thiền định làm cực tắt.
Như vậy, trong Giáo tuy có nói về Thiền quán, Chỉ quán, song Thiền tông không chủ xướng hoặc chú trọng vào các Thiền định kể trên; mà điểm cốt yếu của Thiền tông là Tâm pháp của chư Phật, là ánh sáng trí huệ của chư Phật, là pháp thân thường trụ của chư Phật; và điểm cuối cùng của Phật tâm tông là thâm nhập đến chỗ uyên áo cùng cực Niết bàn tự tâm, chứ không lấy kết quả của con đường tu tập Thiền định làm chỗ cứu cánh viên mãn. Điển hình như pháp sư Ấn Tông hỏi Lục Tổ Huệ Năng:
“- Huỳnh Mai phó chúc việc chỉ dạy như thế nào?
Huệ Năng bảo:
– Chỉ dạy thì không, chỉ luận về kiến tánh, chẳng luận thiền định và giải thoát!
Ấn Tông thưa:
– Sao chẳng luận thiền định giải thoát?
Huệ Năng bảo:
– Vì ấy là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp chẳng hai!
Ấn Tông lại hỏi:
– Thế nào là Phật pháp là pháp chẳng hai!
Huệ Năng bảo:
– Pháp sư giảng kinh Niết Bàn rõ được Phật tánh, ấy là Phật pháp là pháp chẳng hai”.
Vì thế, từ Đại sư Lục Tổ về sau có rất nhiều vị Thiền sư chẳng chủ xướng con đường tu tập Thiền định làm chỗ cực tắc. Các Ngài cho rằng Thiền định không phải là tông chỉ rốt cùng của Thiền tông. Như Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng khi thấy Mã Tổ Đạo Nhất chuyên cần tọa thiền suốt ngày liền hỏi:
“- Đại đức tọa thiền để làm gì?
Đạo Nhất đáp:
– Để làm Phật.
Sư bèn lấy một miếng ngói đến mài ở trước am Đạo Nhất.
Đạo Nhất hỏi:
– Mài ngói để làm gì?
Sư đáp:
– Làm gương.
– Mài ngói sao thành gương được?
– Mài ngói đã không thành gương thì tọa thiền có thể thành Phật được sao?
– Vậy như thế nào mới phải?
– Như trâu kéo xe; nếu xe không đi thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
Đạo Nhất không đáp được!
Sư nói tiếp:
– Người học tọa thiền hay học tọa Phật? Nếu học tọa thiền thì thiền chẳng thuộc ngồi nằm; nếu học tọa Phật thì Phật chẳng phải tướng nhất định, đối với pháp vô trụ không thủ xả. Ngươi nếu tọa Phật tức là giết Phật; nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt ý kia”.
Do đó chúng ta thấy pháp môn Thiền tông không dựa hẳn hoàn toàn vào Thiền định. Các vị Tông sư thuở xưa căn tánh rất bén nhạy, chỉ cần ngay trong một cơ một cảnh đối đáp qua lại hốt nhiên trực nhận bản tâm, nhận ra tánh tri kiến như thật của chính mình, lập tức liền thôi. Như Hòa thượng Đức Sơn nói : “Từ đây về sau chẳng còn bị đầu lưỡi lão Hòa thượng trong thiên hạ lừa nữa”.
Thế nhưng, đâu ai biết rằng trước khi trực ngộ bản tâm xuyên suốt vạn pháp, các Ngài đều đã trải qua một thời gian lâu dài khổ công tu tập Thiền định. Chẳng hạn, nếu ta chín chắn xem xét kỹ cơ duyên ngộ đạo của hai vị Thiền sư Ngưu Đầu Pháp Dung và Mã Tổ Đạo Nhất thì sẽ thấy những lời khai thị sấm sét của hai vị Tổ sư Tứ Tổ Đạo Tín và Nam Nhạc Hoài Nhượng, đều chỉ là một cái động chuyển cuối cùng cho những bậc pháp khí đã từng dày công tu tập thiền định; như trái chín cây ắt phải rụng, như giọt nước cuối cùng ắt phải tràn. Nhà thiền gọi cảnh giới này là Đột biến thân tâm, phá sạch cơ nghiệp. Đến cảnh giới này thì các Ngài mới hoàn toàn thôi nghỉ: mặc áo, ăn cơm, rửa chén,… đều là ở trong cảnh giới Thường Tịch Quang của chư Phật.
Song cũng có bậc thượng căn túc trí, tuy chưa tu một ngày Thiền định mà ngay một lời liền đốn siêu Phật Tổ, trực nhận bản tâm, như trường hợp Ngài Huệ Năng chẳng hạn. Đó là do túc căn sâu dày huân tu nhiều kiếp, đến lúc nhân duyên chín muồi thì tâm cơ được phá vỡ, ngay đó liền đốn siêu phương tiện.
Như vậy, giữa con đường Thiền định và Phật tâm tông, ta phải chín chắn xem xét cho kỹ. Ta là bậc căn cơ hạng nào hãy tự xem lấy! Sao chẳng thấy các bậc Tông sư thưở xưa như ngài Trường Khánh Huệ Lăng, Sư qua lại thưa hỏi suốt hai mươi năm, ngồi rách bảy cái bồ đoàn mới sáng được việc này. Như Ngài Tuyết Phong Nghĩa Tồn ba lần lặn lội lên Đầu Tử, chín lần lao nhọc đến Động Sơn mới sáng được việc lớn. Thế thì ai dám bảo rằng Thiền tông không chú trọng vào việc tu tập Thiền định?
Dẫu biết rằng, hành giả một khi đã đại triệt đại ngộ rồi thì Thiền định hay không Thiền định chỉ là lời nói dư thừa. Song chúng ta hễ còn dụng công tức là tâm còn tẩu tác thì chưa thể bỏ qua con đường Thiền định. Như Thiền sư Dũng Tuyền Hân nói: “Ta bốn mươi chín năm tại chỗ này còn có tẩu tác, bọn các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, còn người hạnh giải thì trong muôn người mới có một. Kiến giải, ngôn ngữ thảy cần phải cho thấu triệt, nhưng thức tình nếu chẳng hết thì tôi dám nói là hãy còn luân hồi. Sao vậy? Bởi vì thức lậu chưa hết! Ông chỉ cần sạch hết thức lậu thì lúc bấy giờ mới thành tự lập”.
Vậy thì Thiền định phải chăng là Thiền tông? Xin nói thẳng là không phải. Vì sao? Vì nếu nói Thiền tông lấy con đường Thiền định làm chỗ cực tắt thì đâu được gọi là “Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng”. Bởi vậy, các bậc Tông sư chẳng cho Thiền định là chỗ cực tắt, đó cũng chỉ vì muốn tháo đinh mở chốt cho những hành giả nào còn chấp vào con đường Thiền định cho đó là chỗ cứu cánh viên mãn.
Như vậy, thiền định của Thiền tông là “chẳng lìa thiền định, chẳng chấp thiền định”. Như trong Luận Vĩnh Gia Tập, Đại sư Huyền Giác tụng:
Khéo khéo lúc dụng tâm,
Khéo khéo không tâm dụng,
Không tâm khéo khéo dụng,
Thường dụng khéo khéo không.
Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy: “Này thiện tri thức, sao gọi là thiền định? Ngoài lìa tướng là thiền; trong chẳng loạn là định. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm tức loạn; ngoài nếu lìa tướng tâm tức chẳng loạn. Bản tánh tự tịnh tự định. Chỉ vì thấy cảnh tức loạn; nếu thấy cảnh mà tâm chẳng loạn ấy là chơn định”. Thế nên người xưa nói: “Chỗ có Phật cũng đừng lưu luyến, chỗ không Phật phải mau chạy qua”, tham đi tham lại lời này tự khắc ngộ được yếu chỉ cương tông của Thiền là gì. Bằng không thì tự cứu cũng chẳng được, huống nữa là làm bậc Đại sĩ trong thiên hạ!
Tóm lại, Thiền định chỉ là phương tiện đưa hành giả đến quả vị giác ngộ tối thượng; Thiền tông mới là chỗ cực tắt viên chứng tâm pháp nhứt như. Do đó nên ta không thể nói Thiền định là Phật tâm tông. Song, nhờ Thiền định mà chúng ta mới gạt bỏ được những cù cặn của dòng tâm thức. Do đó, trên từ chư Phật, dưới đến các bậc Tổ sư, các Ngài chưa từng ly khai Thiền định ra ngoài dấu ấn Phật tâm tông được.
XIII. CỘI NGUỒN LÀ ĐÂY:
Ai đã từng đọc kinh Pháp Hoa đến phẩm “Tín Giải” đều lấy làm xót hương cho chàng cùng tử. Từ địa vị con một ông trưởng giả giàu có, gia tài của báu vô lượng không thể tính kể, đó là kho tàng quý báu vô lượng mà sau này chính mình thừa hưởng chứ không ai khác. Nhưng bất thần gã bỏ cha mẹ đi lang thang từ nơi này đến nơi khác, làm kẻ ăn mày khốn đốn. Rồi trong phút giây nào đó, trên bước đường tha phương cầu thực, gã cùng tử trở về bổn quốc đúng vào ngôi nhà xưa của chính mình, gã gặp lại người cha năm xưa nhưng nào dám nhận, vì gã quên mất cội gốc từ lâu và mặc cảm cho mình là kẻ cơ bần đói rách.
Xét cho thấu đáo chúng ta đâu khác gì chàng cùng tử, bởi vì trong chúng ta ai ai cũng có một kho tàng vô giá “bảo châu như ý”, một nguồn cội bản thể vô biên cùng với chư Phật và đại Bồ tát không khác. Song do một niệm bất giác chợt dấy lên làm nhân tướng hư vọng tiền trần cho là thật tâm mình, nên sanh ra hai thứ thương và ghét.
Vì sao? Vì chúng ta lầm giả cho là chơn, nên mãi trầm luân trong biển khổ sanh tử và chịu vô lượng cảnh khổ đau. Chỉ vì mỗi người và mỗi loài không biết rằng mình đang cùng chung một thể tánh sáng suốt cùng với chư Phật và đại Bồ Tát. Từ sự nhận thức sai lầm đó đã làm phát sinh bao nhiêu thứ phiền não, nào là tham dục, sân hận và si mê.
Vì quá vô minh điên đảo lầm nhận các tướng hư ảo cho là thật. Con người mải theo cảnh vật bên ngoài không lúc nào dừng nghỉ. Mãi rong ruổi theo ngoại cảnh, người ta vô tình hay cố ý đã lạc vào chốn rừng hoang đầy thú dữ. Càng đi! Càng đi xa mãi! Càng quanh quẩn nhiều, càng lạc rối thêm, giống như chàng cùng tử bỏ cha đi không khác. Vì thế, đức Phật thương xót cho tất cả chúng sanh, Ngài thị hiện ra đời, để đánh thức chúng ta trở về nguồn cội ban sơ của chính mình. Rồi lần lượt chư Tổ ra đời tiếp nối ánh nhiên đăng của Phật, các Ngài cũng dùng đủ mọi phương tiện để khơi dậy chỗ này.
Vậy chúng ta phải làm sao để trở về lại nguồn cội? đó là điều trăn trở ưu tư của hành giả khi bước vào con đường độc lộ.
Người xưa nói: “Nhân nơi đất té, nhân nơi đất mà đứng dậy”, chính từ chỗ mê cuồng, cũng chính là chỗ trở về nguồn cội. Bằng chứng kinh Lăng Nghiêm: Khi A Nan hỏi Phật về nghĩa con đường sanh tử và con đường trở về nguồn cội, thì chẳng phải một đức Phật Thích Ca, mà cả mười phương chư Phật đều phóng quang đến thế giới này, đồng bảo ngài A Nan: “Ông muốn biết cội gốc vô minh là đầu gút khiến cho ông luân hồi sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không có vật gì khác. Ông muốn biết tánh vô thượng Bồ đề khiến ông mau chứng an lạc giải thoát tịch tịnh diệu thường cũng là sáu căn của ông”.
Vì sao? Vì chính lâu nay chúng ta từ nơi sáu căn rong ruổi theo sáu trần bên ngoài, tạo nghiệp đi trong sanh tử. Giờ đây, cũng ngay sáu căn mình biết xoay lại không chạy theo sáu trần, tức là con đường trở về nguồn cội.
Cảm thông sâu sắc ý này, Sơ tổ Trúc Lâm sau khi thấu triệt được muôn pháp, thấy rõ con người chân thật nên xuân nay có khác:
Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa xuân nay bị ta khám phá
Nên cỏ giường Thiền ngắm cánh hồng.
(Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diệm,
Thiền bảng bồ đoàn khán trụy hồng.)
Thật vậy, lúc còn niên thiếu ở trong ngôi vị quyền quý của một ông Hoàng chưa thấm nhuần lý đạo, mỗi độ xuân về khoe sắc thắm. Sắc hương hoa là hình ảnh xao xuyến quyến rũ tâm hồn trẻ dại của Ngài khi mỗi độ xuân về.
Nhưng khi khôn lớn tìm thấy được đạo, Ngài quyết cởi bỏ những sợi dây ái ân xiềng xích, nào là: Danh vọng, tài sắc, địa vị, quyền uy, cung vàng điện ngọc, đắm mình vào cửa Thiền. Qua bao năm tháng gia công tu tập, Ngài đã khám phá ra chân lý của vũ trụ, thấy rõ bản lai diện mục của chính mình. Đến đây Ngài không bị sắc hương quyến rũ, tâm hồn luôn lắng đọng trong niềm cô tịch, từ đây đâu còn đuổi bướm hái hoa nữa, ngồi lặng lẽ trên nệm cỏ nhìn hoa nở, tàn một cách an nhiên tự tại. Trước mắt Ngài, mỗi sự vật cứ trôi đi mãi, chuyển dịch đổi dời không phút giây dừng nghỉ, sự sinh diệt nơi các hiện tượng như một dòng sông trôi chảy đến vô tận.
Bởi vậy, dưới con mắt của người đã đạt đạo vẫn thấy có cái gì luôn luôn hiện hữu, thoát ngoài sự sinh diệt không gian và thời gian muôn thuở.
Thế nên, người tu hành theo tinh thần Thiền tông là không hủy hoại đến các pháp, mà trả các pháp trở về nguyên thể của nó. Hoa vẫn nở, chim vẫn hót, suối vẫn reo, gió vẫn đùa trên tùng thông ngàn cội; hoa và chim, suối và gió, tùng và thông là một thực tại nhiệm mầu bất biến. Chúng vốn có mặt từ vô thủy đến vô chung, mà vô thủy và vô chung chỉ có mặt trong sát na hiện tiền bất động.
Vì vậy, Thiền không thể lìa ngoài ảo ảnh đổi thay của muôn pháp, mà riêng tìm thực thể chân không, nhờ “không” mà muôn pháp hiện bày, nhờ “không” mà muôn pháp được hoạt dụng. Vì sao? Vì “không” vốn là tự thể của muôn pháp, là mẹ đẻ của muôn loài, là cội nguồn của chủng tánh hàm linh, là sự hiện sinh tất cả, ba đời chư Phật cũng từ “không” mà lưu xuất. Nhưng “không” lại không hình, không tướng, không phải quấy, hơn thua, lành dữ, tốt xấu… nên không sờ mó và nắm bắt được.
Nét độc đáo của “Thiền” là: phát minh đại sự. Vì vậy người tu thiền khi nào ánh sáng giác ngộ bùng lên từ vùng sâu thẳm của tâm thức, khi một nguồn sống tâm linh được tuôn trào, thì lúc ấy chúa xuân liền vén nở những ẩn mật của kiếp người. Muốn khám phá ra được chúa xuân, muốn trở về nguồn cội tâm linh, thì mỗi người phải tự thể nhập vào vạn vật. Chúa xuân ấy chỉ nằm trong sự đổi thay của muôn pháp, trong cái chuyển vô thường ảo vọng, hoa nở, hoa tàn của vạn vật, còn có cái gì ẩn mật thầm kính trường tồn miên viễn. Đó là hình ảnh:
Linh Sơn thiếu thất Tào Khê ấy,
Một điểm linh quang sạch pháp trần,
Đêm nay trăng sáng soi đỉnh núi,
Dáng núi cô liêu tiếng vượn trầm.
Cuối cùng, chỗ dụng công đắc lực của người tu thiền là : “Phản quang tự kỷ bổn phận sự”, việc làm này là việc của chính mình đâu tìm cầu bên ngoài. Nên nói là: “Bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Vì thế, người tu thiền luôn luôn lúc nào cũng tỉnh thức và hằng xét soi lại chính mình, đừng để sáu căn theo đuổi theo sáu trần. Đến khi nào công phu chín muồi, thời tiết nhân duyên đến hoa lòng bỗng nhiên bừng nở, một tiếng nổ vang, mười phương thấu suốt, mới hay ra rằng: “Chúng sanh nay vốn đã là Phật, sanh tử Niết bàn như giấc mộng đêm qua”.
Trúc Lâm, ngày 22 tháng 7 Nhâm Ngọ
Cẩn bút
Đạt Ma Khế Định.