Nhìn Đời Như Bọt Nước

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG THIỀN HỌC BẮC TRUYỀN

THÍCH ĐẠT MA KHẾ ĐỊNH

Nhìn Đời Như Bọt Nước

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

Mục lục
Lời Phi Lộ
Nhìn Đời Như Bọt Nước
Số Đời Một Hơi Thở
Phật Pháp Căn Bản
Tâm Phật và Tâm Ma
Tâm Kinh Bát Nhã

Lời Phi Lộ

Núi rừng tĩnh mịch, đồi núi thâm u thông thẳng đến tâm Phật của người tu thiền. Nơi ấy có sông, suối, ao hồ, rừng cây, chim ca, sóc nhảy… Ở chốn núi rừng này một sớm mai thức dậy ta bỗng thấy trên từng ngọn cỏ, lá cây sương giăng phủ kín. Song khi mặt trời xuất hiện chiếu soi vào vạn vật thì sương mù liền tan biến.

Đức Thế Tôn dạy: Cõi đời này khi mê thấy toàn sương mù giăng lối. Không biết đâu là lối về, đâu là cố hương muôn thuở! Nhưng khi tỉnh ra như mặt trời chiếu soi vạn tượng, tức khắc sương mù tan biến hiện rõ lối đi. Nên Tổ Bá Trượng nói: “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu”, nghĩa là đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ liền xuất hiện.

Đã là người ai cũng mang trong mình bốn tướng Sanh-già-bệnh-hết, dù cho người trí hay ngu, dù cho sang hay hèn tôn giáo hay không tôn giáo… tất cả đều là mầm mống của khổ đau, vì bản chất của tướng già – bệnh – chết là tướng hoại diệt là tướng vô thường, đã là tướng vô thường, là tướng hoại diệt, thì đều là tướng của khổ đau.

Song nhờ thâm nhập vào lời dạy của Đức Thế Tôn, hành giả tu tập phải quán chiếu vào tận cùng ngõ ngách của vạn pháp và trang bị cho mình một cái nhìn, nhìn gì? Nhìn đời như bọt nước, nhìn đời như ảo ảnh… để hành giả bớt chấp ngã, chấp pháp, ta người…. và chứng nghiệm thực tại ngay tại đây và bây giờ.

Quyển sách này là ghi lại từ nhân duyên chuyến hoằng pháp tại các nước Pháp, Đức, Áo, Bỉ… Trong phần này, nói về sự vô thường của vạn pháp, để chúng ta quán chiếu và chứng nghiệm trong dòng sống động của vạn loài.

Vì ghi lại từ đĩa giảng chắc chắn không tránh khỏi những điều thiếu sót. Kính mong các bậc thiện tri thức trong thiên hạ bỏ qua cho. Chúng con thành kính tri ân.

Đầu hạ năm Kỷ Hợi

Trúc Lâm Chánh Thiện

Thích Đạt Ma Khế Định

Cẩn bút

Nhìn Đời Như Bọt Nước

Phần đông chúng ta đều có nghi vấn: “Tại sao chúng ta học Phật pháp nhiều mà tâm vẫn còn nhiều dính mắc, không buông xả hết được? Như vậy, ở nhà sướng hơn đi học Phật pháp!” Có người còn nói: “Đi tu thì mình cũng chết, mà ở nhà cũng chết, vậy thì ở nhà luôn!”

Lúc ở Việt Nam, tôi tình cờ thấy một vụ tai nạn. Hai người cùng đi trên một chiếc xe máy hai bánh, khi bị tai nạn té xuống, cả hai đều va vào trụ điện, nhưng chỉ một người chết và người còn lại sống. Có người nói là do số mệnh, nhưng khi khám hiện trường, người ta phát hiện người chết không đội mũ bảo hiểm, còn người kia tuy cũng bị va vào trụ điện nhưng sống nhờ trang bị mũ bảo hiểm.

Trong kinh A-hàm, Đức Phật đưa ra ví dụ:

“Này các Tỷ-kheo! Ví như có hai người cùng rớt xuống một cái hầm xí, người thứ nhất may mắn được người thân vớt lên tắm rửa xức dầu thơm; người thứ hai không được ai vớt, khi leo được lên bờ thì cũng không ai tắm rửa xức dầu thơm cho. Này các Tỷ-kheo! Như Lai nói rằng hai người đều sanh ra trong cuộc đời này, cũng gặp khổ nạn, cũng gặp khổ đau nhưng người thứ nhất không khổ, không buồn, không bị xúc não vì họ được giúp đỡ. Còn người thứ hai thì không được may mắn như thế.”

Thiền thoại kể câu chuyện:

Có một ông cư sĩ, khi ra khỏi nhà một đoạn đường thì bất chợt trời đổ mưa lớn. Không có dù, cũng không có áo mưa nên ông chạy vào trú mưa dưới mái hiên. Đứng trong mái hiên, ông nhìn thấy một vị thiền sư cầm cây dù đi trong mưa, ông gọi lớn:

– Thiền sư! Xin Ngài rộng độ, cho con theo Ngài một quãng đường.

Thiền sư nói:

– Ông đang đứng trong mái hiên đâu có bị mưa ướt mà bảo tôi độ cho ông.

Nghe nói như thế ông cư sĩ chạy ra mưa nói với thiền sư:

– Bây giờ con chạy ra mưa rồi, mưa ướt áo con hết rồi, thiền sư độ cho con đi.

Lúc này Thiền Sư nói:

– Ông đứng trong mưa, tôi cũng đứng trong mưa. Sở dĩ ông bị mưa ướt áo vì ông không có cây dù. Còn tôi đứng trong mưa mà mưa không làm ướt áo tôi vì tôi có cây dù. Không phải tôi độ ông, mà chính cây dù độ tôi. Ông không muốn ướt áo thì đi tìm cây dù để dù độ cho ông.

Qua ba câu chuyện trên, ta học được gì? Ông cư sĩ đứng trong mưa bị ướt áo lạnh lẽo, còn vị Thiền sư cũng đứng trong mưa mà không ướt áo vì Thiền sư có cây dù.

Cũng vậy, trong cuộc sống giữa đời thường này, ai cũng khổ như nhau. Khi một trận động đất đổ xuống, đá đè lên đầu thì người ăn mày ăn xin bị khổ bị chết, mà ông tỉ phú có khỏi khổ khỏi chết không? Ai cũng chết ai cũng khổ. Bởi vì đã sanh ra trong cõi Ta-bà này, hay nói khác hơn là mang cái hình hài ngũ uẩn này thì tất cả mọi con người chúng ta đều có khổ có buồn, có vui sướng có hạnh phúc, ai cũng giống như ai. Người có bằng cấp tiến sĩ, bác sĩ bị dao đâm vào bụng cũng đau, mà người không biết chữ, dốt hoặc nghèo nàn bị dao đâm vào bụng cũng đau. Nhưng người có trí tuệ, họ rút dao ra rồi băng bó vết thương. Còn người không có trí tuệ khi bị dao đâm, về nhà họ lại tiếp tục đâm thêm nhiều nhát dao vào bụng nữa.

Con dao này, Đức Phật ví dụ như những lời người ta mắng chửi hoặc nói nặng mình. Mình biết tu thì ngay trong giờ phút đó mình buông xả liền chứ không đem về nhà. Còn mình ăn không được, ngủ không được đó là mình tiếp tục đâm con dao thứ hai. Tối lại mình lôi chồng ra kể, tức là con dao thứ ba. Mình kể cho chồng chưa hả, lôi con cái kể, đó là con dao thứ bốn. Kể với chồng con cũng chưa hết giận, lôi cháu ra kể, rồi con rể con dâu, dòng họ bà con cô bác, tức là đâm rất nhiều con dao vào bụng. Người có trí tuệ, tiêu biểu cho người có cây dù, họ không bị mưa ướt lạnh lẽo vì họ có cây dù chánh pháp. Còn mình đi trong cuộc đời này mà không tu học, không chịu buông xả là mình bị mưa ướt.

Như vậy quý Phật tử thấy rằng, đau khổ hay hạnh phúc là do bản thân mình quyết định. Mình buông xả được thì cuộc đời mình không khổ, tự tại, ung dung, giải thoát. Ngay nơi đời sống này mà mình giải thoát, thì chắc chắn khi chết mình được giải thoát. Còn không buông xả được thì chắc chắn khi chết, chính nghiệp lực này đưa mình đến những chỗ mà mình dính mắc nhiều.

Đức Phật không dạy cho mình thần thông phép lạ hay những gì huyền bí, cũng không dạy những điều đến khi chết mình mới thấy. Mà đạo Phật dạy để mình quán chiếu, thực tập, buông xả lúc còn sống. Đó là tinh thần của nhà Phật.

Đức Phật và chư Tổ ra đời, các Ngài trang bị cho mình chỉ một cái thấy duy nhất thôi. Cho nên trong kinh A-hàm Đức Phật nói là ở thế gian này có hai hạng người, hạng người bị mù mắt và hạng người không bị mù mắt:

“Này các Tỳ-kheo! thế nào là hạng người bị mù mắt? Này các Tỳ-kheo! Người đó không học hỏi Phật pháp, không tu tập con đường giới, con đường định, con đường tuệ. Thế nào là người sáng mắt? Là người đó tu học về Phật pháp, và đi trên lộ trình Giới – Định – Tuệ.”

Nói khác hơn là một người ngủ và một người thức. Khi mình không buông xả được, đụng đâu chấp đó, có nghĩa là mình đang ngủ. Còn gặp chuyện gì đến buông xả được, tâm nhẹ nhàng, tức là mình đang thức.

Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật nói một bài kệ dạy cho các Tỳ-kheo khi đi khất thực không bị cuộc đời làm cho khổ và phiền não. Đức Phật nói các ông chỉ cần nhớ bài kệ này thôi, các ông đi đâu cũng hạnh phúc hết:

Nhìn đời như bọt nước,

Nhìn đời như ảo ảnh.

Ai nhìn đời như thế,

Chẳng bị thần chết lôi.

Nếu quý Phật tử trang bị được cái thấy nhìn đời như ảo ảnh, nhìn đời như bọt nước, thì sẽ không khổ và khi cái chết đến cũng không sợ hãi. Bây giờ tôi hỏi thật quý Phật tử: Tinh thần của đạo Phật là lạc quan hay bi quan? Lạc quan là vui mà bi quan là buồn khổ, đúng vậy không?

Để làm minh chứng, tôi kể một câu chuyện trong Tương Ưng Bộ Kinh:

Một thời Thế Tôn ở tại Xá Vệ, rừng Kỳ Đà (Jetavana) vườn ông Cấp Cô Độc.

Rồi một vị Thiên Tử tên là Kakudha, khi đêm đã gần tàn, với nhan sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jatavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên, bạch rằng:

-Thưa Sa Môn, Ngài có hoan hỷ không?

-Ta được cái gì, này hiền giả (mà ta hoan hỷ)?

– Nếu vậy, thưa Sa Môn, có phải Ngài sầu muộn?

-Ta mòn mỏi cái gì, này hiền giả (mà ta sầu muộn)?

-Vậy thời, thưa Sa Môn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn?

-Thật đúng vậy, này hiền giả!

Thế Tôn liền nói bài kệ:

Hoan hỷ chỉ có đến

Với người tâm sầu muộn

Sầu muộn chỉ có đến

Với người tâm hoan hỷ

Do vậy, vị Tỳ Kheo

Không hoan hỷ sầu muộn

Vậy nên, này hiền giả

Ngươi phải biết như vậy.

Như vậy, tinh thần của nhà Phật là vượt lên sự bi quan và lạc quan.

Đứng trên mặt nước, chúng ta thấy dòng sông đang cuồn cuộn chảy, thấy rác, thấy bọt bèo đang trôi, với điều kiện là chúng ta chỉ nhìn ngắm nó, nhìn ngắm dòng sông. Chúng ta nhìn ngắm cuộc đời, nhìn ngắm tất cả mọi người mà chỉ với một cái biết, cái tánh biết này không buồn, không khổ, không vui. Đó là tinh thần của nhà Phật. Bởi vì khi lạc quan thì một lúc nào đó sẽ bi quan. Còn tinh thần nhà Phật là cái nhìn xuyên suốt giữa bi quan và lạc quan, giữa thiện và ác, giữa vui và khổ, giữa phiền não và Bồ-đề, giữa sanh tử và Niết-bàn.

Đức Phật nói, sở dĩ chúng ta khổ, không được vui, không được tự tại vì chúng ta luôn luôn nhìn cái bóng cho là mình, rồi từ đó chúng ta bắt bóng. Bắt cái bóng đó cho là mình, rồi chúng ta chìm trong đó khóc than, rồi trách người này trách người nọ. Phật nói là do mình bắt cái bóng mà không thấy được rằng cái gì thấy được cái bóng. Chỉ cần biết đó là cái bóng, là ảo ảnh thì quý Phật tử buông là xong. Mình buông không được vì không thấy nó chỉ là bóng, không phải là thật của mình. Chỉ cần quán chiếu như thế thì cuộc đời này quý Phật tử hết khổ an vui.

Trong kinh Bách Dụ Phật kể:

Ngày xưa có một anh chàng ở quê lần đầu tiên lên phố, anh vào tiệm tạp hóa, thấy một vật hình tròn, nhìn vào trong đó thì thấy bóng người. Thấy lạ anh mua về nhưng sợ vợ biết nên đem giấu trong bồ lúa. Ngày nào cũng vậy, cứ khoảng bốn năm giờ chiều anh lén vào bồ lúa lấy gương ra săm soi khuôn mặt của mình. Người vợ thấy từ ngày đi phố về chồng có điều gì lén lút, cô để ý chiều nào anh cũng vào bồ lúa rồi ở trong đó thật lâu. Cô vào lục tìm được cái gương, nhìn vào gương thấy bóng mình trong đó cô khóc sướt mướt, nghĩ rằng đó là người tình của chồng. Vô cùng buồn khổ, cô chạy lên nhà trên tìm mẹ ruột:

– Mẹ ơi, từ ngày chồng con lên phố, anh mua cô hầu này về giấu trong bồ lúa, hèn chi ngày nào anh cũng vô trong đó thật lâu!

Cô đưa gương cho mẹ, bà soi gương rồi nói:

– Con nhỏ này tám chín chục tuổi rồi, ghen gì nữa mà ghen.

Cuối cùng hai vợ chồng đưa nhau lên quan huyện. Quan huyện cầm gương soi thấy cái bụng của mình, mà bụng quan thì lớn, ông nói:

– Nó sắp sanh rồi còn kiện tụng chi nữa!

Sự việc chưa ngã ngũ, tình cờ có một vị sa-môn đi ngang qua, nghe xong câu chuyện vị sa-môn cầm cái gương liệng xuống đất. Gương bể, lúc đó bà mẹ vợ, người con gái, ông con rể và ông quan huyện, bốn người đều tỏ ngộ, mới biết người trong gương là cái bóng của mình.

Đức Phật nói tất cả chúng sanh cũng thế, chấp cái bóng cho là mình, cho nên mới khóc than, buồn vui, sướng khổ. Khi nào cái bóng vỡ ra thì tức khắc quý Phật tử tỏ ngộ. Cũng giống như khi Tổ Huệ Khả nhìn lại tâm mình không thấy bóng dáng của nó nữa, thì tức khắc Ngài ngộ đạo, đơn giản vậy thôi. Quý Phật tử suốt ngày có nhìn cái bóng của mình không? Cái bóng mình cười mình cười theo, cái bóng mình khóc mình khóc theo; mình toàn khóc cười, toàn chạy theo cái bóng. Hiểu được như thế thì cuộc đời mình an ổn, không còn khổ nữa. Cho nên các Ngài nói mình đừng bắt bóng.

Như trong kinh Lăng Nghiêm Phật thí dụ, ông Diễn-nhã-đạt-đa soi gương thấy đầu mình trong gương, khi úp gương xuống ông hoảng sợ la lên: “Tôi mất đầu rồi!” Ngay trong giờ phút đó mà có ai gõ đầu ông: “Đầu ông còn đó sao mất!”

Cũng như thế, các Thiền sư gõ đầu mình các Ngài khai thị, mình vẫn còn hiện hữu sờ sờ đó không có mất. Khi cái bóng nó lặn rồi vẫn có chủ chứ không phải không còn gì nữa. Quý vị nhớ kỹ, khi cái gương úp xuống rồi không còn cái bóng nữa, vẫn còn mình sờ sờ tức là cái biết mình sáng suốt rõ ràng, chứ không phải khi cái bóng mất rồi không còn mình. Cái bóng đến đi, chạy nhảy, khóc cười nhưng ông chủ vẫn ngồi yên nhìn cái bóng chạy nhảy. Khi quý Phật tử phát hiện được đó là cái bóng của mình thì không khổ nữa, đơn giản vậy thôi.

Để giúp mình bớt chấp, bớt dính mắc và buông xả được, Đức Phật dạy mình phương pháp thứ hai, trang bị cho mình một cái thấy nữa: Tất cả vạn pháp đều phải tan rã. Một vị thiền sư nói:

Ta cứ ngỡ trăng sao là vĩnh cửu,

Nào ngờ đâu non nước cũng vô thường.

Gần đây có những trận động đất, những trận sóng thần. Thế giới mình đang ở càng ngày càng nóng lên. Người ta còn nhìn thấy trái đất bây giờ mỏng manh giống như một quả trứng gà, chỉ cần vật gì va chạm là nổ tung. Thấy như thế không phải mình bi quan mà để có một sức sống, từ đó mình nương theo chỗ Đức Phật chỉ dạy mà tu. Mình biết rằng rồi cũng sẽ từ giã cuộc đời này ra đi. Khi ra đi mình mang theo được cái gì, thì mình ráng tu tập, ráng ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, ráng tạo các việc phúc thiện, đó là quý Phật tử trang bị cái thấy cho mình. Đức Phật khẳng định tất cả mọi con người chúng ta có mặt trong cuộc đời này rồi cũng bị tan rã, chứ không phải đứng yên một chỗ mãi mãi.

Quý Phật tử nghiệm lại xem, khi qua nước Đức này quý Phật tử bao nhiêu tuổi? Bây giờ nhìn lại là ba chục năm, có người bốn chục năm. Khi mới qua đây, tóc mình còn đen nhánh. Bây giờ trên đỉnh đầu tóc bạc hết, có phải là vạn pháp đang đốt cháy mình, đang vô thường, đang biến dịch không? Quán chiếu như thế để làm gì? Để thấy thân xác toàn là vay mượn. Sáng quý Phật tử vay mượn một ổ bánh mì, trưa ăn cơm là vay mượn đất, ăn thêm chén canh là vay mượn nước. Mình vay mượn tứ đại bên ngoài vào trong thân, mà tối nó không chịu ra thì tính sao? Chắc chắn mình phải uống thuốc xổ, mà uống thuốc xổ nó cũng không chịu ra luôn, phải làm gì? Đi bệnh viện! Hãy quán chiếu thật kỹ để bớt chấp ngã.

Quý Phật tử có bảo đảm rằng thân thể là cái ngã của mình không? Nếu mình bảo đảm cái thân thể này là cái ngã bất di bất dịch của mình thì nó phải đủ ba yếu tố kèm theo: một là chủ tể, hai là bất biến, ba là đồng nhất.

Chủ tể là gì? Chủ tể là phải làm chủ được cái thân này. Mà có ai làm chủ được thân chưa? Chẳng hạn như sáng nay mình có một buổi đi tham quan nước Bỉ. Xe đang chạy ngon trớn giữa đường, hồi sáng ăn cái gì mà bây giờ bị chột bụng, chịu không nổi phải kêu bác tài ngừng lại. Bác tài nói ở đây không có nhà vệ sinh, lúc đó mình nói: “Mày ngừng lại không được ra!” thì có ngừng lại được không? Nếu mà nó ngừng lại, tức là mình làm chủ cái thân này. Còn mình kêu nó ngừng lại mà nó không chịu ngừng, tức là không làm chủ được. Như vậy nó không phải là chủ tể.

Rồi quý Phật tử thấy nó có đồng nhất không? Đồng nhất là gì? Đồng nhất có nghĩa nếu là đất thì phải toàn là đất, nước phải toàn là nước, gió phải toàn là gió, lửa cũng phải toàn là lửa. Nhưng thân này do bốn thứ đất, nước, gió, lửa hợp thành, tức là nó không đồng nhất. Chất cứng tóc, răng, móng tay móng chân là đất. Nước là đàm, giãi, nước tiểu. Hơi thở là gió, hơi nóng trong mình là lửa. Hôm nào nước trong mình nhiều quá phải tìm cách cạo gió cho nước nó ra bớt. Hôm nào đất nhiều quá, nó lấn ba đại còn lại thì phải xông hơi. Như vậy trong suốt cả cuộc đời, mình phải điều phục bốn con rắn độc, điều phục sao cho đất, nước, gió, lửa điều hòa thì cơ thể không bệnh. Chỉ cần bốn đại này trục trặc là sanh bệnh.

Bất biến là gì? Bất biến có nghĩa là tứ đại của quý Phật tử mười tám tuổi là mười tám tuổi nó đứng yên một chỗ. Còn đằng này sao? Quý Phật tử nghe bài kệ của Thiền Sư Quang Giác đời Tống:

Năm trước gặp thanh xuân,

Má hồng khoe đào lý.

Năm nay gặp thanh xuân,

Tóc bạc đầy cả mái.

Người đời tuổi bảy mươi,

Nhanh như dòng nước chảy.

Chẳng ngộ tâm xưa nay,

Sanh tử làm sao khỏi.

Ngài nói năm trước gặp thanh xuân thì hoa đào hoa lý cũng thua cô bé mười bảy mười tám tuổi sắc mặt hồng hào. Nhưng với cặp mắt giác ngộ của các Thiền sư thì “năm nay gặp thanh xuân, tóc bạc đầy cả mái.” Mà cuộc đời bảy mươi tám mươi năm, nhìn lại nhanh như dòng nước chảy chứ không đứng yên một chỗ. Như vậy thì cái ngã này không phải là chủ tể, không phải là bất biến, không phải là đồng nhất. Khi biết rằng cái ngã này do duyên tụ hợp lại, hoàn toàn không phải của mình thì mình không còn chấp nữa.

Bây giờ tôi xin hỏi một câu, quý Phật tử phải mạnh dạn trả lời. Buổi sáng thức dậy điều đầu tiên quý Phật tử nghĩ đến là gì? Mình nghĩ sáng nay ăn bánh mì loại nào, phô mai loại nào, cơm sườn, cơm tấm hay bún bò kho. Hoặc nghĩ hôm nay chủ nhật, nấu món gì thật ngon cho chồng con ăn. Có thể nhịn ăn bảy ngày, nhịn khát hai ngày nhưng không bao giờ nhịn thở được một ngày, nhịn thở một ngày là chết liền. Hơi thở là quan trọng nhất, vậy mà không ai nhớ. Đức Phật nói chúng sanh không bao giờ nhớ hơi thở, mà nhớ ăn uống, nhớ mặc, nhớ tiền tài, nhớ danh vọng… Cho nên phương pháp thực tập trong nhà Phật để giảm bớt độ căng thẳng trong cuộc sống, Phật dạy khi mở mắt ra là nhớ lại hơi thở của mình, và điều đầu tiên là mình cảm ơn cuộc đời cho mình sống thêm một ngày nữa để làm lợi ích cho mình cho người, cả hai cùng được lợi.

Lúc đó quý Phật tử như có thuốc kháng sinh trong người, không có chuyện gì làm cho mình buồn khổ được. Mình biết chắc chắn rằng còn tiếp tục sống trên đời, và có đầy đủ tất cả. Có những người muốn vỗ tay mà không vỗ được, bởi vì họ không còn đủ điều kiện vỗ được hai bàn tay. Có người muốn lạy Phật mà không lạy được, vì không có hai cánh tay. Có người muốn ngồi thiền, muốn thực tập đi thiền hành buổi sáng giống mình, mà không có đủ điều kiện vì không có đôi chân. Và có những người họ thích ngắm hình tượng Đức Phật mà họ ngắm không được vì thiếu cặp mắt. Quý Phật tử nhìn lại coi mình đầy đủ không? Đầy đủ hết tất cả, những thứ Đức Phật nói là khó nhất mà mình có. Điều kiện học hỏi mình cũng có luôn. Quán chiếu được như thế thì mình rất trân trọng cuộc sống.

Có lần tôi qua bên Pháp, sau khi giảng xong có hai người đến khóc và nói là họ định quyên sinh. Một người khoảng gần bốn chục tuổi, bị nhiều áp lực trong cuộc sống. Một bác khoảng sáu mươi lăm tuổi, bị đau nhức khớp, bà đã chuẩn bị sẵn một bụm thuốc tây để uống cho chết. Khi hay tin tôi qua đây, họ nghĩ để nghe pháp lần cuối rồi tự tử cũng không muộn. Sau khi nghe tôi giảng xong họ đến khóc và nói rằng ý nghĩ tự tử là điều lầm lẫn lớn, bởi vì họ vẫn còn thấy nghe đầy đủ mà còn biết con đường Phật pháp nữa, tại sao lại giết đi mạng sống của mình. Tôi nói quý Phật tử phải mượn con thuyền này để qua biển lớn sanh tử, chứ không phải hủy hoại chiếc thuyền khi mình chưa đến bờ.

Như vậy bài pháp này Đức Phật trang bị cho một cái thấy: Tất cả đều tan rã, tất cả đều bể, đều vụn. Từ cái thấy đó chúng ta tu học, buông xả lần lần. Đó là mục đích của người tu.

Một câu chuyện nữa trong kinh Bách Dụ:

Ngày xưa, trong kinh thành nọ có bà hoàng hậu sanh một cô công chúa. Khi công chúa ba tuổi thì bà chết. Vua rất thương hoàng hậu nên quyết định không lấy ai khác, ông dành hết tình thương cho công chúa. Cô được cha thương yêu chiều chuộng nên muốn gì được đó. Khi cô mười tám tuổi, một hôm cô đứng ở lan can trên lầu cao thì bỗng nhiên trời đổ mưa thật lớn. Sau cơn mưa, nhìn xuống hồ nước, cô thấy có những chiếc bong bóng nổi lên rất đẹp. Cô chạy xuống lầu tìm vua cha:

– Phụ vương! Làm cách nào xuống hồ lượm những chiếc bong bóng nước xâu cho con thành chuỗi kim cương nước được không?

Vua cười nói:

– Kim cương thiệt cha có nhiều lắm, con cần bao nhiêu cha cũng cho. Còn bong bóng nước này thì không bao giờ xâu được.

Cô công chúa nằm xuống ăn vạ, nói cha mà không xâu được thì con chết. Vua vì quá thương con nên họp hết tất cả quần thần, ông nói:

– Trẫm có một điều khó xử, Trẫm có một đứa con gái duy nhất, mà bây giờ nó đòi xâu chuỗi bong bóng nước, nếu các khanh làm không được thì nó chết. Nó chết chắc trẫm cũng chết theo. Như vậy trong đây có ai làm được không?

Các vị quan nhìn ngó nhau không ai làm được. Có một ông quan lớn tuổi bước ra nói:

– Hạ thần sẽ xâu những chiếc bong bóng nước lại với điều kiện công chúa phải hợp tác với hạ thần.

Công chúa đồng ý. Ông quan yêu cầu:

– Công chúa hãy xuống bờ hồ lựa những bong bóng nước nào đẹp nhất, hạ thần sẽ xâu chúng lại thành chuỗi cho công chúa.

Công chúa xuống bờ hồ vớt từng bong bóng nước lên, vớt đến đâu bong bóng nước bể đến đó, từ sáng đến trưa không lượm được chiếc nào. Bất thình lình cô công chúa tỏ ngộ.

Quý Phật tử ngộ gì chưa? Cái thân phận của mình giống chiếc bong bóng nước không? Có một lúc nào đó nó sẽ bị bể, bị nát, bị vụn. Quý Phật tử chiêm nghiệm lại xem, mình bằng Đức Thế Tôn chưa? Ngài là một vị Đông cung Thái tử sống trong nhung lụa không thiếu thứ gì. Nhưng Ngài chiêm nghiệm thân phận của kiếp người, kể cả Phụ hoàng, kể cả công chúa Gia-du-đà-la và Hoàng nhi La-hầu-la, kể cả Thái tử Tất-đạt-đa và dòng tộc Thích-ca rồi một lúc nào đó sẽ bị bể, bị nát, bị vụn. Cho nên Đức Phật từ giã hết tất cả để tìm ra con đường sống, con đường chân lý. Hiểu được như vậy, quý Phật tử mới phát tâm mạnh để tu học.

Hỏi thật một điều, khi quý Phật tử ở nhà niệm Phật có nhất tâm bất loạn không? Ở đâu thì mình niệm được nhất tâm bất loạn? Khi quý Phật tử đi trên một chiếc thuyền mà sắp bị chìm, hoặc khi ngồi trên chiếc máy bay mà bị trục trặc là lúc đó nhất tâm bất loạn, chỉ một lòng nhớ đến Phật. Chớ đinh ninh rằng cái thân mình không bao giờ bể, thì khi ngồi niệm Phật mình cũng nhớ chuyện đông chuyện tây, chuyện nam chuyện bắc. Bởi vì mình nghĩ rằng bữa nay không niệm thì mai niệm, bữa nay không ngồi thiền thì mai ngồi. Chẳng hạn như hôm nào đó chuẩn bị tụng kinh sám hối, chuẩn bị tọa thiền, chuẩn bị niệm Phật, bỗng nhiên điện thoại reo, bạn mình gọi nói, hôm nay có live show ở hải ngoại qua hát, đặc biệt là không tốn tiền, ca sĩ toàn những người nổi tiếng. Khó quá! Bây giờ ngồi niệm Phật hay là đi xem? Rồi mình nghĩ, ngày nào cũng niệm, bỏ một bữa đâu có sao! Khi mà chúng ta thấy cuộc sống còn mãi mãi thì nhiều lúc chúng ta bỏ bê.

Trong Nghệ Thuật Sống kể câu chuyện:

Có một ông già bán bánh, quán của ông rất đông khách vì ông treo cái bảng: “Ngày mai ăn khỏi trả tiền”. Mấy đứa con nít tưởng thiệt, hôm sau lại đến, hy vọng ăn bánh khỏi trả tiền. Nhưng vẫn là “ngày mai ăn khỏi trả tiền”, hôm nay phải trả! Như vậy là không có ngày mai. Cho nên Đức Phật trang bị cho mình một cái thấy là thân tâm, vạn pháp vô thường thì mình mới phát Bồ-đề tâm được, mới mạnh dạn tu được, không thì cũng giải đãi.

Từ khi có mặt trong cuộc đời này rồi lớn lên quý Phật tử có điều kiện qua Đức, có ai bắt được chiếc bong bóng nước nào chưa? Có chứ, bong bóng nước của mình là gì? Là tài sản sự nghiệp, là danh vọng… đủ hết, quý Phật tử bắt được chưa? Bắt được rồi nhưng mà sao? Hòa thượng Trúc Lâm nói: “Nhìn lại cũng tay không.” Hòa thượng nói nào lợi nào danh đủ hết, nhìn xa thì chúng óng ánh long lanh, nhưng khi bắt được thì nó bể vụn hết. Như con ve sầu chỉ sống ba tháng mùa hè, đến mùa đông là chết; chư Thiên thấy đời sống của loài người còn ngắn ngủi hơn đời sống con ve sầu, chỉ cần nhắm mắt mở mắt là xong một cuộc đời.

Kinh Pháp Cú kể:

Có một vị Thiên nữ buổi sáng đến khu vườn Ái Lạc hái hoa để dâng tặng vua Trời Đế Thích. Trong lúc hái hoa bà chết giấc, do phước lực còn, bà tái sanh xuống thành Xá Vệ, trong nhà người Bà-la-môn. Lớn lên bà có chồng sinh được hai người con. Do túc nghiệp, bà nhớ lại bà là vợ của vua Trời Đế Thích, nên bà muốn trở lại cõi Trời Đế Thích đó. Hằng ngày bà đến cúng dường Đức Phật và năm trăm vị A-la-hán. Đức Phật hỏi bà mong muốn điều gì. Bà nói chỉ muốn được trở về với chồng. Năm bà bảy mươi tuổi, khi cúng dường Đức Phật và tăng chúng xong, bà về nằm lên giường bà chết, vừa chết thần thức bà gá vào vị Thiên nữ hái hoa bị chết giấc đó. Trưa bà về, Trời Đế Thích hỏi bà hồi sáng đến giờ bà đi đâu. Nghe bà kể xong, Trời Đế Thích nói:

– Cuộc sống loài người ngắn ngủi như vậy, chắc là họ lo tu học và làm việc phước thiện nhiều lắm phải không?

Thiên nữ trả lời:

– Không phải như thế.

Trời Đế Thích không tin. Tôn giả Mục Kiền Liên có mặt trên đó cũng xác nhận rằng chúng sanh ở cõi người tuy cuộc sống rất ngắn ngủi, tạm bợ, vô thường nhưng họ tu học và tạo các việc thiện pháp không nhiều.

Bữa nọ tôi giảng ở Sài Gòn, có một anh Phật tử đứng lên hỏi:

– Thưa Thầy, nếu ai cũng đi xuất gia hết thì dòng giống nó tiệt chủng.

Tôi hỏi:

– Anh có vợ chưa?

– Dạ con có rồi.

– Anh có mấy con?

– Dạ con có hai đứa con.

Tôi nói:

– Vậy thì chưa tiệt chủng, bởi vì anh có vợ. Nếu anh xuất gia mà nói câu này thì tôi chưa chắc, còn đằng này khi anh nói chuyện với tôi anh có vợ có con có đủ hết.

Tôi đi máy bay nhiều lần mà chưa bao giờ gặp hai người xuất gia đi cùng một chiếc máy bay. Quý Phật tử rất may mắn, tuy hình thức là cư sĩ nhưng biết tu học, biết chuyển hóa, biết buông xả, đó là phước duyên.

Qua bài pháp này, tôi muốn nêu lên cho quý Phật tử thấy tất cả các pháp đang tan rã, đang bể vụn và chính thân thể này cũng bể vụn, nát luôn. Một lúc nào đó chúng ta cũng phải từ giã tất cả để ra đi. Đức Phật nói mình đến cuộc đời này như đến khách sạn, nhà trọ. Những người giàu có thì đến khách sạn năm sao, bốn sao. Nghèo hơn ở khách sạn một sao. Những người nằm ngoài đường ở “khách sạn ngàn sao”, cũng sống thôi! Dầu cho ngàn sao, một sao, hai sao, năm sao rồi cũng phải bỏ hết.

Hiểu được như thế không phải là bi quan, mà là có một cái nhìn xuyên suốt để mình tu học, gạn bỏ để không dính mắc, không cố chấp, không phiền hận vì mình có cây dù chánh pháp.

Trong cuộc sống giữa đời thường, tất cả chúng ta đã mang kiếp người, ai cũng có nỗi khổ giống nhau. Nhưng chúng ta tu học thì không khổ giống như những người không tu. Bởi vì, Đức Phật trang bị cho mình một cái thấy, cái thấy này là nhìn cuộc đời giống như bọt nước, nhìn cuộc đời giống như ảo ảnh. Sở dĩ chúng ta bị dòng đời lôi cuốn, vì không thấy được bóng dáng của mình. Một khi thấy được bóng dáng thì chúng ta không còn khổ đau nữa.

Đức Phật dạy cho chúng ta thấy, dầu cho nắm bắt được gì, tất cả vạn pháp cuối cùng rồi cũng tan rã, kể cả con người. Tan rã tức là con người sanh ra rồi già bệnh, rồi đến con đường chết. Vũ trụ đi qua bốn chu trình thành, trụ, hoại, không. Còn vạn pháp là sanh, trụ, dị, diệt. Đức Phật nói vì bản chất các pháp là duyên hợp, là duyên khởi nên phải đi đến con đường đó. Con người do duyên hợp bốn yếu tố, đất, nước, gió, lửa thành hình. Vạn pháp cũng do những yếu tố kết hợp mà hình thành, cho nên Bồ-tát Long Thọ nói một bài kệ:

Nhân duyên sanh các pháp

Ta nói tức là không

Cũng gọi là giả danh

Cũng gọi nghĩa Trung Đạo.

Bồ-tát Long Thọ nói các pháp đều do nhân duyên sanh. Chẳng hạn cái nhà này được tạo thành từ đất nước gió lửa, xi măng cốt thép, người thợ xây. Tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh, rồi cũng tan rã, sẽ chết, và đi đến số không. Vậy chúng ta cần tu tập, tạo phước thiện để làm gì?

Tinh thần nhà Phật rất đặc biệt. Nếu có người tự xưng là thợ xây chứ không thật là thợ xây, mà xây nhà thì cái nhà sẽ ra sao, hoặc xây bằng vật liệu xấu thì cái nhà sẽ như thế nào? Tuy rằng các pháp là do nhân duyên sanh, nhưng nhờ chúng ta tạo dựng thiện pháp nên bây giờ chúng ta ở trong môi trường tốt. Tinh thần nhà Phật là trả hết tự do nghiệp lực cho mỗi chúng sanh tự quyết định. Được ở môi trường tốt là do phước lực của mỗi người, không có gì phải kiêu ngạo. Khi gặp chuyện khổ đến, cũng chẳng có gì mà buồn giận. Đó là người biết học Phật.

Tổ Bồ-đề Đạt Ma dạy chúng ta tinh thần Báo oán hạnh và Tùy duyên hạnh.

Báo oán hạnh có nghĩa là tự dưng có người chửi mắng đánh đập, làm cho mình khốn khổ. Người biết sống không trách trời trách đất, không trách xã hội, không trách gì hết, mà trách lại chính mình không khéo tu, đời trước mình bỏ gốc theo ngọn, chạy theo tham sân, tật đố, ích kỷ, cho nên ngày hôm nay mình gặp chuyện này.

Tùy duyên hạnh có nghĩa là khi gặp được môi trường tốt, gặp một xứ sở như ý, nếu mình biết tu thì không có gì mà ngạo mạn, coi thường những xứ sở nghèo nàn. Chớ không phải bây giờ mình được túc duyên tốt, sanh ra đời được tướng hảo quang minh, rồi coi thường những người khốn khổ, như vậy là không biết tu. Thân ngũ uẩn của chúng ta là do trong đời quá khứ khéo léo dựng nên, bây giờ con người hình thành như thế, cho nên chẳng có gì mà coi thường những người khác. Hiểu được như thế rồi chúng ta sống rất an ổn, chuyện khổ đến chẳng buồn, chuyện vui đến mình cũng không sanh tự cao, ngã mạn. Đó là người biết sống, người có trí tuệ Bát-nhã.

Trong Nghệ thuật sống kể câu chuyện:

Trong thôn xóm nọ có một gia đình mở xưởng mộc, người thợ mộc làm việc trong xưởng rất giỏi và khéo léo. Với bàn tay nghệ thuật, vật dụng nhà cửa ông làm ra rất đẹp, ai thấy cũng ưng ý muốn mua. Một hôm ông xin chủ xưởng mộc nghỉ hưu vì thấy mình đã lớn tuổi. Người chủ nhờ ông làm giúp một căn nhà cuối cùng trước khi ông nghỉ việc. Khi nhà làm xong, người chủ cầm chìa khóa giao cho ông thợ mộc: “Nhờ bác mà gia đình tôi ngày càng khấm khá, chúng tôi tặng bác căn nhà này làm kỷ niệm.” Nghe xong ông thợ mộc bàng hoàng, buồn bã, vì đã làm căn nhà này một cách cẩu thả, làm lấy lệ mà thôi!

Ông thợ mộc này giống như chúng ta, làm cái gì cũng làm cho có, nhưng không ngờ căn nhà chúng ta xây lên là căn nhà của chính mình. Khi quý Phật tử đến đây dọn dẹp, nấu nướng, bố thí cúng dường hoặc làm việc gì đó, mình tưởng làm cho ai, thật ra là làm cho chính mình.

Ngày xưa khi vào chùa, chúng tôi làm tất cả các việc nấu cơm, dọn dẹp cầu tiêu, làm đủ thứ hết mà tưởng làm cho Thầy Tổ. Khi ra làm Phật sự rồi mới thấy đó là làm cho chính mình. Ngày xưa khi Sư Ông Trúc Lâm giảng pháp tôi phát tâm nấu cơm, nấu nước, bây giờ y báo tốt thì chánh báo trổ ra tốt. Tôi giảng ở đâu người ta đều cúng gạo, đường, muối… những vật dụng ngày xưa đã từng nấu nướng ở thiền viện Thường Chiếu. Mới phát hiện ra rằng ngày xưa mình làm là làm cho mình.

Tuy rằng tất cả các pháp là do duyên sanh, nhưng duyên mình tốt thì các pháp tốt theo. Duyên không tốt, tức là y báo không tốt thì chánh báo không tốt. Quý Phật tử cứ suốt ngày tham sân bực tức phiền hận, thì chắc chắn khi chết nghiệp lực này sẽ đưa quý Phật tử đến những cảnh giới xấu khổ. Tinh thần của Tịnh Độ tông dạy chánh nhân Tịnh Độ để trở về quả Tịnh Độ. Nhân Tịnh Độ là chúng ta phải tụng đọc kinh điển Đại Thừa, phát Bồ-đề tâm, thành tâm sám hối rồi khuyến khích người ta tu học. Tuy rằng Đức Phật dạy nhìn đời như bọt nước, nhưng không phải là cái nhìn bi quan yếm thế, mà để chúng ta có cái thấy toàn diện và thực hiện con đường tu tập.

Cho nên dưới cặp mắt giác ngộ của Bồ-tát Long Thọ, Ngài nói: “Ta nói tức là không”. Nó không có thực thể, cũng gọi là giả danh, là trung đạo đế, là đệ nhứt nghĩa đế mà chư Phật, chư Tổ dạy để nắm bắt pháp tu. Thấy được như thế thì vượt thoát được phiền não, buồn hận.

Chúng ta thường nói giải thoát giác ngộ, như vậy không đúng? Giác ngộ xong rồi mới đến giải thoát. Cho dù tu pháp môn nào, theo tinh thần nhà Phật, chúng ta học là phải giác ngộ, để mình có cái thấy không bị cuộc đời làm đau khổ. Phật dạy giác ngộ điều gì? Trong kinh Bát Đại Nhân Giác, điều giác ngộ thứ nhứt Phật dạy là:

Thế gian vô thường,

Quốc độ nguy thúy,

Tứ đại khổ không,

Ngũ ấm vô ngã.

Sanh diệt biến dị,

Hư ngụy vô chủ,

Tâm thị ác nguyên,

Hình vi tội tẩu,

Như thị quán sát,

Tiệm ly sanh tử.

Đức Phật dạy thế gian này vô thường, mỏng manh, tạm bợ. Ngày xưa khí hậu không nóng bao nhiêu nhưng bây giờ càng ngày càng nóng. Rồi động đất, sóng thần, chiến tranh, bạo động, khủng bố… tất cả mọi nơi đều có. Phật dạy thế gian vốn là như thế, cõi nước mình ở vốn là giòn bở. Bây giờ khoa học chứng minh trái đất mỏng giống như vỏ trứng gà, chỉ cần đụng nhẹ là bể vụn.

Sư Ông Trúc Lâm kể câu chuyện Chuyến Tàu Định Mệnh:

Chuyến tàu này chạy không có chỗ dừng, và điểm đến là vực thẳm. Những người có trách nhiệm trên chuyến tàu đều công bố điểm cuối cùng của chuyến tàu sẽ là vực thẳm. Tuy nhiên những người trên toa thứ nhứt họ vẫn cười giỡn, vui chơi không lo nghĩ gì. Những người ở toa thứ hai thì trách móc, chửi bới, buồn giận lẫn nhau. Người ngồi trên toa thứ ba chỉ lo ăn uống, chơi bời. Nhưng trên toa thứ tư, người ta biết khi chuyến tàu rơi xuống vực sẽ gặp biển lớn nên họ tìm cách gom góp vật liệu để làm những chiếc phao. Mọi người nhìn vào cho rằng họ ngu dốt không lo hưởng thụ, họ chỉ cười thôi.

Chuyến tàu này không phải đi ngang chỗ tươi đẹp thì chạy chậm cho hành khách vui chơi, cũng không chạy nhanh hơn khi qua vùng khô hạn nắng cháy, mà nó chạy với tốc độ như nhau dù đi qua chỗ vui vẻ hạnh phúc hay đau khổ buồn chán. Khi những nhân viên trên tàu tuyên bố tàu sắp rơi xuống vực thẳm thì người trên tàu nháo nhào khóc lóc, chỉ có những người đã chuẩn bị sẵn phao thì bình tĩnh không khóc. Khi tàu rơi xuống biển, những người có phao bơi được vào bờ, còn lại đều chết chìm cả.

Tất cả chúng ta đều đi trên chuyến tàu này. Khi khổ đến mình mong muốn cho nó qua mau. Khi vui chúng ta mong muốn thời gian ngừng lại cho mình hưởng thụ. Mà thời gian thì không dừng, cứ chầm chậm trôi. Một tuổi, hai tuổi… mười tuổi, hai chục tuổi, ba chục tuổi… cứ tăng lên, chiếc tàu đi chậm chậm. Khi chiếc tàu rớt xuống vực thẳm là sanh, già, bệnh, và chết. Khi cái chết đến mà chúng ta không có phao để vào bờ, tức là chúng ta không có sự tu học, không có mức độ chuyển hóa lớn. Chúng ta sống mà không biết mình sống, cho nên chết đến không biết mình chết, đơn giản vậy thôi.

Đức Phật dạy cõi nước này vô thường, mỏng manh, tạm bợ mà chúng ta vẫn thích thú, vẫn chìm ở trong biển khổ. Hỏi thật quý Phật tử thích thú không? Thích mình mới có mặt trong cuộc đời này chứ.

Trong Nghệ thuật sống có kể câu chuyện:

Một hôm Thượng Đế thấy những con vật, con người ở trần gian sống không có tuổi tác nên quyết định cho con lừa, con chó, con khỉ và con người một số tuổi nào đó. Có nghĩa là xuống trần gian bao nhiêu năm rồi phải đi, không được ở luôn.

Đầu tiên con lừa bước ra. Thượng Đế cho lừa xuống trần gian ba chục năm. Lừa khóc, nói ở trần gian đâu có sung sướng gì, phải làm việc cực khổ lắm. Thượng Đế thấy tội quá, thôi được, bớt cho nhà ngươi mười lăm năm. Lừa mừng quá đi vào. Con chó bước ra, Thượng Đế cho ba chục năm. Chó nói phải thức đêm canh nhà cho chủ, lỡ nhà bị mất trộm là bị chủ chửi mắng đánh đập. Ăn thì chỉ ăn cơm thừa canh cặn chớ sung sướng gì đâu. Chó xin mười lăm năm ở trần gian thôi. Thượng Đế đồng ý. Tới con khỉ bước ra, Thượng Đế thấy khỉ nhảy nhót vui vẻ nên cho xuống trần gian ba chục năm, khỉ cũng không chịu, Thượng đế rút lại còn mười lăm năm.

Cuối cùng con người bước ra một cách mạnh bạo, Thượng Đế phán liền ba chục năm. Con người khóc lóc than rằng ba mươi tuổi là lúc cuộc đời xanh tươi hạnh phúc nhất nên không chịu rời cõi trần. Thượng Đế cho thêm mười lăm năm tuổi của con lừa. Con người không chịu, nói bốn mươi lăm tuổi sức sống đang tràn đầy. Thượng Đế cho thêm mười lăm năm tuổi của chó, con người cũng chưa chịu nên Ngài phải cho luôn mười lăm năm tuổi của con khỉ, rồi Thượng Đế phủi tay áo đi vào. Và tuần tự, con lừa, con chó, con khỉ, và con người có mặt trong nhân gian.

Khi còn nhỏ được cha mẹ nuôi nấng, chúng ta không biết khổ là gì. Một tuổi đến ba mươi tuổi là tuổi trẻ trung hạnh phúc nhất. Lớn lên lập gia đình, chúng ta phải đi cày để lo cho vợ, cho chồng, cho con, đó là mười lăm năm của con lừa! Già hơn một chút, tới tuổi về hưu, chúng ta giữ nhà cho con là mười lăm năm của con chó! Rồi tới mười lăm năm của con khỉ, chúng ta coi cháu, nó khóc mình phải làm trò nhảy nhót cho nó vui! Như vậy hình ảnh con lừa, con chó rồi con khỉ cũng là hình ảnh con người. Chúng tôi nhấn mạnh cho quý Phật tử thấy thân phận của kiếp người để mình phải tu rút.

Phật dạy:

Thế gian vô thường,

Cõi nước giòn bở,

Bốn đại khổ không,

Năm ấm vô ngã.

Sanh diệt biến đổi,

Giả dối không chủ,

Tâm là nguồn ác,

Thân là rừng tội,

Quán sát như thế,

Thoát ly sanh tử.

Tức là sanh diệt biến đổi liên tục, giả dối không có chủ. Tâm là nguồn gốc của thị phi phải quấy hơn thua. Tâm vọng động, từ vọng động đó, bắt đầu nó đi vào con đường tội lỗi của thân khẩu ý. Chẳng hạn mình nghĩ ác thì làm ác, nói ác. Nếu chúng ta quán sát như thế liên tục thì dần dần ra khỏi con đường sanh tử.

Quán chiếu sự tan rã của muôn pháp, tức là chúng ta quán chiếu tự thân, nội tâm, hoàn cảnh, và tất cả người thân, để có một cái nhìn xuyên suốt, khi sự việc đến, hoặc người thân đột ngột ra đi, chúng ta không buồn khổ. Đó là tinh thần Phật dạy.

Vào thời Đức Phật, Kisa-Gotami có một đứa con trai rất đẹp, lên ba tuổi bị bệnh chết. Cô buồn khổ khóc lóc suốt ngày đêm, không chịu đem chôn. Có người mách với cô, Đức Phật Thích-ca-mâu-ni hiện ở thành Xá Vệ, Tinh Xá Kỳ Viên có năng lực phi phàm, cô hãy đến đó nhờ Ngài. Đức Phật nói sẽ làm cho con trai cô sống lại với điều kiện cô phải xin được một nắm tro của nhà nào chưa từng có người chết. Cô đi hết tất cả các nhà, nhà nào cũng từng có người thân qua đời. Cuối cùng cô tỉnh ngộ.

Cũng vào thời Đức Phật, bà Tỳ-xá-khư có một đứa cháu nội ba tuổi chết. Bà khóc vì buồn khổ. Đức Phật hỏi bà có thích tất cả những người trong thành Xá Vệ này là người thân yêu của bà không. Bà bảo, nếu được như thế thì bà rất vui. Đức Phật nói, nếu vậy thì ngày nào bà cũng buồn khổ, khóc lóc vì ngày nào cũng có người chết. Rồi Phật nói kệ cho bà Tỳ-xá-khư:

Tất cả hành vô thường,

Tất cả hành là khổ,

Tất cả pháp vô ngã,

Thấy thế với trí tuệ,

Liền thoát ly khổ đau,

Đó là đường thanh tịnh.

Tất cả hành là vô thường, tất cả hành là khổ. Cái gì có mặt trong cuộc đời này mà do duyên hợp thì là khổ, là vô thường, là vô ngã. Thấy bằng trí tuệ thì tức khắc thoát khỏi những cảnh khổ đau trong cuộc đời. Muốn hết khổ, muốn được an vui tự tại, chúng ta không phải nói suông, nghe suông, mà phải có một sức dụng công để cho những gì còn cù cặn trong tâm thức, những bóng dáng của tập khí buồn giận, yêu ghét, tật đố, ích kỷ xan tham, những hạt giống xấu mà ngày xưa chúng ta cho là của mình chết đi.

Có một thương nhân giàu có buôn bán đồ cổ, ông đi tất cả các nước, những gì quý nhứt ông đều mua đem về. Một hôm khi đến khu rừng ở châu Phi, ông mua được một con chim hiểu và nói được tiếng người. Đem về nước ông cho chim ở trong chiếc lồng bằng vàng, ly nước chim uống được làm bằng ngọc, và cho chim ăn những gì ngon nhứt. Dù ở trong lồng vàng, uống nước bằng ly ngọc, thức ăn đầy đủ chim vẫn buồn.

Một hôm chuẩn bị đi xa, ông đến nói với chim:

– Này bạn, tôi chuẩn bị đi một chuyến buôn hàng rất xa, chuyến đi này đến đất nước của bạn, bạn cần gì không?

Chim nói:

– Ông làm ơn đến khu rừng ngày xưa ông mua tôi. Ở đó tôi có một số bạn, ông hỏi bạn tôi xem có cách nào cứu tôi ra khỏi chiếc lồng này.

Ông thương nhân cười nghĩ thầm: “Lâu nay tưởng con chim này thông minh lắm không ngờ nó ngu quá. Dầu cho bạn mày chỉ cho cách ra khỏi cái lồng này nhưng tao nắm chìa khóa trong tay thì làm sao mày ra được.”

Mỗi người chúng ta đều ở trong một cái lồng. Quý Phật tử ở trong đất nước giàu có sung túc, mở tủ lạnh ra là thức ăn đầy đủ phô mai, bơ sữa… Đó là quý Phật tử được phúc duyên ở trong cái lồng vàng. Tôi ở trong đất nước hơi khổ một chút, tủ lạnh của thiền viện toàn là rau, thì ví như tôi đang ở trong một cái lồng bằng sắt hay bằng chì. Dầu lồng sắt hay lồng vàng, cũng là ở trong lồng. Chúng ta không được tự do tự tại vì cũng đang bị nhốt. Mà người nắm chìa khóa là ai? Chúng ta, là nghiệp nắm giữ vận mệnh của mình. Nhưng tinh thần của nhà Phật là chuyển nghiệp được.

Khi ông thương nhân gặp bạn của con chim ở nhà, ông nói:

– Này bạn, bạn có một người bạn hiện đang ở nhà tôi, trong một cái lồng bằng vàng. Bạn ấy lúc nào cũng buồn và nhờ tôi hỏi bạn có cách gì cứu bạn ấy ra khỏi chiếc lồng không?

Con chim nghe nói như thế liền nhắm mắt lại gục xuống chết. Ông không ngờ tình bạn của nó quá đặc biệt. Về đến nhà, việc đầu tiên là ông đến chiếc lồng kể cho chim nghe câu chuyện ông gặp bạn của nó. Nghe xong nó cũng gục xuống chết luôn. Ông thương nhân không ngờ loài súc sanh mà thương mến nhau quá. Ông mở cửa lồng lấy con chim đặt trên lòng bàn tay, bất thình lình con chim bay vù lên cây và nói:

– Bạn tôi đã chỉ cho tôi bí quyết, muốn thoát khỏi cái lồng này thì phải chết.

Bí quyết mà Đức Phật muốn chỉ dạy là muốn thoát cái lồng nghiệp này thì chúng ta phải mạnh dạn, một lần chết đi để ngàn năm sống lại vĩnh viễn, tinh thần nhà Thiền gọi là tuyệt hậu tái tô. Phật dạy rất rõ nhưng chúng ta không bao giờ chịu chết mà cứ nhớ mãi, nhớ đủ thứ chuyện. Chúng ta luôn sống trong quá khứ, những tâm niệm đau thương tủi hận không chết đi thì làm sao chúng ta sống được.

Có một bà già tu ba chục năm mà không ngộ đạo, không có niềm vui. Một hôm bà đến Thiền viện Pa-Auk, gặp một vị Thiền sư, bà nói:

– Thưa Thầy, con theo Thầy suốt ba chục năm rồi, con tu hoài mà không được giác ngộ.

Thiền sư nói:

– Sở dĩ bà không được sự giác ngộ là vì bà không dám chết. Bà mạnh dạn chết đi thì bà được sống liền.

Bà suy nghĩ mình lớn tuổi rồi nên chấp nhận chết.

Thiền sư nói:

– Phương pháp chết này không phải tôi giết bà, cũng không phải bắt bà tự tử. Tôi cho bà ba chữ thôi: Mặc kệ nó.

Khi bà ôm công án Mặc kệ nó, bước chân vào nhà, ông chồng nói:

– Bà ơi, hai mẫu đất ngày xưa người ta trả có ba tỷ, bây giờ bán được mười tỷ, bà mừng không?

Bà nói:

– Mặc kệ nó.

Bà đi vào nhà. Nghe tin đứa con trai đậu vào đại học y khoa mà ngày xưa bà rất ao ước, bà cũng nói: Mặc kệ nó.

Rồi một hôm đang chiên cá, do bà ôm ấp công án đó, bà chỉ nghĩ công án đó thôi, bất thình lình con cá phựt lửa cháy. Ông chồng từ xa thấy la lớn cá cháy rồi, bà cũng nói: Mặc kệ nó. Bỗng nhiên bà ngộ đạo. Bà úp cái chảo xuống, đến trình Thiền sư Pa-Auk.

Bà nói:

– Con đã hoàn thành sứ mệnh. Con đã cho những tâm niệm đó chết, bây giờ con sống lại trong hình hài mới mẻ của con.

***

Tham Vấn

Hỏi: Thưa Thầy, hiện tại chúng con tu theo pháp môn Tịnh Độ, được hướng dẫn là tụng một bộ kinh và đi theo một thầy. Chúng con ở nước ngoài, nhận được tin có quý thầy qua đây thuyết pháp, chúng con tham gia gieo duyên, chúng con rất là quý, cung kính và ngưỡng mộ. Như vậy là chúng con theo nhiều thầy, tu theo nhiều pháp môn, thì sai hay đúng?

Đáp: 1- Phật tử hỏi, có một số quý Thầy giảng là mình có nhân duyên tụng bộ kinh nào, như Kinh Pháp Hoa, Kinh Niết Bàn hoặc Kinh Địa Tạng, thì mình tụng chuyên nhất một bộ. Hoặc đi theo một vị Thầy nào đó chỉ cho mình một con đường thấy hợp với nhân duyên nào thì nắm bắt theo đó mình đi. Còn ở đây có một số người nói là tất cả quý Thầy từ Việt Nam các nơi qua đây giảng họ đều đến nghe để học hỏi. Việc này không phải là sai, vì bất cứ vị Thầy nào mình cũng coi là Tăng bảo. Tăng đến thuyết pháp dầu cho mình hiểu rồi, mình cũng nên đến nghe để học hỏi thêm, để ủng hộ đạo tràng, ủng hộ vị Thầy từ xa đến.

Mình nghe, học hỏi nhiều vị Thầy, nhưng về phương tiện thực hành, khi chúng ta tu một pháp môn nào đó, pháp Thiền, pháp Tịnh hay pháp Mật thì chúng ta cố gắng thực hành cho đúng con đường chính mà chúng ta có túc duyên. Chẳng hạn mình ngồi thiền chỉ là theo dõi hơi thở thôi chứ không có quý thầy nào bắt vừa ngồi thiền vừa niệm Phật vừa trì chú rồi tụng kinh Pháp Hoa. Các vị nói nếu như vậy là mình loạn luôn, giống như tẩu hỏa nhập ma vậy.

Thiền sư Ubaca nói với những Phật tử đến pháp hội của ngài: “Ai tu pháp môn nào cũng đều có thể đến đây thực hành pháp của tôi, nhưng khi đã đến đây thì chỉ thực hiện một pháp là Minh sát tuệ, thiền Tứ niệm xứ Vipassana. Các pháp khác không được sử dụng ở đây.”

Ngài kể câu chuyện:

Trong ngôi làng nọ, có một anh chàng nuôi một con ngựa màu trắng, ngựa đi rất nhanh không biết mệt mỏi, anh rất quý con ngựa này. Một hôm có một người bạn dẫn đến cho anh một con ngựa màu đen, con ngựa màu đen này cũng chạy rất nhanh mà không biết mệt mỏi. Hai con ngựa anh đều quý như nhau. Một hôm có nhân duyên xuống phố, anh không biết chọn con ngựa nào, bỏ con ngựa nào ở nhà anh cũng tiếc. Cuối cùng anh cưỡi hai con ngựa xuống phố luôn! Quý Phật tử cưỡi được không?

Thiền sư đưa ra câu chuyện để nhắc nhở những điều kiện tiên quyết khi đến chỗ các ngài mình tu, chứ không phải các ngài bắt mình bỏ pháp tu của mình. Mình vẫn nghe vẫn học vẫn hiểu, pháp nào cũng là pháp của Phật, nhưng đường hướng thực hành của mình, mình có duyên với pháp nào thì ráng đi theo một đường để gặt hái được kết quả tốt.

2- Về phương pháp Thiền Tịnh song tu:

Quý Phật tử niệm Phật tức là mình có tín, hạnh, nguyện. Tín là mình tin chắc lời của Đức Phật Thích-ca nói, tin rồi mình phải thực hành và phát nguyện. Mình tin chắc lời của Đức Phật Thích-ca nói có một thế giới ở phương tây cách đây khoảng mười vạn tám trăm dặm. Thế giới này chúng ta không bao giờ đến được bằng máy bay hay phi thuyền hay bất cứ phương tiện gì mà phải đến bằng tâm, tâm phải tương ưng với cõi đó.

Tôi đưa một ví dụ đơn giản, không thể nào quý Phật tử đem con mọt bỏ trong xi măng mà nó sống. Nó phải ở trong giấy, trong gốc cây mới sống được. Từ lục đạo luân hồi đến thế giới của bậc chư Hiền chư Thánh, chư Phật, thì tâm cũng phải tương ưng với cõi đó mới đến được. Kinh Duy Ma Cật nói muốn được tịnh độ phải tịnh tâm mình, tâm tịnh tức Phật độ tịnh. Như vậy thiền tịnh nghĩa là mình ngồi thiền để tâm lóng sạch, tâm trong sạch thì tương ưng với chỗ tín, hạnh, nguyện.

Có người nói tu thiền chết không biết sanh về đâu. Bây giờ tôi nói về sự, có những vị tu thiền chẳng hạn như ngài Hư Vân, ngài Huyền Trang, ngài Thế Thân, ngài Vô Trước, các ngài tu thiền mà các ngài phát nguyện khi bỏ thân này được sanh lên cung Trời Đâu Suất ở trong nội viện nghe Đức Phật Di Lặc nói pháp. Đó là nguyện lực của các ngài. Ngược lại có những người tu pháp môn Tịnh độ, họ nói không cầu vãng sanh mà phát nguyện trở lại cuộc đời này, tức là thệ nguyện nhập vào cõi Ta-bà để tiếp tục độ sanh nữa. Lại có những người tu thiền, dù bất cứ hoàn cảnh nào, quốc độ nào, lâu hay mau họ đều phát nguyện thành Phật để phổ độ chúng sanh.

Cho nên có những người chuyên tu về Thiền, có những người chuyên tu về Tịnh, có những người tu Thiền Tịnh song hành, điều đó cũng không có lỗi. Tùy bệnh mà uống thuốc, thuốc nào trong sự giáo hóa phương tiện của Đức Phật mà họ cảm thấy bớt bệnh thì uống.

Trong sự giáo hóa phương tiện của Đức Phật, có bốn phương pháp gọi là Tứ Tất Đàn: các các vị nhân tất đàn, thế giới tất đàn, đối trị tất đàn, đệ nhất nghĩa tất đàn.

Các các vị nhân tất đàn: Các các là mỗi mỗi, chúng sanh ở mỗi nơi khác nhau, chẳng hạn người ở nước Đức thường ăn sáng bánh mì phô mai, nhưng qua Việt Nam thì sáng ăn phở, ăn cơm hay ăn hủ tiếu. Nước đựng trong ly thì gọi là ly nước, nếu đem nước đổ vô chuông thì không gọi là ly nước nữa. Nước đổ vào bình thì gọi là bình nước, nước ở trong chai gọi là chai nước. Tên tuy khác nhưng thể vốn đồng. Tên là bình nước, ly nước, tách nước, nhưng bản chất nó là tánh ướt. Thì tùy theo mỗi phương hướng mỗi xứ sở Đức Phật đưa ra những phương pháp khác nhau cho phù hợp.

Có những nước tu Tịnh độ được, nhưng có những nước không tu Tịnh độ. Chẳng hạn bên Miến Điện, Sri Lanka, Thái Lan, Campuchia họ không biết Mật tông hay Tịnh độ tông. Họ chỉ biết con đường Thiền nguyên thủy, Thiền tứ niệm xứ mà thời xưa Đức Phật chỉ dạy: quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp. Bên Tây Tạng thì trì chú, gọi là phương pháp Kim cương thừa. Tôi đã đi nhiều nước: Campuchia, Thái lan, Lào, Miến Điện, Srilanka…, có những thiền viện tôi ở ba bốn tuần lễ để nghiên cứu, tôi thấy họ chỉ tu rặt một pháp. Những vị Thầy của mình qua truyền giáo không được, kể cả Tây Tạng qua Miến Điện truyền giáo họ cũng không học. Họ chỉ tu pháp của họ thôi.

Còn Việt Nam thì trăm hoa đua nở: Tây Tạng, Sri Lanka, Miến Điện, Trung Quốc, Đài Loan…, pháp nào truyền cũng được! Xuống miền tây còn đặc biệt hơn: đạo nằm, đạo ngủ, đạo ngồi, đạo ăn, đạo uống, đạo… Vừa rồi những vị thầy thuộc đạo dừa Tây Tạng qua Việt Nam, có những người đang tu pháp môn Tịnh độ chạy theo tu, khi thầy về nước thì họ trở lại chùa tu học lại. Được một thời gian thì có thiền sư Ba Ốc ở Miến Điện qua, họ lại chạy theo, một tháng tu xong quay lại. Rồi thiền sư Thái Lan qua, họ cũng chạy theo tu một thời gian. Mình chạy tới chạy lui mệt mỏi thì cũng là nghe pháp. Ý các ngài là như vậy, tôi nói rộng ra thêm. Đó gọi là các các vị nhân tất đàn.

Đối trị tất đàn: nghĩa là khi tâm mình tham, khát ái thì Phật dạy quán bất tịnh. Tâm sân hận thì Phật dạy quán từ bi.

Thế giới tất đàn: Đức Phật thấy chúng sanh thích kim cương, thích vàng, thích không làm mà có ăn, tưởng y phục có y phục, tưởng cái gì ra cái đó, cho nên Đức Phật tạm đưa ra cõi mười phương chư Phật cho họ thấy, nhà Phật gọi là trước dùng dục câu dắt, sau dùng trí mà nhổ. Ngài diễn tả ở cõi Tây phương cực lạc vàng đem lót đường; thành quách toàn bằng kim cương, xà cừ, san hô hổ phách; chim thì biết niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm thiên, niệm giới. Sống trên đó là sống cùng những vị Bồ-tát bất thối chuyển. Trên đó không có địa ngục ngạ quỷ súc sanh. Để làm cho mình phấn khích tu tập, mình hướng tâm lên đó. Niệm Phật cho đến giai đoạn câu niệm Phật buông luôn, quán chiếu đến mức độ cảnh không nằm trong thực thể của tâm vọng tưởng. Trở về tánh không thì tâm này thanh tịnh, tức khắc tây phương tịnh độ hiện tiền. Đó là tinh thần Thiền Tịnh kiêm tu.

Bàng Long Uẩn khi nghe về cảnh giới phương Đông của cõi Phật A Súc ông cũng muốn sanh về đó. Nhưng khi tỏ ngộ lý thiền ông làm bài kệ:

Thường nghe cõi A Súc,

Nghĩ đến phương Đông cầu,

Hôm nay xét nét kỹ,

Bất động tự nhiên đến.

Khi tâm thanh tịnh thì mười phương thế giới của Chư Phật hiện tiền. Dầu tu pháp môn Thiền hay pháp môn Tịnh, tâm mình bất động là tương ưng với các cõi, tùy theo sức bổn nguyện mình phát nguyện sanh về cõi nào thì được đến cõi đó.

Cũng giống như khi ở Việt Nam, quý Phật tử làm ăn dồn tiền để có một lúc nào đó mình đi du lịch qua Pháp. Khi qua Pháp trong đầu tôi không có ý nghĩ qua Đức, qua Bỉ, qua Tiệp Khắc, qua Áo. Nhưng khi đã qua Pháp, Phật tử hỏi Thầy qua Đức giảng không? Giảng! Thầy qua Bỉ Thầy giảng không? Giảng! Thầy qua Tiệp Khắc qua Áo Thầy giảng phải không? Đi Đức xong rồi tôi qua Tiệp Khắc, qua Áo, mà khi ở Việt Nam trong đầu tôi không hề nghĩ đến mấy nước đó, nhưng qua bên nước này rồi thì tôi đi. Mà tại sao tôi đi được? Vì tôi có visa bên Pháp.

Cũng như thế, khi tâm thanh tịnh thì mười phương thế giới của Chư Phật hiện tiền ra hết. Tùy theo mình thích cõi nào mình đến, vậy thôi. Mình thích Pháp, Mỹ, thích đủ các nước hết, mà hỏi mình có tiền không? Không! Hỏi có visa không? Không! Cái gì cũng không có, phương tiện không có thì mình lên không được!

Hiểu được như thế rồi thì Thiền, Tịnh hay Mật gì thì mục đích của mình là làm cho tâm mình trong sạch thanh tịnh, làm cho tâm mình vô ngã. Đó là mục đích của người tu.

Hỏi: Thưa thầy, con thắc mắc vì sao Đức Phật dạy tu Tịnh độ mà không dạy tu thiền, cho nên đa số Phật tử hướng về Tịnh độ?

Đáp: Quý Phật tử phải coi sử sách cho kỹ, không có bộ kinh nào mà Đức Phật khuyến thỉnh các thầy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, sa-di, sa-di ni và thất chúng tu pháp môn Tịnh Độ.

Khi vua A-xà-thế giam vua cha là vua Tần-bà sa-la để cướp ngôi, Hoàng hậu Vi-đề-hi quá đau khổ và chán ngán cõi trần thế, Đức Phật dùng thần lực cho bà quán chiếu hết tất cả các cõi an lành thanh tịnh. Bà phát tâm về cõi Tây phương cưc lạc, Phật mới chỉ dạy cho bà phương pháp niệm Phật, dạy cho bà mười sáu pháp quán tưởng để sau khi chết bà sanh về cõi Phật đó.

Phật dạy kinh Pháp Hoa là vua của các kinh, Phật cũng dạy kinh Địa Tạng là vua của các kinh. Thật ra Đức Phật muốn tán thán ngay đối tượng đó. Trong kinh Định Ý Phật dạy các Tỳ-kheo đời mạt pháp, nếu các ông tạo nghiệp mà không thiền định để trở về thật tướng thì nghiệp không có dứt. Trong kinh Quán Hạnh Sa-môn Đức Phật dạy đời sau nếu ai không tu thiền định thì không thể nào thành Phật được. Như tôi dạy thiền thì tôi xiển dương pháp môn thiền. Thầy dạy tu Tịnh Độ thì cũng khuyến khích các Phật tử tu Tịnh Độ. Không người thầy thuốc nào nói nếu ai uống thuốc của tôi thì sẽ bị tiêu chảy.

Như thế, với mỗi đối tượng, mỗi pháp môn đức Phật đều ca ngợi để tất cả tu rốt ráo theo pháp môn Phật dạy mà mình đã chọn lựa. Mỗi thời, mỗi đất nước đều có pháp môn phù hợp. Mà khi pháp môn nào thích hợp, phát triển rực rỡ thì những vị hướng dẫn xiển dương đều nói Phật khuyến khích những bộ kinh đó. Như bên Miến Điện, Sri Lanka, Thái Lan, Lào, Campuchia họ không biết trì chú, không biết tu Tịnh Độ, mà họ chỉ tu theo phương pháp Vipassana tức là quán thân thọ tâm pháp.

Trong bốn bộ kinh A-hàm, Tăng Nhất Chi Bộ, Trung A-hàm, Trường A-hàm, Tạp A-hàm thì mình không thấy, nhưng đến kinh Pháp Hoa thì Phật khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật. Rồi kinh Niết Bàn Phật cũng chỉ cho ta con đường Phật tánh. Kinh Tâm Địa Quán Đức Phật cũng chỉ cho mình nhận tâm địa. Thì như vậy những bộ kinh từ kinh A-hàm đến kinh Phát triển, rồi hai mươi hai năm Phật nói Bát-nhã cũng chỉ cho chúng sanh là ngộ nhập tánh không. Nhưng mà chỗ đương cơ chúng sanh đang mắc kẹt thì Đức Phật đưa phương tiện. Quý Phật tử phải hiểu chỗ đó, chớ đừng có hiểu là Phật khuyến khích mình chỉ có tu một pháp. Những bộ kinh lớn chẳng hạn như kinh Địa Tạng, kinh Pháp Hoa, kinh Niết Bàn, Kinh Tâm Địa Quán, Kinh Bảo Tích đều chỉ cho mình nhận lại tri kiến Phật, đó là mục đích Đức Phật ra đời. Quý Phật tử nhớ lại trong kinh Pháp Hoa, Phật nói vì một đại sự nhân duyên lớn, Như Lai ra đời cốt là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật. Mà ngộ nhập tri kiến Phật phải tu con đường gì thì bắt đầu Phật nói, Phật chỉ để mình gạn lọc tâm, để bùn nhơ bớt đục, cho tâm mình sáng lên.

Hiểu được điểm đó rồi thì mình không thắc mắc. Mình có duyên tu pháp nào thì phải bơi lội trong giáo pháp đó để có một cái thấy, như vậy mình không chê, cũng không phỉ báng những pháp môn khác.

Hỏi: Bạch Thầy, trong kinh thường nói chúng sanh ngộ thì thành Phật, mà Phật mê thì thành chúng sanh, xin thầy giảng cho chúng con được hiểu rõ ý nghĩa.

Đáp: Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói mê và giác, một niệm mê thì Phật là chúng sanh, một niệm giác thì chúng sanh là Phật. Đức Phật chỉ trên cái bản thể mỗi con người chúng ta, khi mê bị vô minh làm cho cấu nhiễm, sanh ra tâm tật đố, ích kỷ, xan tham, sân hận bực tức, thì ông Phật mình biến thành chúng sanh. Mà khi tỉnh, ngộ ra được cái đó chỉ là bóng dáng, vọng tưởng thôi, thì chúng sanh đó là Phật. Thiền sư Bàng Am nói bài kệ:

Một niệm tâm thanh tịnh,

Phật ở điện ma vương.

Một niệm tâm ác sanh,

Ma vương trong điện Phật.

Ở đây các ngài nói Phật này là Phật nhân, nhận ra Phật nhân rồi, từ đó mình tu tập trải dài để trở về Phật quả. Cũng giống như Đức Phật Thích-ca-mâu-ni trải dài vô lượng kiếp, ngài nhận được Phật nhân rồi từ đó Ngài đi, đi mãi. Đến bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội Bồ-đề, nhân quả đồng thời có mặt, giống như hoa sen vậy, đồng thời có mặt cùng một lúc thì đó là thành tựu Phật quả có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, diệu dụng hằng sa để phổ độ chúng sanh. Tinh thần của nhà Thiền là nói về ngay khoảng một niệm thôi, niệm mê là chúng sanh mà niệm ngộ là Phật, chỉ có bao nhiêu đó thôi. Khi mình tỉnh tức là Phật kế bên, mà khi mê mình là chúng sanh.

Hỏi: Bạch Thầy, con có một câu hỏi ngoài lề. Con làm kinh doanh, thỉnh thoảng trong tháng, vào ngày mười lăm và mùng một, con hay cúng thí thực cô hồn tại gian hàng kinh doanh của con thì có được không, vì con cúng theo quyển kinh nhật tụng trong đó có nghi thức cúng thí thực cô hồn.

Đáp: Thường vào khoảng bốn giờ chiều các chùa, các tự viện đều cúng thí thực cho những loài ngạ quỷ sống bơ vơ, không nơi nương tựa, theo những bài chú mà Đức Phật chỉ dạy. Bởi vì trong các loài ngạ quỷ, có những loài họ ăn thịt con nít, có những loài họ sống ở những nơi khốn khổ, Tôn giả A-nan bạch với Phật, Phật mới đưa ra những phương tiện cúng.

Khi chúng ta cúng ở nhà, hoặc cúng ở chỗ gian hàng, nếu chúng ta nghĩ rằng mình thương tưởng các loài chúng sanh này, mình tác ý đến, mình thương họ mình cúng thì không có lỗi. Còn khi mình tác ý đến, mình rủ họ về cộng tác với mình làm ăn thì là chuyện khác. Cộng tác là sao? Mình cúng để mình buôn bán may mắn, mình cúng để được tài lộc nào đó thì nó khác. Mình cúng để cầu xin họ cho mình may mắn là mình hợp tác với họ rồi, mà hợp tác là có ngày họ giật nợ mình. Khi mình có tâm như thế, thì có một lúc họ quậy lại mình. Còn mình thương tưởng, mình tác ý đến mình thương loài chúng sanh này không có chỗ nương tựa, bơ vơ đói khổ, lòng từ mình phổ ra thì họ không quậy mình.

Hỏi: Thưa thầy, cho con hỏi câu hồi nãy, thí dụ như mình cúng là cái tâm mình thương về họ nhưng có một lúc nào đó mình không cúng được nữa, mình quên. Cứ sợ họ về đòi, hay là…

Đáp: Cũng giống như mình, chẳng hạn như ngày nào mình cũng đến chỗ đó mình ăn, bữa nào mình đến mà không có thức ăn thì mình bực tức. Nếu do lòng thương mình cúng mà lỡ mình quên thì thôi, bởi vì họ cảm được năng lực từ trường, lòng từ bi của mình họ có thể bỏ qua. Còn khi mình cúng với tâm hợp tác làm ăn mà mình quên cúng thì họ bực tức họ quậy. Nếu quý Phật tử cúng thì phải nhớ đều đặn một tháng bốn ngày, như mười bốn, mười lăm, hai mươi chín, ba mươi. Những ngày rằm lớn chẳng hạn như tháng giêng, tháng tư, tháng bảy, tháng mười chúng ta phải thực hiện. Còn không làm thì thôi, thường thường việc đó là ở chùa làm.

Hỏi: Thưa thầy, kính thưa đại chúng, con xin phép hỏi cho một người bạn. Trước đây không lâu cha mẹ của người bạn mất, đã cúng 49 ngày xong hết rồi. Trong gia đình có nhiều anh chị em, nhưng có một người tình cảm vấn vương nhiều, cuối tuần nào cũng ra thăm mộ, cho nên các anh chị em trong gia đình không biết cha mẹ có được siêu thoát hay không. Theo cái nhìn của nhà thiền, xin thầy giải thích sao cho họ yên?

Đáp: Theo tinh thần của Đại Thừa, nếu quý Phật tử làm cực thiện, khi mất tức khắc sanh về cõi Trời. Còn nếu làm cực ác thì xuống dưới cõi Địa ngục. Nếu có thiện, có ác thì gá vào thân trung ấm, cứ bảy ngày thì chết một lần rồi sống lại, khi đủ bảy lần tức là bốn mươi chín ngày thì bắt buộc thần thức này phải đi tái sanh. Mình biết chắc chắn như vậy, cho nên trong bảy lần bảy bốn mươi chín ngày đó mình phải phóng sanh, in kinh, bố thí cúng dường, tạo các việc thiện pháp. Nhờ những vị có giới đức, đại chúng đông chú nguyện cho thần thức của người thân để họ cảm thấy họ được an ổn, được thanh tịnh thì họ được sanh về cõi lành. Những vị có giới đức đến khai thị, hương linh họ bắt được lời khai thị đó họ cũng được giải thoát.

Thì như vậy tin chắc rằng người mất bốn mươi chín ngày bắt buộc phải đi tái sanh theo tinh thần kinh điển trong nhà Phật. Hoặc rớt trong loài ngạ quỷ, hoặc rớt trong loài súc sanh, địa ngục, hoặc sanh về cõi giới chư Thiên, hoặc vào loài người. Những buổi giỗ buổi cúng để mình nhớ lại kỷ niệm ngày cha mẹ mất, để cho con cháu sum họp lại thôi, chứ thật ra các vị đó đã đi tái sanh hết rồi, nói theo nhân gian là đi đầu thai.

Hỏi: Phóng sanh đúng hay là sai thưa Thầy?

Đáp: Pháp đó ngay trong giờ phút đó, mình nhìn đúng thì đúng, nhìn sai thì sai. Chẳng hạn thấy đúng chỗ là bây giờ mình nhìn xuống thấy loài chúng sanh này khổ quá, bị tái sanh trong loài cầm thú. Mình thương tưởng truyền tam quy, tụng cho nó một bài kinh. Mình thú hướng khai thị, để tàng thức nó ghi nhận năng lực của mình, nó nhớ lại ngày đó tháng đó được thọ hưởng pháp âm của một vị Sa-môn. Nó ý thức được thì khi có nhân duyên trở lại làm người, nó vào chùa hoặc là đến nghe pháp, tu học. Đó là mình thấy theo chiều hướng đúng. Còn thấy theo chiều hướng sai, chẳng hạn như bên Ấn Độ đâu có ăn cá mà bắt cho mình phóng sanh. Phải hiểu tinh thần phóng sanh là kết duyên Phật pháp cho các loài chúng sanh đó, chứ không phải vấn đế này đúng hay sai.

Trong kinh Bản Hạnh, khi Đức Phật làm nhân địa Bồ-tát, Ngài làm Thái tử, nhìn xuống thấy ba con cọp con, một con cọp mẹ. Con cọp mẹ bảy tám bữa nay không kiếm được mồi, đói quá nên quyết định ăn thịt ba con cọp con. Bồ-tát thấy cảnh đó quyết định nhảy xuống để con cọp mẹ ăn. Ngày nhảy xuống nhưng chưa chết nên tự lấy cây tự đâm vào cổ họng cho máu chảy ra để cọp mẹ uống, rồi nó mới đủ sức kéo ba con cọp con xuống cùng ăn.

Với cặp mắt của mình sẽ nói, vị này không biết con cọp về sau sẽ giết nhiều người nữa hay sao mà lại làm như thế. Do đó mình đời đời là phàm phu, mãi không bao giờ là Thánh được. Ngay trong giờ phút đó, Bồ-tát chỉ biết con cọp đang đói, với lòng thương, lòng bi vô hạn nên xả thân cứu con cọp đói, chứ không nghĩ về sau nó sẽ làm chuyện này chuyện kia. Với cặp mắt của những bậc giác ngộ, bậc Bồ-tát, khi con cọp ăn thịt, uống máu của Ngài thì chắc chắn đời đời nó không bị rơi vào những cõi tăm tối.

Những vị phóng sanh thì cũng như thế. Họ tác ý đến là làm cho tâm thức của những loài đó rung cảm. Chính chúng tôi đã kinh nghiệm. Khi tôi đi miền Tây giảng, thấy có người bán cá trê dọc bờ sông từ Thốt Nốt về Cần Thơ, những con cá to và dài. Đến chiều nếu bán không hết, họ mổ bụng cá xát muối ớt vào rồi phơi khô. Tôi thấy tội quá, bị mổ ruột trét muối ớt giãy giụa đau khổ quá cho nên tháng nào xuống giảng tôi cũng gom lại mua hết. Khi được thả xuống sông rồi, chúng không chịu bơi đi mà cứ bơi vòng vòng gần bờ. Tôi thấy đằng xa có mấy chiếc ghe đi đến, sợ người ta bắt chúng, tôi nói: Quý Thầy đã truyền tam quy, tụng một bài kinh rồi, thôi tụi con lặn đi, coi chừng người ta đến bắt. Vừa nói xong tất cả lặn mất hết.

Mình phóng sanh nhiều lần, do tâm tác ý đến chúng sanh, chúng cảm được. Như hôm nào đó quý Phật tử ăn cơm, mới ăn một muỗng thì mắc nghẹn. Hỏi thật quý Phật tử, lúc đó mình uống nước cho cơm trôi xuống hay là không uống để nhịn đói luôn? Cũng vậy, khi mình phóng sanh hoặc làm các việc thiện pháp giống như ăn cơm bị mắc nghẹn, bởi vì khi làm chuyện đó thì nhiều người nói mình lắm. Nói ông bỏ tiền ra phóng sanh làm chi rồi người ta cũng bắt lại, và nói đủ thứ hết. Nhưng phải xem xét việc làm ấy có đúng hay không, nếu đúng thì cứ làm. Hoặc nếu việc làm đó đem lại kết quả thù thắng thì chúng ta cứ làm chứ đừng ngại, và suy nghĩ gì.

Việc thiện mà mình suy nghĩ, không làm ngay thì không bao giờ nó lặp lại lần thứ hai. Bởi vì trong tàng thức của mình việc thiện rất ít, mà việc ác thì rất nhiều. Khi chúng ta khởi ý làm việc thiện thì đa phần việc ác sẽ lấn lên. Mình về tư duy, suy nghĩ rồi, có khi không làm. Đó là những điều mà tôi kinh nghiệm. Cho nên việc mình thấy đúng, tốt thì quý Phật tử cứ ráng cố gắng làm.

Ở bên xứ này không có dịp để mình phóng sanh, thì quý Phật tử biết phóng gì không? Ngài Vương Trùng Dương nói: “Sát sanh lên thiên đường, phóng sanh xuống địa ngục.” Tại sao phóng sanh xuống địa ngục? Sát sanh là sát cái gì? Sát những tâm niệm xấu ác là được lên thiên đường. Còn phóng sanh, phóng toàn những tâm xấu ác ra thì xuống địa ngục. Thì thôi bây giờ ở đây hoặc ở một xứ sở nào đó, có duyên tu cái gì thì ráng cố gắng tu cho được thành tựu, mục đích là gạn lọc cái tâm cho thanh tịnh nhu nhuyến, đó là điều Đức Phật dạy. Còn việc phóng sanh là trợ duyên, có thì làm không có thì thôi.

Quý Phật tử nhớ, nếu làm được thì làm, còn làm không được thì đừng nói. Phật dạy người chết vì cái miệng, gọi là búa bén nằm trong cái miệng. Chẳng hạn có người cho đứa bé một cục xôi, với tâm thương vì thấy đứa bé đói. Người khác nhìn vào nói chắc ông này lợi dụng đứa bé việc gì đó. Người cho cục xôi có tác ý giúp đứa bé thì được phước, mà người tác ý nghĩ bậy sẽ lãnh quả.

Tôi kể câu chuyện để quý Phật tử rút tỉa thêm kinh nghiệm trong cuộc đời tu học, kể cả những người không tu học cũng phải ý thức, tỉnh giác điều này.

Thiền thoại kể:

Có ông cư sĩ đến gặp Thiền sư Vô Đức:

– Bạch Hòa Thượng, sáng nay con ra bờ biển thấy một chiếc thuyền, trên đó có mười người, ông chủ thuyền đẩy thuyền từ bờ xuống biển, chiếc thuyền nghiền chết ốc, sò, cá rất nhiều. Như vậy ông chủ thuyền hay người ngồi trên thuyền mang tội sát sanh?

– Không ai có tội.

– Thầy nói không đúng. Cá, sò, ốc chết rất nhiều mà sao nói không mang tội.

Thiền sư Vô Đức chỉ thẳng vào mặt ông nói:

– Ông mang tội. Bởi vì khi đó người ta vô tâm, còn ông suy nghĩ đủ thứ chuyện là vọng thức của ông dính rồi.

Hiểu được điều đó mình nhìn vạn pháp cười thôi. Nhìn vạn pháp với cặp mắt giác ngộ thì không vương vấn khổ não gì hết. Đó là những điều tôi nhắc nhở chung cho những người không dự pháp hội này. Khi nghe bài giảng này qua internet, họ sẽ hiểu được ý nghĩa trong nhà Phật dạy.

Hỏi: Vì sao tu thiện pháp mà rơi vào ma đạo. Kính xin thầy giải thích cho con.

Đáp: Trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy, tạo các việc thiện pháp mà không phát tâm Bồ-đề là quyến thuộc của ma. Chẳng hạn cất chùa, độ tăng, làm đủ thứ chuyện thiện pháp mà chấp vào sự tướng, cụ thể là chấp vào sự cúng dường. Khi chấp vào sự cúng dường thì có phước, được tái sanh vào những hoàn cảnh tốt đẹp hơn.

Có một ông làm giám đốc dầu mỏ ở Dubai. Một đêm ăn chơi ở bờ biển đốt hai bao tải đô la. Nếu mua đèn cầy thắp sáng thì không tốn bao nhiêu, nhưng ông lấy tiền đô la đốt lên để sưởi, thắp sáng ngồi nướng thịt ăn. Ông còn có tật bỏ một số tiền rất lớn cho người nào đó mang thai với điều kiện phải mổ bào thai ra cho ông xem. Xem cái đầu hướng bên nào, cái chân hướng bên nào. Như vậy đời trước ông này bố thí cúng dường rất nhiều, ông đi về con đường phước thiện nên bây giờ mới được phước thù thắng như thế. Nhưng ông quên phát tâm Bồ-đề, không tu con đường Phật pháp, không phát nguyện để thành Phật thì đó là quyến thuộc của ma. Do đó, ông làm những việc không đúng với Phật pháp, không đúng con đường tri kiến, chắc chắn khi hết phước sẽ rơi vào địa ngục.

Còn làm các việc phước thiện, chẳng hạn mình đến đây nghe pháp, rồi phát tâm cúng dường năm mười đồng, hay một bao gạo, bao xi măng gì đó. Mình phát nguyện trong tâm, con nhân nghe pháp ngày hôm nay, không mong mỏi sanh về cõi Trời hay cõi người, đến Bồ-tát quyền thừa con cũng không phát nguyện, chỉ phát nguyện do nhân duyên này mai kia con tu hành thành Phật. Đó là phát tâm Bồ-đề. Muốn tâm Bồ-đề gắn chặt, mình phải phát nguyện mỗi ngày, làm gì cũng hướng đến con đường Phật đạo.

Thiền thoại kể câu chuyện, có một ông làm nghề bán bánh bao. Một buổi sáng trên đường mang rổ bánh bao đi bán, ông gặp một vị Tỳ-kheo đã chứng A-la-hán, hào quang sáng chói. Tâm tịch tĩnh hiện lên gương mặt nên nhìn Ngài rất từ bi, rất có giới đức, ông thành kính quỳ xuống xin cúng dường cái bánh bao. Vị A-la-hán hỏi:

– Con cúng một cái bánh bao cho Thầy. Con mong muốn gì?

Ông bán bánh bao nói:

– Con mong với phước đức này con được làm một vị vua trong một đất nước nhỏ.

Vị A-la-hán nói:

– Sao ít quá vậy?

Ông nghĩ vị Tỳ-kheo này chê ít nên ông cúng tiếp cái thứ hai.

Vị A-la-hán hỏi:

– Bây giờ con cúng hai cái rồi. Con mong cầu gì?

Ông nói sau này sẽ làm một vị vua, lớn hơn một chút.

Vị A-la-hán cũng nói sao ít quá vậy. Ông tiếp tục cúng ba cái, bốn cái, năm cái, mười cái. Lần nào vị Tỳ-kheo cũng nói ít. Cúng đến cái thứ ba mươi, ông nói sau này muốn làm một vị vua coi toàn thế giới. Vị Tỳ-kheo vẫn lặp lại câu hỏi sao ít quá vậy. Chịu hết nổi, ông nói:

– Thầy ơi, rổ bánh bao con cúng hết cho Thầy rồi mà Thầy nói ít là sao?

Vị A-la-hán nói:

– Ta không nói ít nhiều về pháp hữu lậu, ta muốn nói nhân cúng dường một cái bánh bao mà sao con ước nguyện quá ít.

Ông bán bánh bao hỏi cái gì là nhiều, vị A-la-hán nói:

– Nương sức cúng dường Thầy một cái bánh bao này, con phải phát nguyện tu để thành Phật.

Đó là phát tâm Bồ-đề.

Vua Trần Thái Tông, khi đến gặp quốc sư Phù Vân, Quốc sư nói:

– Lão tăng nương gió đến đây, ăn hạt dẻ, uống nước suối, xương cứng mặt gầy. Còn bệ hạ làm vua một nước sao lại vào trong rừng núi, chẳng hay bệ hạ mong cầu điều gì?

Vua Trần Thái Tông nói:

– Trẫm vào trong núi không cầu gì khác, chỉ cầu làm Phật.

Đó là phát tâm Bồ-đề.

Một tiếng nói cầu để làm Phật, do nhân duyên đó vua Trần Thái Tông sau này coi kinh Kim Cang ngộ đạo.

Lục Tổ Huệ Năng nghe người trong khách điếm tụng kinh Kim Cang, Ngài khai ngộ rồi tìm đến Ngũ Tổ để cầu làm Phật, Ngũ Tổ nói:

– Ông từ Lãnh Nam đến đây cầu cái gì?

Lục Tổ nói:

– Con đến đây chỉ cầu làm Phật.

– Ông người Lãnh Nam là dân quê mùa sao kham làm Phật được.

Lục Tổ nói:

– Con ở phương Nam, Hòa thượng ở phương Bắc, nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Thân con quê mùa khác thân tướng của Hòa Thượng, nhưng Phật tánh không sai khác.

Đó là phát tâm Bồ-đề.

Tôi đưa ví dụ cho quý Phật tử dễ hiểu. Đây là cái ly gọi theo từ tiếng Việt. Mỗi xứ sở như Pháp, Đức, Lào, Campuchia… gọi cái ly bằng những từ khác nhau. Nhưng cái thấy nhìn vào, cái nhìn ra vạn pháp thì nó không có tiếng. Như vậy người Miên, người Lào, người Pháp… tất cả đều có tâm Phật hết, nhưng cái dụng mỗi miền mỗi đất nước khác nhau. Khi phát tâm Bồ-đề, mình đừng nghĩ là phàm phu sao làm Phật được. Phật nói đó là người hạ liệt. Mình tạo các việc thiện pháp, dầu cho cúng một bịch gạo cũng phát tâm Bồ-đề để mai kia thành Phật phổ độ chúng sanh. Như vậy mình không rớt vào trong quyến thuộc của ma.

Hỏi: Tâm diệt tham sân si có phải là tâm Bồ-đề không?

Đáp: Phật nói phát tâm Bồ-đề là phát tâm để thành tựu quả vị. Còn tâm diệt trừ tham sân si là tâm bản thể. Bỏ tâm tham sân si thì bản thể Phật tánh hiện tiền. Người sơ cơ đi vào đường đạo nếu không phát Bồ-đề tâm thì có khi đi theo hướng khác. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm, Phật khuyến khích phát tâm Bồ-đề để tâm được rộng lớn hơn.

Số Đời Một Hơi Thở

Một cô Phật tử xin tôi chỉ dạy một phương pháp để tu có kết quả. Cô nói là bên vùng cô ở (nước Đức), những Phật tử có tâm tu tập đa phần là xa xứ. Khi còn ở Việt Nam thì tu rất nhiều, bây giờ qua đây, thứ nhất là bận công chuyện làm ăn, thứ hai là gia duyên ràng buộc ở quê hương còn người thân cho nên ráng cố gắng làm việc để dành chút ít tiền gửi về nuôi cha mẹ. Như vậy cũng tốt nhưng cô nói bây giờ quên tu luôn. Cho nên bài pháp ngày hôm nay mục đích là giảng cho cô Phật tử đó. Giảng xong tôi đưa lên mạng, rồi sẽ điện thoại cho cô biết để nghe. Hôm nay quý Phật tử dự thính thôi, rồi mình tùy hỉ theo công đức lành này cho cô Phật tử đó.

Trước hết, tôi xin hỏi quý Phật tử, buổi sớm mai thức dậy, niệm đầu tiên mình nhớ đến việc gì? Nếu sáng dậy mà nhớ hơi thở thì lúc này quý Phật tử không còn ở ngoài đời nữa, mà đã bỏ hết vào chùa xuất gia. Còn đằng này niệm đầu tiên là chúng ta nhớ về công ăn việc làm, cuộc sống, kế nữa là nhớ thức ăn, sáng nay ăn gì, trưa chiều ăn gì!

Trong kinh Tạp A Hàm, Đức Phật bảo các thầy khất sĩ, “Có bốn loại thức ăn giúp các loài sinh vật lớn lên và sống còn. Bốn loại thức ăn đó là gì? Thứ nhất là đoàn thực, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực và thứ tư là thức thực.”

Thức ăn hằng ngày mình ăn như cơm, bánh mì, phở…. chỉ là đoàn thực. Có một loại thức ăn mà mình không ăn là chết liền, đó là hơi thở. Tinh thần của nhà Thiền là khi chúng ta vừa thức dậy, việc đầu tiên chúng ta hít thật sâu, thở ra thật nhẹ, biết rằng mình vẫn còn sống. Cám ơn cuộc đời cho mình sống thêm một ngày nữa, đó là mình biết tu. Và trong suốt một ngày chúng ta tu tập như thế nào để có sự chuyển hóa.

Cho nên Sơ Tổ Trúc Lâm, khi ngài xuống núi khai thị đồ chúng ngài đâu có giảng gì cao siêu:

Số đời một hơi thở,

Lòng người hai biển vàng.

Cung ma dồn quá lắm,

Cõi Phật nào vui hơn.

Số đời chỉ một hơi thở thôi, hít vào mà không thở ra là chết. Số đời chỉ một hơi thở nhưng lòng mình hai biển vàng. Quý vị có tin điều đó không? Nhiều lúc chúng ta ít để ý điểm đó.

Chuyện trong Bát Tiên có kể, Lữ Động Tân đi thi rớt mãi, ông buồn lắm. Một hôm ông vào quán để uống rượu thì gặp một vị tiên trong tám vị tiên, đó là Chung Hướng Ly. Chung Hướng Ly có pháp thuật chỉ cho đệ tử gọi là điểm đá hóa vàng. Lữ Động Tân theo Chung Hướng Ly lên núi tu rồi học được pháp thuật này, ông điểm hòn đá thì hòn đá biến thành cục vàng. Học thành tài rồi ông xin thầy xuống núi để cứu độ chúng sanh. Chung Hướng Ly nói đừng xuống, cõi này chúng sanh được một đòi hai, được hai đòi ba, được ba đòi bốn, không bao giờ thỏa mãn được. Lữ Động Tân không nghe thầy, nói thầy mình nghĩ xấu cho người. Cuối cùng Chung Hướng Ly cũng đồng ý cho đi.

Khi xuống núi, người đầu tiên Lữ Động Tân gặp là một đứa bé khoảng mười lăm tuổi, đang đi xin ăn, áo quần rách rưới. Ông kêu đứa bé lại hỏi thăm. Đứa bé không còn cha mẹ, không có thân bằng quyến thuộc, hằng ngày đi xin ăn kiếm sống. Ông thương tình, điểm một hòn đá biến thành cục vàng cho đứa bé. Đứa bé nhìn sững ông, không chịu lấy. Ông nghĩ thầy mình nói sai rồi, cho đứa bé cục vàng mà nó đâu có lấy. Ông hỏi đứa bé:

– Tại sao con không lấy?

Đứa bé trả lời:

– Thưa thầy, cục vàng này con xài một thời gian cũng hết. Thầy cho con xin ngón tay của thầy. Có ngón tay của thầy con điểm đâu cũng thành vàng hết.

Rõ ràng lòng người hai biển vàng! Quý Phật tử nghiệm lại coi, trong tâm mình lúc nào cũng mong muốn làm như thế nào đó để hơn, hơn, hơn nữa, mà không bao giờ thỏa mãn. Phật nói, khi thỏa mãn cái dục là giống như cái tàn hương; khi nghe được mùi hương thì cây hương đã sắp tàn. Thử thắp cây hương, khi thắp lên chưa nghe mùi hương. Khi nghe mùi hương là cây hương bắt đầu tàn và khi nghe hết mùi hương thì cây hương sắp tắt. Đời người cũng vậy đó mà ít ai để ý, kể cả bản thân chúng tôi.

Cho nên Sơ Tổ nói số đời một hơi thở, mà lòng người thì hai biển vàng. Khi ông Bàng Long Uẩn ngộ đến điểm này, ông đem của cải đổ xuống sông Tương hết. Ông làm bài kệ:

Người đời quý trân bảo,

Ta quý sát-na tịnh.

Báu nhiều loạn lòng người,

Tịnh nhiều thấy Phật tánh.

Rồi dắt hai người con và bạn đời của ông vào trong một thôn xóm đan giỏ tre bán, sống qua ngày. Khi của cải nhiều thì tâm người loạn. Chẳng hạn bây giờ mình đang nghèo không có gì hết, cuộc sống đang bình lặng, đột nhiên mình trúng chừng hai mươi lăm triệu euro, suy nghĩ liền! Hai mươi lăm triệu euro làm cái gì bây giờ đây? Mua cái gì, sắm cái gì, nhiều khi không ngủ được.

Có hai vợ chồng làm ruộng nghèo lắm. Chiều về người chồng ăn cơm xong là ngủ một giấc tới sáng. Sáng dậy đi làm tiếp, cuộc sống rất là phẳng lặng bình ổn, vợ chồng vui vẻ hạnh phúc. Bữa nọ người chồng cuốc ruộng đào được một tượng La-hán cao khoảng một thước rưỡi, bằng vàng ròng. Từ khi đem tượng La-hán bằng vàng ròng về, ông ăn không được, ngủ không được, càng ngày càng ốm. Bà vợ sợ ông chết, bà nói:

– Hồi xưa nghèo, ông ngủ được sao bây giờ giàu rồi, ông có tượng La-hán bằng vàng ròng, ông sợ gì mà không ngủ được, cứ đi ra đi vào nhìn mặt ông rất là khổ sở.

Ông nói:

– Tôi xem kinh thấy trong sử nói có mười tám vị A-la-hán, tôi lượm được một tượng, tôi suy nghĩ không biết mười bảy tượng nữa nằm ở đâu.

Cho nên ông Bàng Long Uẩn nói đúng:

Báu nhiều loạn lòng người,

Tịnh nhiều thấy Phật tánh.

Tinh thần của đạo Phật không phải để mình bi quan yếm thế, không phải để mình dừng việc làm ăn, nhưng mà có một điểm dừng bớt, bớt thôi chứ không phải mình dừng hẳn. Trong cuộc sống giữa đời thường này có những lúc chúng ta phải dừng để định vị lại mình, để từ đó thăng hoa lên chứ không chìm mãi trong biển khổ. Phật thương mình, tôi trùng tuyên lời của Phật nên tôi phải nói.

Thiền thoại Tây Tạng kể, có một vị Lạt Ma rất giỏi. Ngài có năng lực có thể đưa người còn sống về Tây phương nếu họ muốn. Trong thời giảng pháp, ngài hỏi đại chúng có ai muốn về Tây phương không, ai cũng giơ tay muốn về. Sau thời giảng ngài hỏi lại thì ai cũng bận việc, người thì còn xe, người thì còn biệt thự phải giải quyết. Người thì còn phải cưới vợ gả chồng cho con chưa đi liền được. Cuối cùng một đứa bé giơ tay nói con muốn lên. Hỏi tại sao con muốn lên? Dạ cha con chết, mẹ con chết để lại cho con một căn nhà hôm qua cháy rụi hết rồi.

Thế giới Tây phương của Đức Phật A Di Đà là thế giới bình đẳng, có nghĩa là ai cũng lên được nhưng tại sao có người lên được có người không? Tại vì còn bận bịu nhiều quá. Đứa bé sở dĩ lên được vì không còn thân bằng quyến thuộc nữa, nhà cũng bị cháy không còn gì hết.

Ở nước Trung Quốc có một người buôn bán châu báu rất giàu có, đến mỗi tỉnh buôn bán ông lấy một người vợ. Một hôm tình cờ ông đến một ngọn núi, trong người rất mệt mỏi, ông thấy Phật tử tập trung lại nghe Hòa thượng Hư Vân giảng pháp rất đông. Bữa đó Ngài giảng về thế giới vô thường, mỏng manh tạm bợ, nghe xong ông giật mình, ông nhận chìm hai ghe châu báu. Ông giải tán hết, tiền bạc của cải đem cho người thân, và quyết tâm dấn thân vào con đường tu tập. Ông ghiền thuốc phiện, mỗi lần lên cơn ghiền người ta tưởng ông chết chứ không sống nổi. Ông lấy xiềng trói chân lại, ngồi kiết già suốt. Vậy mà cuối cùng ông thành tựu. Đời này có chứ không phải không. Trung Quốc có những người kỳ đặc lắm. Việt Nam mình có Sơ Tổ Trúc Lâm, vua Trần Nhân Tông, bỏ ngai vàng đi tu.

Như vậy giá trị đích thực của đạo pháp có một cái gì siêu việt hơn tất cả những của cải thường tình. Sư Ông Trúc Lâm nói: “Nắm được rồi nhìn lại chỉ tay không” giống như bong bóng nước vậy thôi.

Mục đích bài pháp này nhắc chúng ta ở trong cuộc đời đừng có bám víu nhiều, để khi từ giã cuộc đời chúng ta thăng hoa đi lên. Sở dĩ đứa nhỏ buông xả được là vì nó không còn dính mắc, không còn bám chắc vào thế giới vật chất này nữa thì tức khắc thần thức nó được thăng hoa, được tiến.

Khi Sơ Tổ Trúc Lâm xuống núi một lần nữa thì Ngài làm một bài kệ thứ hai, cũng bài kệ về hơi thở:

Thân như hơi thở ra vào mũi,

Đời giống mây trôi đỉnh núi xa.

Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng,

Đâu phải tầm thường qua một xuân.

Quý Phật tử chỉ cần nhớ mấy bài kệ này thôi nhiều khi mình cũng dừng bớt nhiều nghiệp.

Số đời một hơi thở,

Lòng người hai biển vàng.

Cung ma dồn quá lắm,

Cõi Phật nào vui hơn.

Mấy bài kệ này tôi thuộc làu. Nhiều khi bực tức, phiền não quá mình đọc lên tự nó hết. Bởi vì số đời mình chỉ một hơi thở thôi, hít vào không thở ra thì mình buồn làm gì nữa, phiền làm gì nữa, cho nên phiền muộn nó đi theo hơi thở mình luôn. Đó là phương pháp chúng tôi tu, đây tôi chia sẻ.

Chỉ cần quý Phật tử nhớ được một bài kệ hay để tự nhắc nhở mình có sự hưng phấn tiếp tục trên con đường tu học và bước vào cuộc đời này. Cuộc đời này đâu phải là thế giới bằng phẳng như chúng ta tưởng tượng. Trong dòng sinh mạng chúng ta tạo nghiệp, có một lúc nào đó nghịch duyên sẽ đến với mình.

Trong kinh Bách Dụ Đức Phật kể câu chuyện:

Trong một nước nọ, có vị vua giàu có và hùng mạnh. Vợ ông chết để lại cho ông một cô công chúa mà ông rất cưng chiều. Một hôm, công chúa đang đứng trên lầu thì trời đổ mưa lớn. Cô nhìn xuống hồ nước thấy những chiếc bong bóng nước tuyệt đẹp. Cô ước ao có một xâu chuỗi bằng những chiếc bong bóng này. Cô đến găp phụ vương, nói rằng cô không thích kim cương thật nữa, chỉ cần những hạt kim cương bằng bong bóng nước thôi.

Quý Phật tử tin điều đó không? Có lúc nào chúng ta không cần kim cương thật mà cần những cái bong bóng nước không? Ông vua đó là ai? Ông vua đó là Đức Phật. Đức Phật sẵn sàng cho mình kim cương thật, mà mình không bao giờ nhận, có nhận thì cũng ném xuống biển. Một niệm phiền não hiện khởi lên mình chạy theo đắm đuối, dính mắc rồi buồn khổ; một niệm tức giận vừa phát khởi mình chạy theo nó, rồi tạo tác theo nghiệp, đó là quý Phật tử đang ném một hạt kim cương xuống biển. Kim cương Phật cho mình nhiều lắm mình không nhận, mà nhận toàn là những hạt kim cương bằng bong bóng nước.

Khi cô tự tay lượm từng chiếc bong bóng nước, lượm chiếc nào nó bể chiếc đó, cô bỗng nhiên tỏ ngộ. Từ đó về sau không bao giờ cô tìm bong bóng nước nữa.

Quý Phật tử nghiệm lại trong suốt cuộc đời của mình, lượm được bao nhiêu chiếc bong bóng nước? Nhiều hay ít? Sự nghiệp, tiền tài, danh vọng chúng ta lượm rất là nhiều. Rồi có một lúc nào đó sự nghiệp danh vọng của chúng ta cũng bể theo năm tháng giống như những chiếc bong bóng nước. Phũ phàng hơn, một lúc nào đó, chiếc bong bóng mình thương quý nhất, quý hơn người thân của mình, nó cũng sẽ bể. Nó chính là cái thân của mình. Quý Phật tử tin là mình thương mình hơn là thương chồng thương vợ mình không? Thương hơn thương con của mình nữa.

Ở phương Tây, cha mẹ mất người ta không khóc nhiều như ở Việt Nam. Không phải họ không có tình, người thân ra đi nhưng tương lai họ vẫn sáng sủa, đời sống không đến nỗi bị lệ thuộc vào người mất. Còn khi người thân mất mình nghĩ lại tương lai mờ mịt bơ vơ cho nên khóc nhiều. Khóc cho ai? Khóc cho mình! Thật sự như vậy!

Trong kinh Tương Ưng Bộ, vua Ba Tư Nặc nói với Mạt Lợi phu nhân:

– Trẫm có nhiều thê thiếp nhưng trẫm thương hậu nhiều nhất. Trên đời này không ai thương hậu bằng trẫm. Còn hậu thì sao?

Mạt Lợi Phu nhân nói:

– Hậu cũng thương bệ hạ giống như bệ hạ thương hậu. Nhưng nếu bệ hạ cho hậu nói thật, hậu sẽ nói cho bệ hạ nghe một điều phũ phàng nhất của con người sống trên cuộc đời này.

Vua Ba Tư Nặc:

– Hậu cứ nói đi.

– Hậu nói thật là hậu thương hậu nhất.

Vua ngạc nhiên:

– Sao kỳ vậy? Sao mình lại thương mình?

Mạt Lợi phu nhân:

– Bệ hạ nói bệ hạ thương hậu nhất, nhưng hôm nào đó hậu không còn yêu thương bệ hạ nữa mà đi lấy người khác thì bệ hạ như thế nào?

Vua ngồi suy nghĩ một hồi:

– Chắc chém chết chứ không còn cách gì khác.

Hai người đến gặp Phật, Phật nói đúng như vậy, mình thương cái ngã của mình nhất. Phật nói bài kệ rất hay:

Tâm ta đi cùng khắp

Tất cả mọi phương trời,

Cũng không tìm thấy được

Ai thân hơn tự ngã.

Tự ngã đối mọi người 

Quá thân thiết như vậy,

Vậy ai yêu tự ngã

Chớ hại tự ngã người.

Cô công chúa giống như mình, khi phát hiện ra chiếc bong bóng sẽ bể, cô tỉnh ngộ. Đức Phật cũng biết chiếc bong bóng mình sẽ bể và người mình thương yêu cũng bể, cho nên Đức Phật bỏ tất cả đi tìm chân lý. Khi những việc bức ngặt đến với chúng ta, lúc đó chúng ta mới tỏ ngộ được chân lý.

Chư Thiên thấy đời sống của con người giống đời sống con thiêu thân, rất ngắn ngủi, tạm bợ. Con ve sầu nó chỉ sống có ba tháng mùa hè, đến mùa thu mùa đông nó không có mặt. Sanh già bệnh chết, bốn thời kỳ cũng chỉ ba tháng. Con chó sống được mười lăm năm, mà trong quãng đời mười lăm đó chịu đủ sự khổ. Chư thiên thấy đời sống loài người ngắn ngủi như đời sống những con vật nhỏ. Nhắm mắt, mở mắt là một trăm năm cuộc đời.

Như câu chuyện cô Thiên nữ bị chết giấc khi đang hái hoa. Từ lúc thần thức cô gá xuống, đầu thai trong gia đình Bà La Môn ở thành thành Vương Xá, cho đến khi nhắm mắt từ giã cõi trần trở về lại thiên giới chỉ như một cái chớp mắt. Biết là tuổi thọ con người ngắn ngủi, mỏng manh tạm bợ, nhưng ít ai chịu dấn thân vào con đường tu tập để chuyển hóa thân tâm. Ít lắm, rất là hiếm.

Cho nên Sơ Tổ Trúc Lâm nói:

Thân như hơi thở ra vào mũi

Đời giống mây trôi đỉnh núi xa.

Có những lúc chúng ta làm vua chúa, hoàng hậu, thái tử, đủ hết. Quý Phật tử hôm nào đó nhìn lên đám mây, thấy “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”. Khi thành hình con chó, khi thành con rồng, hay thành sư tử, dù là hình gì cũng mỏng manh tạm bợ, bởi vì bản chất của nó là vô thường duyên hợp, rồi sẽ tan rã, không có đứng yên một chỗ: “Đời giống mây trôi đỉnh núi xa”.

Nhưng chúng ta may mắn biết Phật pháp tu tập là: “Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng”. Tiếng quyên là động mà vầng trăng sáng là tịnh. Động tịnh mà chúng ta dung nhiếp được. Chúng ta chiếu diệu vào chỗ động tịnh đó thì tức khắc “Đâu phải tầm thường qua một xuân”. Tức là còn một cái gì miên viễn vĩnh cửu hơn nữa. Đức Phật mong muốn cho mình một thứ giống như hạt kim cương mà vua cha cho công chúa. Vua cha nói là phụ vương có kim cương thật nhiều lắm con cứ lấy mà xài, cô công chúa không chịu. Khi mà cô ngộ ra những thứ mà mình nắm bắt chỉ là bong bóng mỏng manh tạm bợ, thì cô không còn thích những chiếc bong bóng đó nữa.

Chiều lại ở các Thiền viện Hòa thượng cho đánh một hồi trống và có một vị thầy hô bài kệ sách tấn nhắc nhở việc tu.

Kinh Pháp Cú kể, một hôm trên đường đi Đức Phật thấy một con cá mắc cạn sắp chết. Đức Phật mới họp tăng chúng, nói bài kệ:

Ngày nay lại đã qua rồi,

Mạng căn huyết mạch lần hồi khô khan.

Dường như cá cạn ở ao,

Khổ thêm thì có chút nào vui đâu.

Cần tu như lửa cháy đầu,

Đừng cho sái buổi như chầu Đế Vương.

Cái thân mỏng mảnh vô thường,

Sớm còn chiều mất lo toan cứu mình.

Đức Phật nêu lên cho mình thấy để còn lo tu, sợ lửa đến cháy đầu. Ở đây tôi nhìn xuống thấy cháy đầu nhiều lắm. Nhuộm tóc là mình che, chứ thật ra nó cháy rồi, cháy là tóc bạc đó. Tôi bốn mươi mấy tuổi, bây giờ tóc muối tiêu hết rồi, tức là đang cháy. Đó là lá thơ thứ nhất mà vua Diêm Vương gửi cho mình. Răng giả cũng hơi nhiều, là lá thơ thứ hai. Ngày xưa mình có thể khiêng năm chục ký được, bây giờ không nổi, đó là lá thơ thứ ba. Bây giờ ngồi sao đau lưng quá, là lá thơ thứ bốn. Lá thư thứ năm là những người thân của mình lớn tuổi, từ giã cuộc đời này. Lá thơ thứ sáu, quý Phật tử biết nằm ở đâu không? Ở bệnh viện. Hằng ngày đi ra đường mình thấy nhan nhản tai nạn, có những trận sóng thần, động đất, đó là những lá thư thứ bảy Diêm Vương gửi liên tục, gửi để cảnh báo.

Trong kinh A-hàm Đức Phật nói có bốn loại ngựa.

Loại thứ nhất là những con ngựa hay, chỉ cần thấy bóng roi là chạy, như người vừa nghe nhắc có ai đó mệnh chung, họ thấy các pháp vô thường mỏng manh liền tỉnh ngộ tu tập.

Loại thứ hai không sợ bóng roi nhưng khi nhịp nhẹ trên lưng thì sợ mà chạy, giống như người vừa thấy ai đó mệnh chung liền tỉnh ngộ tu tập.

Loại thứ ba đợi đánh đau mới sợ, như người tận mắt chứng kiến thân nhân mình mệnh chung mới tinh cần tu tập.

Loại thứ tư phải đánh thật mạnh, như người tự thân bị bệnh khổ mới tỉnh ngộ tu tập.

Trong quyển Thiền Quan Sách Tấn, Thiền sư Y Am, ngài dụng công mà chiều về mặt trời sắp lặn ngài ngồi khóc, huynh đệ hỏi tại sao sư huynh khóc. Ngài nói, ngày nay đã qua rồi mà đạo lý chưa có sáng. Ngày xưa người ta tu đạo lý chưa sáng buồn khổ nên khóc. Còn mình mai không tu thì mốt tu, bữa kia tu! Có khi nào quý Phật tử khóc không? Mình cứ hẹn ngày mai, bữa nay không tu thì mai tu, mai không tu thì mốt… cứ như vậy. Thật ra đời sống không có ngày mai. Ngày mai không có tồn tại, nó tồn tại trong ý thức vọng tưởng của mỗi người chúng ta thôi.

Tinh thần của nhà thiền là chúng ta không đợi ngày mai mà tu phải trong từng sát-na. Một niệm mê là phải ráng chuyển hóa. Không chạy theo tật đố ích kỷ xan tham, sân hận bực tức, những phiền hận chúng ta ráng hóa giải, đừng nắm bắt. Đó là tu trong từng sát-na, chớ không phải đợi ngồi thiền mới tu, mà trong từng sát-na chúng ta ráng buông xả, bớt dính chừng nào thì giải thoát chừng đó. Mỗi ngày mình bỏ ra một chút xíu dụng công sẽ thấy có kết quả. Ví như có hai người cùng đi trên một con đường, một người thấy cái gì cũng lượm bỏ vào giỏ, người còn lại không lượm. Người không lượm sẽ đi nhanh, người thấy gì cũng lượm sẽ đi chậm hơn.

Trong Thiền Tông Trực Chỉ, Thiền sư Thiên Cơ khai thị:

Hạ thủ công phu tu thiền, một ngày qua phải thấy là một ngày tinh tấn, nếu lơ là lững thững dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng không có ngày được thành công.”

Hạ thủ công phu tu thiền, một ngày qua là một ngày thấy mình tinh tấn. Chẳng hạn như sáng nay có thời ngồi thiền một tiếng, hay giờ tụng kinh sám hối, mà khi nghe tôi nói thôi hôm nay nghỉ không ngồi thiền không tụng kinh, mình mừng vui là biết mình tu tới đâu rồi. Còn mình thấy buồn tiếc, thấy như mất mát, như thiếu thiếu cái gì, đó là đời sống của chúng ta gắn chặt vào con đường đạo. Chúng ta tinh tấn để tiến bước. Mình càng tu càng bớt những tập khí xấu dở, đó là điều kiện cho chúng ta tiến. Có nhiều người càng tu càng bực tức, càng tu càng uất hận là biết mình dụng công sai pháp.

Thiền sư Bạch Ẩn nói:

“Nó đưa các ông vào từng hơi thở, dẫn dắt các ông xuống ba đường sáu nẻo mà các ông không khám phá ra được điều này”

Mình tu càng thấy nhẹ, ai nói gì mình xả, không dính mắc, bớt chấp là tu đúng. Còn cái gì cũng dính mắc, phiền hận rồi chứa chấp trong tâm là biết mình tu lệch, nên đi gặp những vị có năng lực lớn để thưa hỏi. Chứ không phải mình lơ là, lững thững cho qua ngày đoạn tháng, ở đây nói là trăm kiếp ngàn đời cũng không có ngày được thành công.

“Năm tháng dễ qua, ngày giờ không đợi được, việc lớn chưa sáng, ngày nào mới xong, do đó đau xót hối tiếc, lại thêm có phần cố gắng.”

Châu Văn Công nói:

“Chớ bảo ngày nay chẳng học đạo còn có ngày mai, chớ bảo năm nay chẳng học còn có năm tới, ngày tháng trôi qua, năm chẳng đợi người. Than ôi! già rồi, lỗi bởi tại ai. Công phu Phật pháp cũng như nho học, chỉ hai chữ Thời Tập là thành tựu một đời, chỉ bốn chữ ‘Hãy Đợi Ngày Mai’ là sai lầm hết cả một đời người.”

Quý Phật tử đừng có học nhiều, câu nào hay ghi lại. Chẳng hạn mình ghi câu: “Chỉ hai chữ Thời Tập là thành tựu một đời.” Thời tập nghĩa là thời nào mình cũng thực tập con đường công phu là thành tựu. Hoặc mình ghi câu “Chỉ bốn chữ ‘Hãy Đợi Ngày Mai’ là sai lầm hết một đời người.” Bao nhiêu đó thôi là chúng ta tu được. Tức là trong từng thời, từng lúc phải ráng cố gắng nhìn lại để xả đi những niệm tập khí mà ngày xưa chúng ta cho là mình. Thực tập xả bỏ được tức là thành tựu. Còn mình nói mai tôi cố gắng bỏ thì không bao giờ. Hãy đợi ngày mai là sai lầm hết một đời người.

Kinh Pháp Cú Đức Phật kể:

Có ông lão Bà La Môn rất giàu có, năm nay đã tám mươi tuổi. Như Lai biết rằng sáng nay ông sẽ chết vì bị cái đòn tay rớt trúng đầu. Ngài thương cảm nên bảo tôn giả A-nan cùng đi với Ngài đến nhà ông. Đức Phật nói với ông:

– Như Lai thấy ông nhà cửa nhiều rồi mà còn cất nhà chi nữa?

Ông nói:

– Bạch Đức Thế Tôn, con cất nhà không phải cho con, mà cho con trai và con gái. Con cất nhà đông, cất nhà tây, cất nhà nam, cất nhà bắc là cho con cháu chứ không phải cho con.

Đức Thế Tôn nói:

– Ông đã lớn tuổi rồi, Như Lai tặng ông một bài kệ để làm tài sản trong cuộc đời, ông chịu không?

Ông nói:

– Thôi cũng được, Thế Tôn đọc nhanh đi để con còn làm việc nữa.

Đức Phật nói bài kệ:

Con tôi, tài sản tôi,

Người ngu quá rộn ràng,

Ta còn không thật có,

Lo gì của và con.

Ông nói:

– Bạch Thế Tôn, bài kệ này hay lắm, con rất thấm thía nhưng để làm nhà xong rồi con tính.

Khi Đức Phật và tôn giả A-nan đi khỏi một lúc, ông bị cây đòn tay rớt trúng đầu chết. Câu chuyện này lan khắp thành phố. Bấy giờ có năm trăm vị Phạm Chí Bà La Môn, đón đường Đức Thế Tôn nói:

– Bạch Đức Thế Tôn, con nghe nói Đức Thế Tôn có một bài kệ rất hay, mà ông trưởng giả nghe xong không chịu chiêm nghiệm, rốt cuộc đi đến con đường chết, thì như vậy bài kệ đó như thế nào?

Đức Thế Tôn đọc:

Con tôi, tài sản tôi,

Người ngu quá rộn ràng,

Ta còn không thật có,

Lo gì của và con.

Tức khắc năm trăm vị chứng quả.

Bài kệ này từ kim khẩu Đức Phật nói ra, tại sao ông trưởng giả không chứng đạo, mà năm trăm vị Bà La Môn chứng đạo? Bởi vì khi ông trưởng giả nghe bài kệ này, tâm ông đang duyên theo việc cất nhà, nên không thâm nhập được tinh yếu bài kệ muốn nói gì. Nhưng năm trăm vị Bà La Môn phạm chí nghe rồi thì tức khắc xa lìa trần cấu, không còn bám chắc vào cuộc đời này nữa thì tự nhiên đạo đến.

Thân người khó được

Thân người rất là khó được. Hôm tôi giảng ở Sài Gòn có một vị cư sĩ đứng lên nói, thưa thầy, thầy nói thân người khó được mà con thấy càng ngày con người sanh ra càng đông. Nhưng quý Phật tử nghiệm lại, những loài súc sanh, như con chuột, con kiến, nó sanh ra gấp trăm ngàn lần con người. Bây giờ có những đất nước họ cản, không cho con người vào đất nước họ nữa. Điển hình ở Trung Quốc họ chỉ cho sanh một người thôi, còn ở Việt Nam chỉ cho sanh hai người. Như vậy là thân người khó được rồi.

Đức Phật nói thân người khó được, ý Ngài muốn nói, khi chúng ta mất thân này rồi, để hình thành lên một con người đầy đủ sáu căn là một chuyện rất hy hữu. Đức Phật nói giống như con rùa mù trên biển tìm bọng cây. Biển rộng bao la, trên biển nổi một cái bọng cây, có con rùa mù một trăm năm nổi lên một lần, nó tìm cách gặp bọng cây để chui vào. Mình sanh làm người đầy đủ sáu căn, đầy đủ năng lực, đầy đủ tri kiến để học hỏi Phật pháp thì Phật nói cũng khó như vậy.

Thiền sư Động Sơn khai thị đồ chúng, ngài nói, trên đời này có được thân người mà để mất là khổ nhất. Mình đã có thân người mà không chịu tu tập thăng hoa lên mà để mất đi thì rất uổng, cho nên ngài nói là khổ nhất.

Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy những điều khó khăn nhất trong cuộc đời mà chúng ta khó thực hiện.

1- Nghèo hèn bố thí là khó

Nghèo khổ mà muốn bố thí cúng dường gọi là lực bất tòng tâm. Tâm mình vậy nhưng lực không đủ. Lại biết tu tập, biết chuyển hóa là điều khó hơn nữa.

2- Giàu sang học đạo là khó

Giàu sang mà học đạo càng khó. Thời Đức Phật, ông Cấp Cô Độc rất giàu có, thường khuyên con mình là công tử Cala đi học Phật pháp mà anh không bao giờ chịu đi.

Muốn cho con mình được gặp chánh pháp, ông Cấp Cô Độc nghĩ ra một cách, đề nghị con vào chùa thọ Bát quan trai trong một ngày, ông sẽ thưởng năm trăm đồng tiền vàng. Công tử Cala đến nhận tám giới xong thì đi kiếm chỗ ngủ, sáng hôm sau đến xả giới rồi về nhận tiền. Ông Cấp Cô Độc biết thế, lần sau nói công tử Cala ráng nhớ một bài kệ sẽ được thưởng một ngàn đồng tiền vàng. Công tử Cala ráng chăm chú nghe cho thuộc. Nhưng khi ra khỏi tinh xá, do năng lực của Đức Phật tác động, anh quên hết. Anh chạy vô nghe lại, chạy ra chạy vô một hồi chứng quả luôn. Chứng quả rồi, công tử đến bạch Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn! Xưa nay con không thích Ngài, bởi vì cha con gặp Ngài rồi thì bao nhiêu tiền của đem cúng dường hết. Nhưng bây giờ con thấy cha con làm đúng, con hối hận quá, con xin sám hối. Con xin thỉnh Đức Thế Tôn về nhà con. Trưa hôm nay để nhận sự cúng dường của con.

Toàn bộ tăng chúng đều ngạc nhiên. Và khi công tử Cala ôm bình bát về đến nhà, ông Cấp Cô Độc vui mừng nói:

– Thôi con khỏi cần đọc bài kệ nào hết, chỉ cần thấy con ôm bình bát đi sau lưng Đức Phật là cha vui rồi. Cha sẽ thưởng con một ngàn đồng tiền vàng ngay bây giờ. Công tử Cala nói:

– Dạ con không nhận.

Ông Cấp Cô Độc ngạc nhiên thưa với Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn, hồi xưa đến giờ công tử Cala chưa bao giờ chê tiền, sao bữa nay chê tiền con không hiểu.

Đức Phật mới đọc bài kệ:

Dầu làm vua cõi Trời,

Dầu làm vua cõi Đất,

Cũng không sánh được bằng,

Người chứng quả dự lưu.

Làm vua cõi trời đất cũng không bằng người chứng quả. Trong diệu lực của pháp, khi mình bước vào, được khinh an rồi thì bao nhiêu phiền muộn ngày xưa chứa chấp tự nhiên tan biến, đúng là nghiệp chướng bỗng nay không có. Hồi xưa đọc chỗ này tôi không tin, nhưng khi trở về đất thật rồi, mình chứng nghiệm vào con đường đó thì thấy đúng là nghiệp chướng xưa nay không, bổn lai không. Đúng là bản chất nó không có thật, nó là bóng dáng thôi, là do chúng ta bám víu nhiều nó chồng chất lên, hình thành nghiệp lực đẩy mình. Nhận chưa được thì mình khổ, còn đi trong ba đường sáu nẻo. Cho nên điều đặc biệt nhất của người tu là ngồi lại để nhận diện cái gì là của mình. Chỉ bao nhiêu đó thôi.

3- Bỏ thân mạng quyết chết là khó

Bỏ thân mạng quyết chết để tu tập là rất khó. Chẳng hạn mình ngồi thiền đau chân quá mình cũng sợ không biết có bị bung gân hay bị gì không.

4- Thấy được kinh Phật thật là khó

Bây giờ kinh điển rất nhiều mà tại sao nói khó? Thấy được kinh Phật hay thấy được tâm kinh của mình, cái dòng sinh mệnh biến chuyển của mình, đó là khó. Kinh này là kinh ruột, kinh tâm chứ không phải kinh trong sách vở, đó là nói sâu một chút. Còn nói bình thường thì quý Phật tử thấy có mấy người đọc kinh, xem sách. Quý Phật tử về nhà có đọc không? Có cô Phật tử nói với tôi thầy giảng đĩa mp3 sao nhanh quá vậy. Tôi hỏi nhanh sao? Con nghe nửa tiếng hết rồi. Tôi nói chắc cô ngủ đó, tôi giảng đĩa đó gần hai năm. Cuối cùng cô thú thật là cô ngủ.

Mình đọc truyện kiếm hiệp Kim Dung, Cô Gái Đồ Long mình đọc say sưa luôn, mà khi đọc cuốn sách, cuốn kinh của Phật chừng năm mười phút là cuốn sách rớt trên bụng, mình ngủ một giấc luôn. Coi phim có khi mình coi tới sáng không biết mệt, nhưng có khi nào bài giảng mà quý Phật tử coi sáng đêm không? Giảng pháp mà coi vậy chắc mình mau thành đạo lắm. Không bao giờ, cho nên nói thấy được kinh Phật là khó.

5- Sanh vào thời Phật là khó

6- Nhịn sắc, nhịn dục là khó

7-Thấy tốt không ham cầu là khó

Chẳng hạn mình ra siêu thị, thấy thông báo chủ nhật này bán giảm giá món đồ thật đẹp, thay vì giá bình thường là một trăm euro, chủ nhật giảm giá còn có mười euro. Mình ngồi suy nghĩ, chủ nhật có một vị Hòa thượng giảng rất hay về giảng, vậy mình đi nghe pháp hay đi mua hàng giảm giá. Nghe pháp thì ngày nào cũng nghe, mở mạng là có, qua ngày thì hàng này hết giảm giá rồi. Hòa thượng giảng cùng lắm là Tứ Diệu Đế…. Cho nên thấy tốt không ham cầu là khó.

8- Bị nhục không giận tức là khó

Người ta mắng chửi làm nhục mình mà không tức giận, đó là khó.

9- Có thế lực không ỷ lại là khó

10- Gặp việc vô tâm là khó

Chẳng hạn quý Phật tử đi tu tập ở một ngôi chùa, tinh xá, hay thiền viện nào đó. Mình nghe chuyện thị phi, rồi có người điện thoại đến mình, hồi nãy tôi nghe bà Bảy bị vậy vậy… cô có nhớ có biết gì không. Mà chúng ta vô tâm chỉ là tu thôi, rất khó chứ không dễ.

11- Học rộng, nghiên cứu nhiều là khó

12- Trừ diệt ngã mạn rất là khó

13- Chẳng khinh người chưa học là khó

14- Thực hành tâm bình đẳng là khó

15- Chẳng nói sự phải quấy hơn thua là khó

16- Gặp được thiện hữu tri thức chỉ dạy rất là khó

17- Thấy tánh học đạo rất là khó

18- Tùy duyên hóa độ người rất là khó

19- Thấy cảnh tâm không động là khó

20- Khéo biết phương tiện rất là khó

Chúng ta nghiệm lại trong hai mươi điều khó này, có những điều chúng ta nắm bắt được và tu được, đó là phúc duyên rất tốt.

Phật pháp khó nghe

Hằng ngày chúng ta tụng bài “Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn”, quý Phật tử biết là của ai không? Của Hoàng đế Võ Tắc Thiên ghi lại, mà bây giờ chúng ta đem vào văn kinh để tụng đọc trước khi tụng đọc Bát-nhã. Võ Hậu Tắc Thiên là người rất hiểu Phật pháp. Sau này có những bộ phim dựng lên lịch sử về bà bị lệch rất nhiều. Thật ra bà là một người mộ đạo, có sự tu học và có sự chứng nghiệm về con đường thiền.

“Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp” Nay mình được rồi phải làm gì? Vâng gìn giữ”, có nghĩa là nắm bắt, không cho lui sụt tâm Bồ-đề của mình.

Cho nên tôi làm bài văn phát nguyện để nhớ lại, thúc giục phát nguyện đời đời luôn gặp Phật, chư Bồ-tát, Thánh Hiền làm quyến thuộc nhân duyên cho mình vào con đường đạo để tu học, đó là nguyện lực của mình. Khi nguyện lực phát rồi thì nó đi mãi, gắn chặt từ đời này qua đời khác trong dòng sinh mạng tương tục, Bồ-đề tâm theo mãi không mất.

Có người nói làm việc thiện thôi đâu cần tu, đâu cần quy y Tam bảo làm chi, nhưng mà trật. Mình hướng tâm quy y, và phát nguyện Bồ-đề tâm, là hơi thở của mình và cái dòng tương tục ngay trong giờ phút đó gắn chặt đời này và kiếp khác gọi là liên lũy, liên lũy mãi. Đời nào sinh ra mình cũng không quên và không mất. Cho nên mình phải phát Bồ-đề tâm, phải tu tập, phát nguyện đủ hết, nguyện lực và niệm lực lúc nào cũng đi theo.

Lão Tử nói bậc hạ mà nghe pháp cười to bỏ đi. Bậc trung nghe pháp thoạt nhớ thoạt quên. Bậc thượng nghe pháp thấm vào tứ chi, phổ ra hành động. Mình nghe pháp để nhớ rồi tư duy, chứng nghiệm, rồi phổ ra hành động việc làm hằng ngày của mình, đó là người học Phật pháp. Chứ học Phật pháp mà tham sân si rồi đủ thứ chuyện trên đời cũng giống như ngày xưa là mình chỉ học ngoài lề.

Có câu chuyện ông vua thử tài thần dân. Ông để ba bức tượng giống hệt nhau, ai phát hiện bức tượng nào quý nhất ông sẽ chia nửa giang sơn và gả công chúa cho. Tất cả những người đến thử đều rớt. Cuối cùng có một anh chàng, sau khi thử anh nói tượng chính giữa quý nhất. Vua hỏi tại sao biết. Anh nói anh thử bằng cọng cỏ, đưa cọng cỏ vào lỗ tai tượng thứ nhất, cọng cỏ lọt qua lỗ tai bên kia, tượng này dở nhất. Tượng thứ hai thì cọng cỏ từ lỗ tai ra miệng, tượng này cũng không tốt. Tượng chính giữa thì cọng cỏ vào lỗ tai rồi xuống bụng. Đó gọi là nghe vào lỗ tai, thấm vào tứ chi, phổ ra hành động. Còn mình nghe xong nó rớt mất luôn. Có nghĩa là mình nghe xong không thực hiện, không chứng nghiệm.

Quý Phật tử khi chưa tu mà có những lúc mình bực tức cãi lại chồng thì ông chồng sẵn sàng tha thứ, tại mình không có tu. Nhưng khi mình đã bỏ thời gian, sắp xếp việc nhà đi tu học ở thiền viện hoặc chùa, hoặc tinh xá, về nhà tụng kinh niệm Phật liên tục mà mình còn cãi thì ông chồng rất tức giận.

Học đạo để mình thấm vào tứ chi, phổ ra hành động hằng ngày, từ cách đi, cách đứng, cách ngồi. Quý Phật tử năm sáu chục tuổi nhưng đối với tinh thần của nhà Phật, từ khi bước chân vào con đường đạo là mình mới sanh ra thôi. Bởi vì trong cách thức oai nghi, Đức Phật dạy phải tập đi, tập đứng, tập ngồi, tập nói năng và cuối cùng tập thở. Sự thực tập này đòi hỏi quá trình tu luyện rất lâu dài. Có những vị Hòa thượng vừa nhìn là mình phát tín tâm mạnh liền. Các ngài tu luyện để thấm vào tứ chi bây giờ biểu hiện ra hành động, từng bước đi.

Ngày xưa tôi làm nhà khách ở Trúc Lâm, có cô này gia đình theo Công giáo ba đời. Từ khi đọc kinh sách của Hòa thượng cô mến mộ. Cô muốn tôi chỉ ngồi thiền sao cho phát hào quang để gia đình tin tưởng đi theo cô. Tôi nói tu thiền không có phát hào quang, cô cứ tập ngồi thiền. Chồng cô nói gì không vừa ý cô im lặng không cãi, cười vui vẻ bình thường như không có gì xảy ra. Chồng cô sẽ thắc mắc, biết cô được vậy nhờ tu thiền thì ông sẽ tu theo.

Nếu mình nói, con tu mà chồng con không chịu tu là phải coi lại mình. Mình chưa thấm vào tứ chi thì người thân phát hiện mình nhiều nhất, bởi vì lộ sơ hở. Đến đạo tràng thì mình nghiêm trang, sợ bị phát hiện nên phải giả, trong giới luật gọi là giả trang thiền tướng.

Câu chuyện trong kinh A-hàm:

Cô chủ Kasi ở thành Xá Vệ được khen là người không bao giờ sân hận bực tức, tiếng lành đồn mãi. Cô tớ gái không tin bà chủ của cô được như vậy nên muốn thử. Buổi sáng đáng lẽ bốn giờ cô phải dậy nấu nước, dọn dẹp nhà cửa, thì cô ngủ tới sáu giờ. Cô chủ này vào dặn mai phải dậy sớm. Sáng hôm sau cô tớ gái ngủ tới bảy giờ cũng chưa dậy, cô chủ cũng dặn sáng mai phải dậy sớm, nhưng hơi gằn giọng một chút. Sáng hôm sau nữa, cô tớ gái ngủ tới tám giờ, lần này cô chủ Kasi không kêu nữa mà cầm khúc củi phang lên đầu cô tớ gái chảy máu, cô tớ gái ôm đầu chạy ra đường la: “Bớ làng xóm ơi, cô chủ tôi rất là hiền thục!”

Phật nói người học đạo cũng như thế. Chúng ta học hiểu sâu rồi thì phải thấm ra hành động, để năng lực mình phổ ra người ta mới theo. Điều này khó chứ không phải dễ. Khổng Tử nói: “Sáng nghe đạo lý chiều chết cũng vui.” Đó là mình thấm vào dòng pháp của Đức Như Lai.

***

Tham Vấn

Hỏi: Bạch thầy, con có thắc mắc, hồi nãy thầy nói gia đình Bàng Long Uẩn vứt tất cả của cải xuống biển, con đọc mà con cứ thắc mắc tại sao nhiều người khổ đau mà mình vứt hết, vứt đi là không lợi lộc cho ai hết cả.

Đáp: Khi ông Bàng Long Uẩn gặp Thiền sư Thạch Đầu ông hỏi: “Người chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?” Thiền sư Thạch Đầu bịt miệng ông, ông bỗng nhiên tỉnh ngộ. Hằng ngày quý Phật tử làm bạn nhiều hay ít? Không những mình làm bạn lúc thức, mà khi ngủ cũng làm bạn luôn. Người kế bên đánh thức dậy có khi mình nổi giận vì làm mất giấc mơ đẹp. Có nghĩa là mình làm bạn suốt. Đầu óc mình suy nghĩ là mình làm bạn, vọng tưởng đến một cảnh giới nào đó tức là mình làm bạn. Còn người không cùng muôn pháp làm bạn là người gì? Muốn nhận ra được con người này chỉ là bịt cái miệng lại, tức là vô ngôn.

Thiền sư Thạch Đầu hỏi ông Bàng Long Uẩn, ông muốn làm hạnh xuất gia hay tại gia. Ông nói con làm hạnh tại gia. Một hôm Bàng Long Uẩn gặp Thiền sư Mã Tổ ở Giang Tây, ông hỏi:

– Bạch Hòa thượng, người chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?

Thiền sư Mã Tổ nói:

– Đợi ông một ngụm nước uống cạn sông Giang Tây ta sẽ nói cho ông nghe.

Ngay tức khắc ông triệt ngộ. Triệt ngộ rồi ông thấy quãng đời của ông liên lũy từ kiếp này đến kiếp khác. Và thấy do bị dính mắc vào phước báu mà đường tu không rốt ráo được, nó dằn vặt, sanh lên lộn xuống mãi. Khi làm từ thiện người ta ca ngợi mình rồi mình sanh tâm tiếp tục, tiếp tục nữa. Thôi mình dứt khoát đẩy xuống biển hết cho rồi. Bởi vì ông thấy dòng tương tục nó liên lũy mãi không dứt ra được. Người xưa khi đốn ngộ rồi người ta rất sợ cảnh cho nên vào ở núi để mà trưởng dưỡng thánh thai.

Hỏi: Con xin Thầy có thể giải thích thêm về tu nhà, tu trường, tu chợ và tu chùa.

Đáp: Tu nhà, tu chợ, tu chùa là nói theo dân gian, trong Phật pháp gọi là tiểu ẩn, trung ẩn và đại ẩn. Tiểu ẩn là ở chùa, trung ẩn là ở nhà, đại ẩn là ở trong quan trường. Quan trường có nhiều sự kiện, nếu tu được là đại ẩn. Ở nhà tu được là trung ẩn, còn ở chùa tu được là tiểu ẩn. Trong bệnh viện, người bệnh là tiểu ẩn, người ở nhà thăm bệnh, nuôi bệnh là trung ẩn. Chúng tôi là người bệnh nằm bệnh viện. Có người hỏi thiền viện Thầy tên gì. Tôi nói không phải thiền viện, mà là bệnh viện, Bệnh Viện Trúc Lâm Chánh Thiện. Vào đây chúng tôi ẩn để tránh các duyên, để tu tập là tiểu ẩn. Quý Phật tử ở nhà tu gọi là trung ẩn.

Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo nói: “Nhưng mà ở nhà có làm được trung ẩn hay không? Và ở quan trường có làm được đại ẩn hay không?” Đó là sự đòi hỏi. Ở nhà rất là khó tu mà mình tu được đó là xuất cách, còn ở quan trường mà tu được càng xuất cách hơn nữa.

Hỏi: Như hôm qua Thầy giảng, một lần thọ Bát quan trai bằng một năm tu hành. Vậy nếu một năm mình thọ Bát quan trai hai chục lần thì coi như mình tu hai chục năm?

Đáp: Kinh Bách Duyên kể câu chuyện:

Một hôm Đức Phật khi đi kinh hành với Tôn giả A-nan thì Đức Phật mỉm cười. Đức Phật thường ít mỉm cười mà Ngài cười là có sự kiện. Tôn giả A-nan hỏi:

– Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay có duyên sự gì mà Thế Tôn mỉm cười?

Đức Thế Tôn:

– Bạn thân của ông là Hoàng Thái Tử còn bảy ngày nữa chết. Do ăn chơi quá nên chết sẽ rớt xuống địa ngục, chịu khổ vô lượng kiếp. Ông hãy cảnh báo ông ta biết.

Tôn giả A-nan đến cảnh báo:

– Thế Tôn có năng lực siêu phàm, thấy biết từ quá khứ, hiện tại đến vị lai. Ngài nói bạn còn bảy ngày nữa chết, chết rồi bạn rớt xuống hỏa ngục rất là khổ, bây giờ bạn tính đi.

Ông Hoàng Tử đó khóc lóc nhờ Tôn giả về hỏi Phật có cách gì cứu ông không. Tôn giả A-nan đến trình với Phật, Phật nói có một cách duy nhất là ông ta phải xuất gia ngay. A-nan cho ông biết Đức Thế Tôn dạy nếu bạn muốn thoát cảnh khổ thì phải xuất gia. Ông nhờ Tôn giả về năn nỉ Đức Thế Tôn cho ông chơi sáu ngày nữa rồi ông sẽ xuất gia. Thế Tôn cũng đồng ý. Trong suốt sáu ngày đó ông ăn chơi tối đa. Ngày cuối cùng ông vào xuất gia, được cạo tóc đắp y, truyền giới xong, sáng hôm sau ông từ giã cuộc đời. Sau khi ông chết, tôn giả A-nan hỏi Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn, người bạn của con bây giờ đi đâu?

Thế Tôn đáp:

– Nhờ túc duyên xuất gia với Như Lai, khi ông thọ giới xong rồi chết, bây giờ ông làm Thái tử con của Trời Tứ Thiên Vương chứ không bị rớt xuống hỏa ngục.

Chúng ta thọ giới Bát quan trai cũng vậy. Nghiệp lực mình giống như cái rừng, chỉ cần một đốm lửa của giới định tuệ trong một ngày đốt cháy hết. Một rừng kiến chấp mà chỉ cần chúng ta tu tập đúng với con đường giới định tuệ thì tức khắc nó đốt hết rừng kiến chấp, phiền não. Nhớ là phải tu tập đúng, tu không đúng là không được. Cho nên Như Lai nói tu một ngày Bát quan trai giới bằng một năm là có lý. Bởi vì trong giờ phút đó sự có mặt của Giới- định-tuệ, của mười phương Tam Bảo chứng minh.

Hỏi: Mô Phật, con còn phân vân ở chỗ thiền là mình tìm sự an lạc cho bản thân của mình để tiến triển vào con đường tu học. Con có nghe nhiều người nói là thiền là phải tỉnh, có nghĩa là cái gì xung quanh nó động thì mình cũng đều nghe, đều biết hết. Có nhiều người nữa nói là thiền đi vào trong thiền. Rồi có nhiều vị tu thiền hai ba chục năm hoặc là một vài trăm năm mà không chết… lúc đó thiền có an lạc không thầy?

Đáp: Thiền gọi là Thiền-na, Trung Hoa dịch là tĩnh lự. Lự là vọng tưởng nó lao lự mình. Mình ngồi yên lại giống như ly nước để yên thì cặn cáu lắng xuống. Tâm thức của mình cũng vậy, ngày xưa có sự kiện nào đến mình duyên theo đắm đuối, niềm vui đến mình cười, nỗi buồn đến thì khóc. Khi tu tập, ngồi thiền chúng ta nhìn lại đó là bóng dáng, tại sao mình đắm đuối nó mãi để chết chìm trong sự khát ái. Khi nhận diện nó là vọng tưởng, không có thật thì chúng ta dừng lại, dừng những cái lao lự đó, từ từ tâm được khinh an, gọi là tĩnh lự, tức là được yên ổn.

Khi ngồi thiền không phải chúng ta chặt đứt hết sáu căn mà vẫn nghe rõ tiếng chim kêu, tiếng dế gáy, tiếng người nói. Nghe hết tất cả các tướng nhưng không trụ trên tướng mà chúng ta sanh tâm, không sanh tâm bực tức, không sanh tâm thương ghét. Như thế chúng ta không diệt sáu căn, mà giống như chúng ta đứng trên một dòng nước, một con sông lớn. Chúng ta thấy rõ những đống rác lớn trôi xuống, nhưng không vớt chúng lên, mà chỉ ngắm nhìn đống rác nó đang trôi, và ngắm nhìn dòng sông nó chảy bất tận. Đặc biệt là, trong cái dòng sông vô tận trôi chảy liên tục đó có một cái bất động. Dòng sông trôi chảy nhưng lòng sông bất động, đứng yên một chỗ. Đó là tánh biết duy nhất của mỗi người chúng ta. Mỗi cái động, mỗi cái tịnh chúng ta xuyên suốt hết.

Người tu thiền mà mấy trăm năm không mất, là những vị tu tập A-la-hán. Các ngài có thể vào diệt tận định bảy tám trăm năm, hoặc một ngàn, hai ngàn năm là bình thường. Đó gọi là diệt tận định, diệt tận định là cắt đứt hết sáu căn, không còn nghe cái gì nữa hết, gọi là diệt thọ, tưởng, định. Còn tinh thần của Thiền tông, Thiền đốn ngộ là ngay nơi tâm mình, một niệm mê là chúng sanh, một niệm ngộ tức là Phật.

Phật mọi lúc mọi nơi, cho nên ngài Phó Đại Sĩ có làm bài kệ:

Đêm đêm ôm Phật ngủ,

Ngày ngày cùng Phật dậy.

Nói nín hằng theo nhau,

Mỗi mỗi cùng chung bước.

Muốn biết nơi Phật đi,

Chỉ chỗ nói năng đó.

Tức là mình đi, như nãy giờ mình đi ăn cơm, cũng có ông Phật theo mình. Các ngài nói mình xuống địa ngục Phật cũng xuống luôn. Khi xuống địa ngục mình chịu khổ, cái gì biết khổ? Nhận cái đó mình giải thoát liền, mà mình nhận không được. Mình xuống địa ngục khi bị quỷ dạ xoa tra tấn, chỉ cần mình biết cái gì biết đau, quy chiếu lại, tức khắc mình giải thoát. Ngặt một điều đau mình chạy theo cái đau, khổ chạy theo cái khổ, mà không nhận diện được cái gì biết khổ, cái gì biết buồn, cái gì biết vui. Tức là giữa cái động cái tịnh mình xuyên suốt hết, có một ông chủ hiện diện nơi thân tâm của mình, mà ông chủ đó không tàn theo bốn mùa. Dầu cho gió trăng thay đổi vẫn không tàn theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đó gọi là ông chủ hiện hữu.

Phật Pháp Căn Bản

Có cô Phật tử thuộc một đạo tràng niệm Phật ở nước Áo nói rằng, Phật tử hiện nay đi tu học khá nhiều, nhưng khi hỏi Phật giáo là gì họ không biết. Có những người thường đi chùa, hỏi Tam Bảo là gì họ cũng không biết. Vì thế, bài này chúng tôi muốn chia sẻ về căn bản của Phật pháp.

Người theo các tôn giáo khác như Ấn Độ giáo, đạo Hindu, hoặc Công giáo, những giáo điều của Kinh Thánh họ rất là rõ. Phật tử mà không biết giáo lý của nhà Phật, thì khi có người hỏi, mình không biết thì rất là thiếu sót.

Học Phật pháp, quan trọng nhất là chúng ta trang bị chánh kiến. Quý Phật tử ra chợ mua một món đồ, nếu phát hiện món đồ này là giả không phải thật, thì chỉ mất một số tiền thôi. Nếu cả đời chúng ta toàn mua lầm đồ giả thì cũng chỉ lầm trong một đời thôi. Nhưng nếu không biết Phật pháp, chúng ta lầm, chấp giả cho là thật thì mất nhiều đời người. Không những kiếp này trầm luân, mà đời đời kiếp kiếp trầm luân nữa. Cho nên ngày hôm nay chúng tôi muốn trang bị cho quý Phật tử những dấu ấn, mà trong kinh A-hàm Đức Phật nói, nơi nào không có bốn con dấu của Đức Phật ấn vào thì nơi đó không phải là Phật pháp.

Chẳng hạn mình đến một công sở xin việc làm, phải có con dấu của vị giám đốc mình mới được vào làm. Cũng giống như muốn đi châu Âu, chúng tôi phải xin visa, phải có con dấu. Có con dấu rồi, khi đi từ Việt Nam đến phi trường Pháp, người ta phải kiểm tra con dấu này thật hay giả. Con dấu này thật thì mới được chấp nhận vào.

Cũng vậy, Đức Phật nói giáo pháp của Như Lai, dầu bất cứ nơi nào, nếu không có những con dấu này thì không phải là của Như Lai nói. Để thấy tầm quan trọng khi Đức Thế Tôn tuyên thuyết, nếu không có con dấu này thì không phải là Phật pháp.

Bốn con dấu đó gọi là Tứ Pháp Ấn: Vô thường, Khổ, Vô ngã, Niết-bàn tịch tĩnh. Như vậy, nếu ai nói thân này là bền chắc, có một linh hồn bất diệt thì mình biết đây không phải là lời Đức Phật nói.

1 – Pháp ấn thứ nhất: Tất cả hành là vô thường.

Đức Phật chỉ cho ta cặn kẽ thân này vô thường, mỏng manh, tạm bợ, đi đến con đường hoại diệt, để cho mình bớt chấp ngã. Sở dĩ chúng ta đấu tranh, phiền hận, phiền não với nhau, không nhường nhịn nhau là do cái ngã mình quá lớn. Nơi nào có sự xung đột, bất đồng ý kiến với nhau là do cái ngã của những người nơi đó quá lớn. Chẳng hạn mình đưa ý kiến nào ra bắt buộc những người dưới mình phải theo. Mà khi quán chiếu về cái thân vô thường, mỏng manh tạm bợ, không có tự thể thì chúng ta rất là dễ bỏ qua.

Quý Phật tử lớn tuổi nếu không quán chiếu kỹ thì rất dễ chấp ngã. Bởi vì cái chấp ngã này từ khi chúng ta sanh ra đã có mặt, gọi là câu sanh ngã chấp, đi theo suốt cả cuộc đời của mình. Mấy mươi năm trong cuộc đời có rất nhiều sự chấp ngã dính khằn vô rồi. Bây giờ chúng ta phải làm như thế nào để phá, để không còn chấp ngã nữa, để đạt đến vô ngã. Đó là tinh thần pháp ấn thứ nhất của nhà Phật.

Phật dạy thân vô thường không phải để quý Phật tử bi quan yếm thế, mà để cho thấy cuộc đời này rất mỏng manh tạm bợ, để mình dễ buông xả và có lòng tha thứ đến người khác. Chẳng hạn chấp mình là mẹ, là bà nội, là người lớn, thì mấy đứa nhỏ nói mình không chịu nghe. Mình hay đưa ra những cái lệnh bắt buộc những người dưới phải nghe, mà những lời nói của mình chưa chắc đúng.

Trong kinh Tương Ưng Bộ, có một thầy Tỳ-kheo khi quán chiếu về tứ đại sắc thân vô thường, thầy chứng nhập vào dòng Thánh và đến bạch Thế Tôn:

“Bạch Thế Tôn, sắc là vô thường, cái gì vô thường là khổ.”

Cái gì bản chất vô thường là khổ, từ cái nhà đến con người, nói khác hơn là vạn pháp. Quý Phật tử thấy vạn pháp có trường tồn mãi không? Ngày xưa khí hậu không bao giờ nóng như thế này, bây giờ khí hậu nóng lên. Bản chất nó vô thường, mà vô thường là khổ. Một lúc nào đó cái thân này sẽ bị bể, bị nát, bị vụn, bị đi đến con đường hoại diệt. Mình không quán chiếu về sự vô thường thì mình khóc lóc, sợ hãi. Hằng ngày quán chiếu là cái thân này có một lúc sẽ tan vỡ, sẽ bị hoại diệt, mà cái gì tan vỡ, hoại diệt thì bản chất nó là khổ chứ không phải là hạnh phúc.

Quán chiếu thân vô thường, về sự khổ của thân; cũng như quán niệm về cái chết, về sự tan rã của thân không phải là bi quan yếm thế mà chúng ta không còn chấp và xả ly cái tham. Xả ly lòng tham chấp thì tức khắc con đường hạnh phúc có mặt.

Đó là phương pháp tu tập trong bốn bộ kinh A-hàm, nói khác hơn là hệ nguyên thủy mà chúng ta phải nắm bắt, bởi vì hệ nguyên thủy là pháp căn bản. Quý Phật tử tu tập về pháp môn thiền hay niệm Phật, mà tâm mình chấp ngã, cứng ngắc, thì không thể nào buông xả hết những tham chấp trong cuộc đời. Không buông xả được thì khi thân này chuẩn bị tan rã mình bám víu vào. Bám víu vào thì không thể nào chúng ta được tái sanh lên cảnh giới an ổn.

Như vậy, chúng ta học qua pháp căn bản để chuẩn bị hành trình rất dài khi tiến thẳng vào công phu. Cho nên pháp này gọi là pháp căn bản, là cái gốc.

Cây mà không có gốc, không có rễ thì cây không sống được. Hoa quả cuối cùng của cây giác ngộ chính là Thiền Tông đốn ngộ, nhưng nền tảng căn bản của Phật pháp là những con dấu này, chúng ta phải từ đó mà đi lên. Học Phật pháp không có căn bản giống như chúng ta xây nhà lầu mà chỉ xây tầng trên, tầng dưới chúng ta không chịu xây.

Trong kinh Bách Dụ kể câu chuyện:

Có ông trưởng giả lên thành phố chơi, thấy người ta xây một căn nhà có ba tầng lầu, ông rất thích tầng lầu cao nhất, còn hai tầng dưới ông không thích. Ông về mướn thợ xây, bảo xây cho ông căn nhà cao ba tầng, mà chỉ xây tầng trên cùng thôi, không xây hai tầng dưới. Thợ xây nói không được, nếu không xây nền, xây móng, từng bước đi lên thì không thể nào xây được.

Cũng như thế, chúng ta học Phật pháp mà chúng ta mất căn bản, có nhiều khi chúng ta chấp pháp nữa. Mà pháp là gì? Pháp là phương tiện, là cái trợ duyên chớ chưa phải là cứu cánh rốt ráo. Cho nên cái gì mà bị biến hoại, bị hoại diệt tức là khổ. Những gì vô thường và khổ ắt phải chịu sự biến hoại. Con người mình sanh ra đời, lớn lên, rồi bệnh, rồi chết. Những gì vô thường phải chịu sự biến hoại của cuộc đời, của thời gian và không gian, chớ không có đứng vững mãi.

Lúc thân còn mạnh khỏe thì mình có thể tu tập được. Đến khi tuổi lớn rồi, chúng ta ngồi thiền hoặc ngồi niệm Phật, lưng thì đau, chân thì mỏi nhức, bởi vì bản chất nó hoại diệt. Biết được như thế thì sáng thức dậy bốn giờ hoặc năm giờ, chúng ta xếp chân lại chúng ta ngồi thiền hoặc tụng kinh, niệm Phật, tùy theo phương pháp mà chúng ta tu trì. Mình biết chắc chắn cuộc đời mình sẽ đi đến con đường này thì chúng ta gắng sức tu học, chớ không để bị thời gian nó chi phối.

Quý Phật tử nghiệm lại, ngày xưa mình ăn ngon, ngủ ngon, ai động gì cách mấy mình vẫn ngủ. Bây giờ chỉ cần tiếng động nhẹ là mình thức dậy luôn ngủ lại không được nữa. Như vậy là thân mình bị biến hoại theo thời gian, biến hoại theo thời gian thì sự tu học của mình bắt đầu đi xuống. Đức Phật dạy con người mình có một trăm năm thôi, mà hết năm chục năm ngủ nghỉ, hai mươi lăm năm công phu tu tập, còn hai mươi lăm năm là thị phi trong cuộc sống.

Như vậy thời gian tu tập của chúng ta rất là ít ỏi trong cuộc sống giữa đời thường này. Biết như thế để chúng ta gắng sức tu. Gắng sức tu ở đây không phải là về mình tu rút, tu mà không ăn không ngủ. Tu ở đây tức là tu trong từng sát-na của niệm. Một niệm ngày xưa tật đố ích kỷ, xan tham, sân hận, phiền tức nó dấy khởi lên chúng ta đắm đuối, chúng ta dính mắc, chúng ta theo. Còn bây giờ chúng ta biết rằng cái này nó không phải là của mình, không phải là ta, là của ta, là tự ngã của ta thì quý Phật tử buông cái một. Đi trên một đoạn đường dài chúng ta thấy từng chiếc lá rơi xuống, hoặc là chúng ta thấy một cái hòn sỏi bên cạnh đường cũng là một phương pháp cho chúng ta tu.

Khi quý Phật tử đến chùa Phổ Bảo này, cũng là phương pháp khi quý Phật tử tu. Chẳng hạn lên chánh điện chùa Phổ Bảo có khi nào mình đội nón hoặc mang giày dép không? Đó cũng là một bài pháp. Đặt chân lên mảnh đất Phật điện, chúng ta phải buông xả những cái gì chúng ta nắm níu, thì lúc đó quý Phật tử tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật đều có công đức hết. Tức là khi đặt chân lên mảnh đất thực tại thì chúng ta phải cố gắng buông xả, đó là thực tại diễn bày ra. Buông bỏ những dòng sinh mệnh của chúng ta, những cái nghĩ vẩn vơ đây đó. Đó là chúng ta đang tu.

Rồi khi mình thắp cây hương, cái gì rớt xuống? Cái tàn rớt xuống. Cái gì bay lên? Khói bay lên. Thì như vậy, cái gì nhẹ nhàng thanh thoát bay lên, cái gì nặng nề rớt xuống. Cũng vậy, khi tâm thức của chúng ta không dính mắc, không phiền hận, không có sự uất hận, không có sự chấp ngã, không có sự hơn thua, thì tâm thanh thoát, tự tại. Còn nặng nề tức là phiền não dính mắc nhiều quá, đụng một chút là bực tức, phẫn nộ thì mình biết chắc chắn chết sẽ bị chìm xuống. Đơn giản vậy thôi.

Thầy Tỳ-kheo nói:

“Những gì vô thường và khổ thì chắc chắn sẽ bị biến hoại, con không còn nghi ngờ gì về vấn đề này nữa. Do đó con không có lòng tham, không có lòng dục, không còn lưu luyến đối với các sắc. Bạch Thế Tôn, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.”

Khi một thầy Tỳ-kheo quán sát về năm thủ uẩn, thì ngài thấy rằng năm thủ uẩn này giống như năm dòng sông biến dịch, biến đổi liên tục. Bây giờ quý Phật tử ngồi thiền lại đi, quý Phật tử thấy thọ, tưởng, hành, thức của mình nó giống như năm dòng sông biến đổi liên tục, không đứng yên một chỗ. Thấy được như thế thì mình không có lòng tham, lòng dục, lòng khát ái, lòng phẫn nộ. Cho nên tinh thần của nhà thiền là ngồi lại để quán chiếu chớ không gì hết.

Quán chiếu mình thấy rằng sắc thân này nếu là của mình thì nó phải đầy đủ ba yếu tố: Một là chủ tể, hai là đồng nhất, ba là bất biến. Nhưng mà quán chiếu thật kỹ, nó không phải là chủ tể, mình làm chủ không được. Nếu nói làm chủ được thì mình nói móng tay móng chân đừng ra, nó ra không? Tự động nó ra hay là mình kêu nó ra? Rồi có những lúc mình đau bụng, nhức đầu, mình nói là mày đừng có đau bụng, đừng có nhức đầu, được không? Cũng không được luôn, bởi vì mình làm chủ nó không được. Tự nó sanh, tự nó diệt, vậy thôi.

Điều đặc biệt nhất trong tinh thần nhà thiền là quán chiếu cái dòng sông biến dịch này. Tuy rằng mình không làm chủ được thân này nhưng có một cái gì nó thầm thầm bên trong, các vị Thiền sư nói là tánh biết, là Phật tâm, là bản thể của mình. Biết rõ ràng nó biến dịch, chẳng hạn mình đau biết mình đau. Đau biết đau thì không còn bị cái đau nó dẫn dắt mình nữa.

Chẳng hạn như nước Đức ngày xưa sức nóng khoảng chừng 30 0C, mà bây giờ nóng tới 35-38 0C. Nếu quý Phật tử cứ than vãn, ta thán thì mình càng thấy nóng nhiều hơn nữa. Mà cái gì thấy được sức nóng từ bên ngoài nó đến? Biết được như thế thì mình làm chủ được cái nóng.

Có một vị tăng đến hỏi Thiền sư Động Sơn:

– Khi nóng lạnh đến phải làm thế nào?

Thiền sư Động Sơn nói:

– Lạnh thời lạnh quá xà-lê, nóng thời nóng quá xà-lê.

Trả lời vậy thôi. Lạnh mà mình tột được cái lạnh thì không khổ vì lạnh nữa. Cho nên qua điều kiện của khí hậu thiên nhiên, khi chúng ta thấu thoát được rồi thì chúng ta bình ổn. Chẳng hạn quý Phật tử là con người, tôi cũng là con người, nhưng mà tôi sống những chỗ khắc nghiệt tôi chịu đựng được, tôi không than vãn, không trách trời, không trách đất, cũng không trách một người nào hết. Đó là tôi sống theo cái bản thể tùy duyên, tùy duyên đến và tùy duyên đi. Trong cái bản thể tùy duyên đó tôi đang thực tập phương pháp công phu tu tập quán chiếu. Hiểu được như thế thì quý Phật tử đi đâu sống cũng được, đi đâu sống cũng tự tại an ổn không có gì ràng buộc câu thúc. Không ràng buộc câu thúc, khi cái chết đến chúng ta giải thoát.

Bởi vì tùy duyên đến đây, thì chắc chắn rằng có một lúc nào đó tùy duyên chúng ta ra đi, không buồn, không khổ, không than trách gì hết. Chẳng hạn bây giờ tôi đang ở đây, không có khói xe thì tôi biết không có khói xe, không có bụi bặm thì biết không có bụi bặm. Nhưng khi về đất nước của chúng tôi có khói xe có bụi bặm, đường sá như thế này thế kia tôi cũng bình thản. Duyên tôi đến đây năm tuần, tôi sống như thế này, khi hết duyên ở đây tôi về lại đất nước Việt Nam tôi cũng sống theo cái tùy duyên.

Khi sống được cái tùy duyên thì giống như một đám mây. Quý Phật tử thấy đám mây do móc đinh cột lại, hay do sao mà có? Hiểu được như thế thì mình sống sao giống như một đám mây, đủ duyên nó hình thành. Khi nhìn trên bầu trời thấy đám mây hình con chó, con sư tử, con mèo, con cọp, những hình ảnh đó lâu hay mau? “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.” Vân cẩu là gì? Là con chó bồng bềnh trong đám mây. Cái gì thấy được con chó trong đám mây?

Cuộc đời của mình giống như một tuồng sân khấu, có khi chúng ta làm vua, có khi làm hoàng tử, công chúa, có khi làm hoàng hậu. Có lúc chúng ta khóc, lúc cười, có những lúc khổ đau, lúc hạnh phúc. Khi rã tuồng sân khấu trở về con người thật của mình rồi, thì tinh thần của nhà thiền nói: Đằng sau sân khấu ta là ai? Đây là đặc điểm của người tu tập quán chiếu về sự công phu.

Giáo lý của Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta biết được rằng sắc là vô thường thì chúng ta không còn lưu luyến đối với sắc nữa. Không có lòng khát ái, ra đi chúng ta tự tại. Khi từ bỏ thân này mà còn khát ái về thân thì bỏ thân này mình lượm thân khác. Nhiều khi cái thân mình bây giờ 60kg, mà mình còn tham còn khát ái, thì có khi mình lượm cái thân 200-300kg, là rớt trong loài súc sanh, chẳng hạn như con voi, con chim đại bàng… Phi cầm tẩu thú, rất là rõ.

Chúng ta học Phật pháp ít khi chịu lắng nghe để tu học, để tâm thức chuyển hóa mạnh. Chúng ta hay do dự bởi vì mình nghĩ mấy thầy nói vậy chứ mình còn khỏe mạnh còn lâu mới chết. Hiểu được tất cả rồi sẽ chết như thế bắt đầu chúng ta gia tăng tốc độ tu học. Cho nên Thiền sư Hám Sơn sống vào thời nhà Minh nói:

Một mai vô thường đến,

Mới hay mộng huyễn thân.

Muôn việc đem chẳng được,

Chỉ nghiệp theo thức thần.

Một mai vô thường đến, mình mới hay ra rằng cái thân này là mộng là huyễn thì trễ rồi. Lúc đó ngồi hối tiếc: Phải chi… Cho nên ngài Tinh Vân nói sở dĩ chúng ta tu mãi mà không thành tựu đạo nghiệp là vì có ba thứ ràng buộc. Một là tại, hai là bởi, ba là vì. Khi chúng ta bệnh khổ, nằm xuống rồi thì nói: Tại tôi lo cho con cháu; Bởi vì ngày hôm nay tôi đi này đi kia; Vì tôi lý do này, lý do khác. Ba thứ “tại, bởi, vì” làm cho tu không được. Cho nên bây giờ mình về, đừng đọc gì nhiều, chỉ cần ghi trên đầu giường: “Sở dĩ tôi không thành tựu được đạo nghiệp là do: tại, bởi, vì.” Vậy thôi. Mình thấu thoát được tại, bởi, vì, tức khắc mình thành tựu đạo nghiệp, rất là đơn giản. Cuộc sống của chúng ta luôn luôn bị ba thứ này nó câu thúc mình, mình không vượt thoát được ba thứ này là chúng ta chìm mãi. Tại vì tôi cái này tôi cái kia cho nên tôi không ngồi thiền được, tôi không có tu học được bởi vì tôi ….

Khi vô thường đến thì mới hay cái thân là mộng là huyễn, muôn việc mình tính toán dầu cho giỏi cách mấy cũng không đem theo được. Khổng Minh Gia Cát Lượng khi phò Lưu Bị mong muốn gôm thâu trung nguyên lại một mối. Khi lừa được Tư Mã Ý vào trong ngõa long, ông phóng hỏa đốt, đinh ninh khi Tư Mã Ý chết rồi thì ông sẽ thành tựu đại nghiệp. Khi bị lừa vào trong núi đốt, Tư Mã Ý ngửa mặt lên trời than thì bỗng nhiên sấm chớp nổi lên, mưa xuống lửa tắt. Lúc này Khổng Minh chết đứng. Khi sự việc đến thì muôn việc mình tính toán cách mấy cũng không được.

Có một số Phật tử vì bận rộn làm ăn họ không nghiên cứu Phật pháp bao nhiêu, khi cái khổ đến chẳng hạn người thân ra đi thì họ hụt hẫng. Rồi bây giờ họ tính sẽ thu xếp bán hết tất cả để chuyên nhất vào con đường tu. Mà khi người thân họ mất họ mới giật mình.

Tôi từng kể cho quý Phật tử chuyện cô công chúa đòi xâu chuỗi bằng những chiếc bong bóng nước. Khi tự tay cô lượm từng chiếc bong bóng lên, lượm đến đâu nó bể đến đó thì cô tỉnh ngộ.

Đức Phật kể câu chuyện này để cho chúng ta thấy mình giống như cô công chúa. Hồi xưa giờ quý Phật tử lượm bao nhiêu chiếc bong bóng nước rồi? Lượm nhiều hay ít? Công danh, sự nghiệp, nhà cửa, con cái, đó là những chiếc bong bóng nước. Mình gầy dựng rất nhiều, mà một lúc nào đó những chiếc bong bóng nước này nó bể, nát, vụn, chúng ta không đem theo được một cái gì hết.

Đức Phật sau khi Ngài thẩm thấu được cuộc sống là như thế, Ngài rũ bỏ hết tất cả. Ngài tìm ra được một con đường, một chân lý tối thượng. Tôi không bảo quý Phật tử bỏ hết như Đức Phật, chúng ta làm mà đừng có dính mắc nhiều. Khi công việc đến nếu đủ duyên thành tựu thì chúng ta cũng không vui, mà khi nó mất chúng ta cũng không buồn, đó là người Phật tử biết tu. Một lúc nào đó, người thân mình sẽ bể, sẽ vụn, rồi bản thân mình cũng có lúc bể, vụn. Lúc đó bao nhiêu việc tính toán mình không đem theo được gì hết. Nghiệm lại đời người thật là bi đát.

Có người hỏi ngài Lạt Ma thứ 14, trong cuộc đời này Ngài thấy cái gì kỳ cục nhất? Ngài nói con người là kỳ cục nhất. Hỏi tại sao? Ngài nói con người suốt cuộc đời làm lụng không nghỉ, làm ngày làm đêm, đầu tắt mặt tối để có thật nhiều tiền. Khi về già mang bệnh thì nói, bây giờ tôi hết tiền cũng được, nghèo cũng được miễn sao tôi hết bệnh.

Con người thật mâu thuẫn. Làm lụng cực khổ để dành dụm một số tiền thật lớn, đến khi bệnh thì mình đánh đổi, sạt nghiệp cũng được, miễn sao mình hết bệnh. Nghiệm lại cuộc sống, từ khi sanh ra, rồi lớn lên, lập gia đình có gì vui không? Chẳng có gì để mà thích thú!

Như câu chuyện trong Nghệ thật sống, cuộc đời con người thời trẻ chẳng khác gì con lừa, làm lụng quần quật để nuôi con. Khi con cái lớn lên lập gia đình thì coi nhà coi cháu cho con, giống như con chó. Già thì làm trò nhảy nhót như khỉ cho cháu vui. Đức Phật nói nếu trong cuộc đời không có những cảnh khổ thì chúng sanh chưa chắc gì tu.

Đọc câu chuyện này tôi bị tác động mạnh. Hai mươi mấy tuổi tôi đã vào Thường Chiếu tu học. Có những người không hiểu, nói chúng tôi thất tình, hay có vấn đề gì đó, chứ còn thanh niên trai trẻ mà tại sao đi tu. Tôi nghĩ nếu mình lập gia đình thì giống như con lừa phải cày, phải bươn chải. Rồi chúng ta có con có cháu bắt đầu giữ nhà cho nó. Cuộc đời của mình đi đến ngõ cụt chứ không có lối thoát. Giống như con tàu định mệnh, nó đi rồi kết thúc là rớt xuống vực thẳm, chứ không có kết cục tốt đẹp. Cho nên chúng tôi dứt bỏ hết tất cả để dấn thân vào con đường đạo.

Chúng tôi không phải nói để quý Phật tử dứt bỏ hết rồi cạo tóc vào chùa tu, mà chúng ta ý thức được cuộc đời là như thế, bắt đầu chúng ta dấn thân vào con đường tạo tất cả các việc thiện pháp, rồi chúng ta tu học để đời sau chúng ta thăng hoa lên. Mình phát nguyện đời này mình thăng hoa, đời sau thăng hoa hơn nữa, bởi vì mình cảm nhận được cuộc sống này nó vô thường, mỏng manh, tạm bợ.

Tôi từng nói với quý Phật tử, có thể nhịn ăn ba ngày, nhịn khát nửa ngày, nhưng mà nhịn thở vài phút là chết rồi. Thì như vậy mạng sống của mình, từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, bản chất nó vô thường tạm bợ. Mà mấu chốt duy nhất là hơi thở, hít vào không thở ra là chúng ta chết.

Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật hỏi mạng người sống trong bao lâu. Thầy Tỳ-kheo thứ nhất trả lời mạng người sống trong vài ngày. Phật nói ông chưa thấy đạo. Thầy Tỳ-kheo thứ hai nói mạng người sống trong bữa ăn. Phật nói ông cũng chưa thấy đạo. Thầy Tỳ-kheo thứ ba nói, bạch Đức Thế Tôn, mạng người sống trong hơi thở. Phật bảo ông đã thấy được đạo.

Khi quý Phật tử tọa thiền, hít thật sâu, thở thật nhẹ thì mới thấy hơi thở này nó quá mỏng manh, quá vô thường. Buổi sáng ngồi thiền xong, tôi ngồi thả lỏng hết toàn thân, bắt đầu tôi theo dõi tiến trình của hơi thở. Khi theo dõi tiến trình hơi thở thì bao nhiêu phiền muộn cấu nhiễm tự nó rơi rụng hết. Cho nên tôi hay khuyên quý Phật tử là khi làm việc mệt rồi, mình khoan ăn uống gì, mình vào phòng của mình đóng cửa lại để không ai quấy rầy rồi chúng ta ngồi để tâm lặng xuống. Chỗ này không phải chỉ tu Thiền, tu Tịnh hay tu Mật; tu gì làm cũng được. Mình để cho tâm lắng xuống, rồi nhắm mắt lại bắt đầu buông xả toàn thân, nằm dài xuống xem như mình đã chết, không có mặt trong cuộc đời này nữa. Thì lúc này mình lấy lại toàn bộ nguyên khí mà đã tổn thất trong suốt một ngày.

Cho nên quý Phật tử thấy tôi đi giảng dạy rất nhiều, làm việc rất nhiều mà chúng tôi vẫn khỏe. Vì chúng tôi lấy hơi thở làm mạng mạch của đạo lý trong cuộc sống giữa đời thường. Đi đứng nằm ngồi, chúng tôi đều theo sát hơi thở, hơi thở là mạng mạch của sự sống. Hiểu như thế rồi thì quý Phật tử có điểm tựa để vượt qua hết những nghịch cảnh. Cho nên mình mang ơn Đức Thế Tôn tìm ra con đường này, mình lạy Ngài tỷ tỷ lạy cũng chưa đủ.

Buổi sáng thức dậy quý Phật tử đừng vội xuống giường, rất dễ bị đột tử hoặc là tai biến bại liệt luôn. Mình ngồi xoa bóp, rồi hít thật sâu thở thật nhẹ, biết rằng mình còn sống. Chúng ta cám ơn cuộc đời cho mình sống thêm một ngày nữa. Trong một ngày đó chúng ta làm gì để lợi mình, lợi người.

Cho nên Sơ Tổ Trúc Lâm nói:

Số đời một hơi thở,

Lòng người hai biển vàng,

Cung ma dồn quá lắm,

Cõi Phật nào vui hơn.

Số đời chỉ một hơi thở thôi, mà lòng mình, hay nói khác hơn là tâm thức của mình thì giống như hai biển vàng. Khi mình đắm đuối vào sắc dục, vào vật chất quá, thì cung ma dồn quá lắm, cõi Phật nào vui hơn.

Bồ-tát Long Thọ có làm một bài kệ rất hay:

Thế gian biết mấy vô thường,

Bóng trăng, thân chuối giả nương hợp thành.

Phước dù đến tận trời xanh

Gió vô thường đến cũng thành hư vô.

Ngài nói thế gian vô thường. Bóng trăng in dưới nước không có thật. Thân cây chuối mà lột từng bẹ ra thì không còn gì trong đó, giả nương hợp thành, không có lõi. Phước cho dù đến tận trời xanh, khi gió vô thường đến cũng hóa thành hư vô. Thấy được bản chất vô thường rồi bắt đầu chúng ta tu tập.

Trong lần nhập hạ thứ mười tám tại thành Kosana, Phật dạy các đại chúng:

“Đời sống không ổn định, cái chết thì chắc chắn. Chắc chắc rằng tôi sẽ chết.”

Đời sống không ổn định, mỏng manh, vô thường. Hôm nay nhức răng, mai nhức đầu, tứ đại bất hòa liên tục. Mình phải điều hòa bốn con rắn. Hôm nào nhức mỏi, khó chịu quá là mình biết gió hơi nhiều, phải cạo gió. Hôm nào thân mình cảm thấy nặng nề quá là biết đất hơi nhiều, phải giảm ăn một chút.

Một vị Thiền sư bên Miến Điện ngài nói, khi phiền não không thể nào buông được, chỉ cần đọc một câu thần chú tức khắc sẽ buông xả được. Câu thần chú của ngài rất đơn giản: “Tất cả rồi ai cũng phải chết”. Tất cả người thân sẽ chết, mình cũng chết, có đâu mà buồn khổ, có đâu mà phiền hận. Chắc chắn rồi ai cũng phải đi con đường này. Nếu không đi qua con đường này chắc không ai chịu tu. Chúng ta dấn thân vào con đường này để tu học vì biết chắc chắn mình sẽ chết.

“Cái chết sẽ chấm dứt tôi, cuộc đời là vô thường, không ai tránh khỏi cái chết.”

Hồi xưa người ta nói ông Bành Tổ sống 800 tuổi:

Hay như Bành Tổ sống đời,

Tám trăm tuổi thọ, nay thời còn đâu.

Giờ có ai thấy ông Bành Tổ không? Vua Hán Vũ Đế nói người nhân trung dài là người sống thọ. Nghe vậy ông Đông Phương Sóc, là quan đại thần, cười khặc khặc. Vua nói chuyện mà cười là mang tội khi quân, bị chém đầu. Vua Hán Vũ Đế sai quân lính trói ông Đông Phương Sóc lại đem chém đầu. Ông Đông Phương Sóc nói:

– Trước khi bệ hạ chém hạ thần, xin cho hạ thần nói một lời thôi, rồi hạ thần chết cũng được.

– Ông cứ nói.

– Hạ thần nghe bệ hạ nói người nào nhân trung dài là sống thọ. Hạ thần nghĩ ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi, chắc cái mặt ông dài một thước, cái nhân trung dài một khúc. Nghĩ vậy thần mắc cười quá nên thần cười.

Lúc này vua Hán Vũ Đế mới tha tội chết cho Đông Phương Sóc.

“Khi cái chết đến, người không quen quán niệm về sự vô thường và sự chết sẽ ra đi trong đau khổ và sợ hãi.”

Mình không quán niệm liên tục, khi cái chết đến bất thình lình mình rất sợ hãi, rất đau khổ.

“Người quen quán niệm về cái chết và sự vô thường thì bình tĩnh không sợ hãi khi chết đến.”

Ngày nào tôi cũng bỏ ra hai chục phút nằm hít thở, tôi nói tôi chết rồi. Hít thở một lúc, mình biết mình còn sống. Bây giờ bên Thái Lan có dịch vụ trải nghiệm chết thử. Mình nằm dài, thở nhẹ coi như chết, bắt đầu họ đến tẩn liệm mình giống như người chết thật. Xong họ bỏ vô hòm, mướn người đến khóc lóc kể lể đủ điều. Mình nằm trong không gian chật hẹp, tối om trong khoảng vài phút để trải nghiệm những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời. Rồi mình bung dậy hít thở mình biết mình sống. Ra khỏi cái hòm mừng quá, lúc đó tự nhiên bao nhiêu phiền hận ngày xưa mình thấy vụn vặt mình bỏ hết, vì may mắn là còn sống.

Tôi luôn luôn quán niệm về cái chết, mỗi lần lên xe hay máy bay, đến nơi mới biết mình còn sống. Nhờ quán niệm liên tục, nên khi máy bay trục trặc ai cũng hoảng hốt la khóc, tôi bình thường. Tôi ngồi nhiếp niệm theo dõi từng hơi thở. Lên máy bay tôi ít khi cài dây an toàn, vì cài dây an toàn thấy khó chịu. Để tránh tiếp viên nhắc nhở, tôi lấy mền che lại. Nhưng nói thật với quý Phật tử là tôi luôn luôn cài dây an toàn trong suốt cuộc đời, trong từng sát-na của mình. Dây an toàn mình cài mãi trong suốt cuộc đời là:

Không làm các việc ác,

Nên làm các việc lành.

Giữ tâm ý thanh tịnh,

Là lời Chư Phật dạy.

Lên máy bay mới cài dây an toàn là trễ rồi.

Có một ông lái thuyền, trên thuyền có một nhà bác học đi quá giang. Ra giữa biển nhà bác học hỏi:

– Anh lái thuyền bao lâu rồi?

– Tôi lái thuyền ba chục năm rồi.

– Anh có học hải dương học chưa?

– Tôi chưa học.

– Anh đi thuyền mà không học hải dương học, vậy anh mất một phần ba đời người rồi. Anh học chiêm tinh học chưa?

– Tôi chưa học chiêm tinh học.

– Anh mất một phần ba đời người nữa. Anh đi thuyền mà anh học thiên văn học chưa?

– Chưa.

– Vậy là anh mất nửa đời người.

Bỗng nhiên mây mù kéo đến, sấm chớp nổ ì ùng, sóng cuồn cuộn lên. Ông lái thuyền quay qua hỏi:

– Thưa bác học, bác đã từng học bơi lội học chưa?

– Bơi lội học là gì?

– Bơi lội học có nghĩa là khi thuyền chìm thì mình bơi lội vào bờ.

– Chưa, tôi chưa học bao giờ.

– Vậy là ông mất một đời người.

Cũng như mình, học đủ thứ mà không học bơi lội học. Mình nghiên cứu đông tây nam bắc, cái gì mình cũng biết mà tu tập mình không tu, đó là mình mất một đời người. Khi thuyền chìm, anh lái thuyền biết bơi lội học rồi, anh bơi vào bờ anh sống. Còn người lo đủ thứ chuyện mà không học bơi lội, khi chiếc thuyền nó chìm, thân ngũ uẩn nó rã, nó chìm, lúc đó chỉ có bơi lội học mới sống thôi.

Ngài Milarepa nói: “Tôn giáo của tôi là sống và chết không ân hận khi vô thường đến.” Chỉ bao nhiêu đó thôi. Việc cần làm cho gia đình, người thân, cho xã hội mình làm xong, bản thân mình sống hoàn thiện. Không có gì ân hận thì khi vô thường đến mình ra đi nhẹ nhàng.

Vua Trần Thái Tông làm bài kệ:

Vạn sự nước trôi nước,

Trăm năm lòng nhủ lòng.

Vạn sự trôi mãi, nhưng trăm năm lòng nhủ lòng mình phải làm gì cho đừng có ân hận khi vô thường đến.

Một hôm Khổng Tử đứng nhìn dòng sông Dịch Thủy chảy mãi, ngài làm bài kệ:

Thệ giả như tư phù,

Bất xả trú dạ.

Mình đừng học chi nhiều, bao nhiêu đó thôi là tự nhiên mình buông xả nhẹ nhàng. Tôi đã từng làm Phật sự rất là mỏi mệt nhưng khi về tôi đọc:

Thệ giả như tư phù,

Bất xả trú dạ.

Dịch:

Chảy mãi chảy mãi ư,

Ngày đêm không dừng nghỉ.

Buông cái một, không có gì để mà dính mắc nhiều. Những bài pháp của Đức Phật dạy rất hay, rất cặn kẽ. Có những người Mỹ nói người phương Đông có một kho tàng vô giá Đức Thế Tôn truyền trao lại mà không biết. Trong khi người phương Tây chúng tôi mới dò dẫm nắm bắt thôi mà thấy rất vô giá, rất trân trọng.

Đức Phật dạy muốn thoát sự khổ đau khi vô thường đến thì phải thực tập quán niệm:

1 – Mọi người đều phải chết.

2 – Tuổi thọ đang giảm xuống theo thời gian.

3 – Thời gian dùng để tu tập trong cuộc đời này là rất ngắn.

4 – Sống chết không hạn định.

5 – Có nhiều nguyên nhân đưa đến vô thường.

Chẳng hạn một con rắn độc cắn, chết! Một cơn gió độc thổi qua, chết! Một cú tai nạn va chạm, chết!

6 – Cơ thể con người quá mỏng manh.

Nó giống như cái bong bóng nước vậy, đụng vô là bể, không có gì bảo đảm.

7 – Tài sản và thú vui không thể giúp ta.

8 – Người thân của ta không giúp được ta.

9 – Cơ thể của ta cũng không giúp được gì.

Đó là những điều mà bản chất vô thường đem đến. Bài pháp giúp quý Phật tử có cái nhìn chánh kiến, để vui với cuộc sống. Chúng ta làm mà không trụ tướng, từ đó chúng ta vươn lên. Trong cái vô thường mỏng manh tạm bợ này, còn có một cái thường hằng vĩnh cửu. Nhờ vô thường mà đứa con mình lớn lên, trưởng thành. Nhờ vô thường nên khi gieo xuống một hạt lúa mì, chúng ta có bánh mì ăn. Khi quý Phật tử bị một vết thương lở loét làm mủ, nếu không có vô thường thì vết thương không lành. Cũng nhờ vô thường mà bây giờ mình biết tu, mình bớt tham bớt sân hơn ngày xưa. Nhờ vô thường mà phiền não khổ đau theo thời gian chấm dứt. Nhờ vô thường mà chúng ta tu tập từ phàm phu tiến lên con đường thánh quả. Nhờ vô thường mà có một lúc nào đó chúng ta thành Phật tác Tổ. Mọi cái đều nhờ vô thường. Như vậy chúng ta phải cảm ơn vô thường.

Một vị Thiền sư nói: “Cảm ơn cuộc đời đem đến sự vô thường cho tôi mà ngày hôm nay tôi mới trưởng thành đứng lên.” Mỗi người chúng ta đều phải cảm ơn vô thường. Vô thường này không phải Đức Phật nói mà vạn pháp đồng nói lên: “Tất cả đều là vô thường.”

Chúng ta đã học sự vô thường của thân. Đức Phật dạy thân này mỏng manh, tạm bợ, dễ bị bể bị vụn, đi đến con đường hoại diệt. Với cặp mắt của Đức Phật, hay với những người có công phu tu tập, tâm cũng vô thường.

Chẳng hạn sáng nay mình định đến chùa Phổ Bảo tụng kinh Pháp Hoa, thì có người rủ đi siêu thị, hôm nay có một món đồ giảm giá, từ một trăm euro hạ xuống còn có mười euro. Mình nghĩ chủ nhật này không tụng thì chủ nhật sau tụng, mình đổi ý đi mua đồ, không đi chùa tụng kinh Pháp Hoa. Rõ ràng bản chất cái tâm là vô thường, nhưng đa phần là mình muốn người ta lúc nào cũng phải theo ý mình, mà không biết rằng cái tâm mình mai nghĩ thế này, mốt nghĩ thế nọ.

Có cô Phật tử khi người thân không sống với cô nữa, cô buồn khổ định quyên sinh. Khi chuẩn bị tìm đến cái chết, nhìn lên trang thờ Phật, cô thấy bó hoa hôm kia cô cắm rất là tươi xanh mà bây giờ héo úa. Chồng cô cũng vậy, ngày xưa rất là thương yêu cô, sống với nhau một thời gian thì bây giờ tâm cũng vô thường, tại sao mình muốn lúc nào tâm người ta cũng đứng yên một chỗ. Khi hiểu ra tự nhiên cô hết khổ.

Người mà không biết tu thì luôn luôn chạy theo những tâm niệm. Người lớn tuổi ít khi nghĩ đến tương lai mà hay nhớ về quá khứ. Chẳng hạn nhớ quá khứ ở Việt Nam mình đang làm ăn giàu có, bây giờ qua đây sự nghiệp không bằng như ngày xưa nữa. Tôi có quen một người, ngày xưa ở Việt Nam anh làm bác sĩ, nhưng khi qua Canada anh phải thi lại, thi ba bốn năm mà cũng không đậu. Cuối cùng anh phải thi vào ngành y tá. Anh nói nếu không biết Phật pháp chắc sống không được. Nhờ biết Phật pháp nên anh không nghĩ đến chuyện quá khứ nữa.

Khi qua Bỉ, tôi có đến thăm nhà dưỡng lão. Họ được lo rất đầy đủ, từ ăn uống, vệ sinh cá nhân, tất cả là đều có bác sĩ, y tá, người ta lo hết. Mà chiều lại khoảng chừng bốn năm giờ, nhất là vào mùa đông, mấy bà cụ ra ngồi trên ghế nhìn xa xăm. Tôi đến chia sẻ, tôi nói sao bà nhìn xa xăm buồn vậy? Bà nói bây giờ bà rất nhớ nhà, nhớ con, nhớ cháu, nhớ ngày xưa ở đâu, ở đâu…

Thiền sư Bạch Ẩn nói cọp beo chó sói không sợ bằng vọng tưởng dẫn dắt mình đi. Chính vọng tưởng này dẫn dắt mình đi trong từng hơi thở, trong từng dòng sinh mạng của mình. Nó lôi dẫn mình, mình đắm đuối rồi chết chìm trong đó. Bên Mỹ họ kể câu chuyện, có hai người khám bệnh cùng một lúc, họ đều bị ung thư bao tử. Bác sĩ nói khoảng chừng một hai tháng sẽ chết. Người thứ nhất về khoảng chừng nửa tháng sau là chết. Người thứ hai về họ thấy con còn nhỏ quá, họ tìm cách nào đó để sống còn, họ buông xả không lo sợ. Rồi họ tìm đến những đạo tràng tu tập về con đường thiền, bắt đầu họ tu tập. Một thời gian sau khám lại, bệnh không còn nữa.

Bản chất của tâm mình là vô thường. Có nhiều lúc mình nói, ở nhà tu cũng được, nhưng mà tu với tu tâm vô thường, mình suy nghĩ lung tung hết. Chẳng hạn sáng nay mình phiền não, nếu tâm đó là tâm của mình thì trưa nó phiền não, chiều nó phiền não. Nhưng sáng nó phiền não, trưa chiều có chuyện gì vui thì nó hết. Như vậy cái tâm này đắp đổi, sanh diệt vô thường, mà chúng ta luôn luôn sống với cái tâm đó. Do chúng ta luôn luôn sống với cái tâm vọng tưởng điên đảo, cho nên Đức Phật đưa ra rất nhiều phương tiện thiện xảo, lập bày ra các pháp môn để cho mình tu tập trở về bản thể, trở về cảnh giới thực tại. Người tu Tịnh thì trụ vào tiếng niệm Phật, người tu tập về con đường Thiền thì biết vọng không chạy theo, không đắm đuối nó.

Phương pháp nào cũng bắt buộc mình trở về cảnh giới thực tại soi lại chính mình, không rong ruổi trên pháp trần mà đắm đuối. Có những lúc chúng ta thổn thức khóc, đó là cái dòng tương tục từ quá khứ lôi về, mình nhớ chồng nhớ con, nhớ đủ thứ chuyện. Quá khứ qua rồi mà chúng ta luôn đắm đuối chết chìm trong dòng sông quá khứ. Còn người trẻ tuổi thì vọng đến tương lai.

Cho nên vua Ba Tư Nặc hỏi Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, tại sao các thầy Tỳ-kheo ăn ngày một bữa mà sắc diện rất là thù diệu, còn tụi con ăn rất là nhiều, một ngày ăn ba bốn lần luôn mà sắc diện lúc nào cũng khô héo.

Đức Thế Tôn nói:

– Do nhớ về quá khứ, vọng đến tương lai mà không an trú trong giờ phút thực tại. Giống như cây mà chặt lìa cành thì phải khô héo.

Phương pháp tu thiền là để chuyển hóa, không theo những vọng tưởng điên đảo đó.

Sơ tổ Trúc Lâm khi xuống núi có ông tăng hỏi Ngài:

– Thưa tôn giả, Ngài chứng được mấy thông?

Ngài khẳng định:

– Sáu thông.

Ông tăng nói:

– Năm thông kia gác qua. Thế nào là tha tâm thông?

Tha tâm thông là chẳng hạn người ngồi đối diện với mình suy nghĩ gì mình biết hết, đó gọi là tha tâm thông. Nhưng tha tâm thông của nhà Thiền là gì? “Đầy cả quốc độ, có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết, Như Lai đều thấy.”

Quốc độ là quốc độ ở đâu? Là ngay nơi thân năm uẩn của quý Phật tử, quán chiếu soi lại thấy rõ rằng tất cả các thứ tâm: Tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm tật đố, tâm ích kỷ, tâm bỏn xẻn, thấy hết. Khi thấy được tâm tham thì mình không tham nữa. Thấy được bản chất của sân thì không còn sân nữa. Sở dĩ chúng ta chạy theo lòng tham, lòng sân vì chúng ta không thấy bản chất của nó. Khi chúng ta ngồi thiền chiếu rọi vào bên trong, thấy rõ bản chất của nó rồi thì chúng ta vượt thoát, không dính mắc nữa, chúng ta hết khổ.

Khi chúng ta ngồi yên lại bắt đầu vọng tưởng điên đảo dấy lên, ngày xưa mình đắm đuối chạy theo, bây giờ mình biết vọng tưởng không có thật, mình chỉ nhìn ngắm nó, giống như nhìn ngắm dòng sông. Mình ngồi trên bờ sông mình thấy rác rưởi trôi xuống, nhìn ngắm rõ ràng, nhưng mình không vớt rác đó lên, cũng không chận đứng dòng rác tức là mình biết tu tập.

Chẳng hạn lâu lâu mình đi du lịch đến một vùng xa, ngủ ở khách sạn một đêm, sáng mai mình đi. Nhưng ông chủ khách sạn vẫn ở yên đó, ông thấy khách đến biết khách đến, khách đi biết khách đi. Bao nhiêu khách ông biết hết, biết mà bất động. Cũng vậy, khi chúng ta ngồi thiền hoặc ngồi niệm Phật, chúng ta thấy tất cả vọng tưởng dấy lên: nhớ nhà, nhớ chồng, nhớ con…, mà chúng ta duyên theo thì sẽ sanh ra những tâm thương ghét, buồn khổ. Chúng không đem đến hạnh phúc vĩnh cửu ngay nơi thân năm uẩn của mình.

Như vậy tất cả các pháp môn bắt buộc mình ngồi yên lại để lắng tâm, để nhìn lại bản chất của tâm vô thường này. Nhận rõ được bản chất tâm vô thường thì chúng ta không chạy theo. Nhiều khi ý kiến mình không đúng, mà mình cố chấp cho là đúng. Thấy được bản chất tâm là vô thường, tạm bợ, mỏng manh như sương như khói, nhưng cái gì thấu thoát được cái tâm vô thường đó, là vấn đề chúng ta phải tu học.

Trong pháp hội của Thiền sư Bạch Ẩn, thiền sinh ngồi thiền rất trang nghiêm. Một hôm anh bán đậu hũ đi ngang qua, nhìn người ta ngồi thiền trang nghiêm bất động, anh thấy hay hay nên đến thưa với Thiền sư:

– Bạch Hòa Thượng, con không hiểu sao những vị tăng và cư sĩ ở đây lại ngồi yên bất động.

Thiền sư Bạch Ẩn nói:

– Đó là đang ngồi thiền.

– Ngồi thiền để làm gì?

– Sáng mai con đến ngồi. Con sẽ biết.

Sáng hôm sau anh nghỉ bán đậu hũ, anh đến xin ngồi thiền. Ngồi chừng nửa tiếng bỗng anh la lên: “Tôi thấy rồi, tôi nhớ rồi.” Mọi người tưởng anh ngộ đạo. Sau khi xả thiền, Thiền sư Bạch Ẩn nói:

– Này anh bán đậu hũ, việc của anh là rất hy hữu. Hồi nãy anh ngồi anh thấy cái gì?

– Dạ con ngồi con nhớ lại bà Bảy mua chịu hai trăm ngàn đậu hũ. Hai năm rồi bà chưa trả, mà con cũng quên. Con ngồi thiền bỗng nhiên nhớ lại.

Một người đang ngồi thiền mà nói tôi thấy rồi tức là ngộ một cái gì đó, ngộ này tùy theo mức độ sâu và cạn. Quý Phật tử ngồi thiền cũng vậy. Tự nhiên mình nhớ lại chuyện năm trên năm dưới. Mà nhớ đó là cái gì? Đó là vọng tưởng, là những hạt giống nằm ẩn trong tâm rất là sâu.

Khi một ly nước để yên thì tất cả những cấu bợn lắng xuống hết và nước trong. Sở dĩ chúng ta thấy từng ngõ ngách của những hạt giống vì cái tâm mình trong, phẳng lặng, gọi là đại viên cảnh trí, soi chiếu hết tất cả những hạt giống xấu ác. Khi biết rõ những hạt giống xấu ác này là của mình, tự nhiên mình lùi một bước. Người nào càng tu học mà càng chấp ngã là chưa thấy được bản chất của tâm. Thấy được bản chất của tâm tự nhiên mình lùi một bước, có chỗ đứng.

Cho nên các vị Thiền sư đi rất là thong thả, tự tại an ổn, vì các Ngài thấy được bản chất của những hạt giống xấu ác. Để thấy rõ bản chất của những hạt giống xấu ác, bắt buộc mình phải ngồi yên để cho tâm mình lắng đọng, đó là phương pháp tu tập cốt tủy của nhà thiền, cốt tủy của đạo Phật. Chứ đừng bắt chước như anh bán đậu hũ, nhớ những hiện tượng đó rồi chạy theo, hoặc đắm đuối hoặc khóc cười, hoặc là ta thán.

Trong kinh A-hàm, Đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo:

Đừng tìm về quá khứ,

Đừng tưởng đến tương lai.

Quá khứ thì không còn,

Tương lai thì chưa đến.

Hãy quán chiếu sự sống,

Trong giờ phút hiện tại.

Quý Phật tử có quán chiếu sự sống chưa? Khi đi kinh hành, tản bộ, chúng ta thấy được sự sống chung quanh ta, nó không có trốn chạy đâu hết. Với cặp mắt Bát-nhã, chúng ta chiếu kiến vào năm thủ uẩn của mình và thấy rõ rằng năm dòng sông biến chuyển. Sắc thọ tưởng hành thức liên tục sanh diệt, liên tục biến đổi, và quán chiếu được sanh, già, bệnh chết. Tất cả những hiện tượng này không qua cặp mắt của người giác ngộ. Khi quán chiếu được sự sống trong giờ phút thực tại này rồi, quý Phật tử mới cám ơn cuộc đời cho quý Phật tử sống thêm một ngày nữa. Sống thêm một ngày thì chúng ta phải làm thế nào để đem lại sự an ổn, hạnh phúc cho người thân, trong gia đình mình. Đó là quý Phật tử biết quán chiếu sự sống. Mà sự sống ngày hôm nay chỉ có mặt trong giờ phút thực tại chứ không để mai sau. Đó là tinh thần của nhà Thiền.

Hôm nào đang đi bách bộ, mình lắng tâm lại không có vọng tưởng, không suy nghĩ gì hết, bỗng nghe một cơn gió thổi qua, nghe tiếng chim, dế gáy, nghe hết tất cả, nghe mà chúng ta không ở trên tướng sanh tâm, đó là sự sống. Sự sống luôn luôn hiển lộ, hiển bày hết tất cả. Những dòng sinh mệnh từ quá khứ và tương lai chỉ có mặt trong giờ phút thực tại. Quý Phật tử an trú trong giờ phút thực tại thì mình thấu suốt được quá khứ và tương lai, và khi đó thì mình biết mình phải làm gì. Chẳng hạn như một đứa học sinh chỉ cần chăm chú học trong giờ phút thực tại thôi thì tương lai sẽ thành đạt. Tương lai thành đạt thì quá khứ có mặt trong giờ phút đó luôn, tức là ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Cũng giống như kinh Kim Cang nói ba tâm. Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, ba tâm đó bây giờ mình điểm tâm nào? Bản chất của ba tâm là vô thường, thì cái gì thấy suốt được ba tâm đó? Cho nên nói:

Hãy quán chiếu sự sống,

Trong giờ phút hiện tại.

Kẻ thức giả an trú,

Vững chãi và thảnh thơi.

Phải tinh tiến hôm nay,

Kẻo ngày mai không kịp.

Cái chết đến bất ngờ,

Không thể nào mặc cả.

Người nào biết an trú,

Đêm ngày trong chánh niệm,

Thì Mâu Ni gọi là

Người biết sống một mình.

Chẳng hạn bây giờ ở đây rất đông người mà mình sống chánh niệm, tỉnh thức tức là biết sống một mình. Còn nếu quý Phật tử ở một mình, trong thất hay trong rừng mà vọng tưởng đủ thứ chuyện, tức là mình sống với số đông. Người biết sống một mình ở đây không phải trốn tránh đâu hết, mà sống giữa cộng đồng, giữa con người nhưng chúng ta không duyên về quá khứ, không tưởng đến tương lai.

Vạn Pháp Vô Thường

Vạn pháp vô thường thì quý Phật tử biết rồi. Chẳng hạn có những gốc cây cổ thụ rất lớn, dầu cho mấy trăm năm, mấy ngàn năm thì đến một lúc nào đó nó cũng hoại diệt. Ngài Hàn Sơn nói rất kỹ:

Mỗi sáng hoa héo rụng,

Trăm năm người đổi dời,

Hôm nay là cồn bãi,

Khi xưa là biển khơi.

Ngày xưa là biển khơi, bây giờ là cồn bãi, tức là vạn pháp biến dịch, vô thường.

2 – Pháp ấn thứ hai: Khổ

Tướng sanh

Ngày sinh nhật là ngày mừng mình sanh ra. Tại sao mình phải ăn mừng khi sanh ra? Tại sao khi một người con ra đời, mình làm cái lễ gọi là mừng sinh nhật. Mà tại sao khi người thân mất mình không mừng ngày tử? Theo tinh thần của nhà Phật, mà bây giờ khoa học cũng chứng minh, thần thức khi gá vào bào thai thì không phải là chuyện sung sướng. Khi mang hình hài của một đứa bé, người mẹ mà ăn đồ nóng, đồ cay, theo như Đức Phật diễn tả trong Kinh, thì đứa bé giống như bị trăm ngàn mũi kim, mũi dao đâm vào người. Người mẹ ăn thức ăn cay nồng thì đứa con giống như ở trong ngọn núi lửa. Khi người mẹ uống những thức uống nghịch lại sự thọ nhận của đứa con thì nó cảm thấy giống như hai hòn núi ép vào người, rất là thống khổ. Ở trong bụng mẹ thì tối thui, cho nên Đức Phật nói sanh tức là khổ, một trong bốn cái khổ của con người: Sanh, già, bệnh, chết.

Có những người sợ thế giới này quá, những vị A-la-hán tu nhập Niết-bàn rồi các ngài không bao giờ xuống cõi này nữa, có lý do. Nhưng mà với cặp mắt giác ngộ của nhà Phật, khi Đức Thế Tôn phát nguyện xuống cõi này, Ngài vào trong một cung điện ở cung trời Đâu Suất nhập định, nhưng Ngài đã xuống nhập vào bào thai. Trong bào thai của Phật Mẫu Ma Gia thì cung điện của trời Đế Thích cũng không bằng. Khi một vị Bồ-tát gọi là nhất sanh bổ xứ xuống cõi Ta-bà này, thì vào ở trong bào thai mẹ không phải giống như người thường.

Ôn Như Hầu có bài thơ:

Thảo nào khi mới chôn nhau,

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,

Ai bày trò bãi bể nương dâu.

Trắng răng đến thuở bạc đầu.

Tử sinh, kinh cụ làm nao mấy lần.

Khi một đứa bé sanh ra đời, nó mang tiếng khóc chào đời trước, đó là sự thống khổ đằng đẵng những thời gian kế tiếp nữa. “Khóc vì nỗi thiết tha sự thế, ai bày trò bãi bể nương dâu”. Ai bày ra? Chính mình bày ra, rồi từ cái nghiệp bắt đầu lưu chuyển gọi là “hoặc” nghiệp và khổ. “Hoặc” là mê lầm, mình bày tức là tạo nghiệp. Khi mê lầm mình tạo nghiệp thì bắt đầu cái khổ đến. Có những người do mê lầm tạo nghiệp xấu ác nên sanh ra hình hài không đầy đủ. Có những người sanh ra trong một gia đình nghèo khổ thiếu thốn. Mình bày ra thì bây giờ mình thọ nhận, chịu khổ. “Trắng răng đến thuở bạc đầu”, tức là từ khi sanh ra, lớn lên, già đến khi bạc đầu. “Tử sinh, kinh cụ làm nao mấy lần”. Tử là chết, sinh là sống, kinh cụ tức là sợ hãi. Từ cái sống, từ cái chết, từ cái sợ hãi mà trôi mãi luôn, đó gọi là sanh khổ.

Cho nên vua Trần Thái Tông nói: “Vì sai một niệm nên hiện đa đoan”. Tức là bất giác, sai chỉ một niệm thôi mà hiện đa đoan, nào cảnh núi, sông, rừng rú, con người hình thành nên. Chánh báo mình không tốt thì thọ nhận cái y báo cũng không tốt. Ngày hôm nay quý Phật tử sống trên một đất nước phồn thịnh đầy đủ, đó là chánh báo quý Phật tử tốt, nên cái y báo tốt theo. May mắn một điều nữa là quý Phật tử biết tu. Sai một niệm, nhưng nhờ túc duyên ngày xưa đã từng có tu rồi, nên bây giờ mình gặp Phật pháp.

Còn nếu không gặp Phật pháp thì nó hiện đa đoan. Đa đoan là gì? Chẳng hạn như có những lúc người thân bỗng nhiên không ở với mình nữa, họ từ giã. Mà nếu mình không tu tập là thấy nỗi khổ.

Đức Phật nói nỗi khổ thứ nhất đến mà không biết tu học thì có trăm ngàn nỗi khổ cùng một lúc đến. Đức Phật khẳng định có thương tức là có khổ. Mà trên đời này có ai nói không thương? Quý thầy đi tu có tình thương không? Có tình thương chứ, nhưng mà tình thương đó không dính mắc. Thương chúng sanh, làm hết tất cả vì chúng sanh. Đức Phật cũng vì chúng sanh, nhưng chúng sanh đó không có làm Đức Phật khổ, bởi vì Đức Phật không có dính mắc. Cho nên cái thương của chúng sanh, cái thương dính mắc gọi là cái ái, ái ngã, ái thân.

Vì sai một niệm nên hiện đa đoan,

Gá hình hài nơi tinh huyết mẹ cha,

Nương khí âm dương dưỡng nuôi thai nghén.

Chẳng luận kẻ trí người ngu,

Đều thuộc bào thai bao bọc.

Hỏi chi một người,

Trăm họ đều trong lò bễ mà ra.

Các vị vua đời nhà Trần, vị nào cũng rất là hiểu đạo. Trăm người cũng từ cái lò bễ mà ra. Có ai từ hòn đá ra không? Tôn Ngộ Không phải không? Quý Phật tử thấy có Tôn Ngộ Không từ hòn đá chui ra không? Ông Ngô Thừa Ân rất là siêu, từ cái hòn đá chui ra có nghĩa là từ trong bản thể mà quên, cho nên một niệm khởi mà sanh ra. Rồi từ một niệm khởi sanh ra, lên xuống địa ngục, đi dài mãi, cuối cùng bị năm ngọn núi, tức là sắc, thọ, tưởng, hành thức nhốt, rồi vùng vẫy muốn ra khỏi mấy ngọn núi này. Cho nên trong phim, Tôn giả Ca-diếp và A-nan đến trình Đức Thế Tôn, con khỉ bị nhốt nó vùng vẫy lắm. Đức Phật đưa một lá bùa dán lên.

Chúng ta muốn thoát khỏi cái lồng sắt ngũ uẩn này lắm. Chúng ta muốn vùng vẫy đi lên, mà vì bị lá bùa vô minh che lấp đi cái bản thể, mất đi cái sáng suốt. Bây giờ muốn thoát ra khỏi cái lồng sắt ngũ uẩn này thì phải có một người gỡ lá bùa. Ai gỡ được? Tam Tạng. Tức là chúng ta phải đi qua con đường kinh, luật và luận, và phải đi suốt qua con đường của Giới-Định-Tuệ.

Kệ rằng:

Trời đất nấu nung vạn tượng thành,

Xưa nay không mống cũng không manh.

Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,

Liền trái vô sanh nhận có sanh.

Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,

Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai.

Lang thang làm khách phong trần mãi,

Ngày cách quê hương muôn dặm đường.

Mũi đắm các hương là gì? Chẳng hạn đi qua tiệm bán bánh hay bán thức ăn gì có mùi thơm thì mình hít thật sâu. Mà mùi nào thúi thúi dơ dơ thì mình khó chịu, là cái mũi đắm các hương. Lưỡi tham vị, hôm nay ăn mà không có ớt khó ăn lắm, phải tìm trái ớt! Hôm nay ăn mà không có chanh cũng khó ăn lắm, phải tìm trái chanh! Quý Phật tử ăn chay còn đỡ, khi chưa biết ăn chay phải đủ trăm vị mình mới chịu.

Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai, tức là mắt thấy sắc mình sanh tâm, tai nghe nhạc hay mình mới chịu. Cho nên lang thang làm khách phong trần mãi. Ngày cách quê hương muôn dặm đường.

Tướng già

Quý Phật tử thấy già khổ hay sướng? Tại sao khổ? Bởi vì ngồi chút xíu lưng đau, thức ăn cứng ăn không được. Rồi trái gió trở trời, trời đang nóng đột ngột lạnh cũng bệnh. Rồi cảm, sổ mũi, nhức đầu, cái thân này phải nói là quá cực!

Cho nên trong kinh Tương Ưng Bộ, Phật dạy:

Này các Tỳ-kheo! Thế nào gọi là sắc? Này các Tỳ-kheo! Bị thay đổi nên gọi là sắc. Bị thay đổi cái gì? Bị thay đổi: bệnh, lạnh, nóng, đói khát, bởi sự xúc chạm ruồi, muỗi, nắng, gió.”

Nhìn quý Phật tử, chúng tôi không đoán được tuổi là nhờ khí hậu ở đây tốt, cuộc sống yên ả. Còn những vùng nắng gió như châu Phi, hoặc như quê hương tôi Ninh Thuận, nắng khủng khiếp, người 30 tuổi nhìn tưởng 60 tuổi, bị nắng đốt cháy luôn. Già xuống sắc rất là nhanh, vì lạnh, vì nóng, vì đói khát thiếu thốn. Có người ở Việt Nam mới qua chừng bốn chục ký thôi, mà bây giờ bảy chục ký. Vì có cái gì? Bơ, sữa, phô mai … Tứ đại bên ngoài đầy đủ bồi bổ tứ đại bên trong. Còn có những vùng thiếu thốn, đói khát, như ở châu Phi có những người chỉ còn bộ xương. Đói khát làm thay đổi hình hài. Thay đổi còn bởi xúc chạm ruồi muỗi. Có những vùng như Đồng Tháp, ăn cơm tối người ta phải bỏ mùng vì muỗi nhiều quá.

Kinh Tương Ưng Bộ, phẩm Về Già:

Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi tại khu Napatta trong lâu đài của mẹ Migara. Lúc bấy giờ vào buổi chiều, Thế Tôn từ chỗ độc cư đứng dậy ngồi sưởi ấm lưng trong ánh nắng phương tây. Rồi tôn giả A-nan đi đến, sau khi đảnh lễ, xoa bóp chân tay cho Thế Tôn, rồi mới bạch rằng:

– Bạch Thế Tôn, thật là kinh hoàng, thật là kỳ dị, màu da Thế Tôn nay không còn trong sáng, chân tay rã rời nhăn nheo. Thân được thấy còm về phía trước, các căn đang bị đổi khác, nhàu nhỉ.”

Khi Đức Phật sanh ra đời, thân tướng màu hoàng kim sáng rực. Sáng đến mức độ những vị thầy tướng số nhìn phải giật mình. Tôi đã từng xoa bóp, bấm huyệt Sư ông của chúng tôi. Ngày xưa tôi ở Thường Chiếu một thời gian, lên Trúc Lâm năm 1998. Tôi còn nhớ khi Sư ông bị bệnh hay bị cảm, tôi lên bấm huyệt, lúc đó Sư ông còn khỏe lắm, tôi bấm vào thấy da Sư ông còn căng, không nhăn nheo. Gần đây tôi về lại, mười bảy năm trôi qua, tôi bấm huyệt cho Sư ông, tôi rờ thấy da nhăn nheo, màu da bắt đầu tối sậm lại. Và thân của Sư ông không thẳng như ngày xưa nữa, mà khòm về phía trước một chút. Đức Phật cũng vậy, cũng là hình hài của một kiếp người đi vào cõi nhân gian này, Ngài cũng phải bị chi phối bởi sanh, già, bệnh, chết.

Có một anh ở Châu Đốc lên xin xuất gia. Xuất gia khoảng bốn năm, bữa đó Tri sự phân công tôi với ông thầy đó sửa nhà vệ sinh cho Sư ông. Ông nói một câu mà tôi sửng sốt:

– Ủa thầy, Hòa thượng mà cũng đi vệ sinh nữa?

Tôi nói:

– Trời ơi ông có đọc bốn bộ kinh A-hàm của Đức Phật không vậy? Trong đó có câu chuyện tôn giả La-hầu-la vào trong nhà vệ sinh của Đức Thế Tôn ngủ qua một đêm. Ông không nhớ, không xem sao?

Ông nói:

– Con chưa có đọc.

Mình cứ nghĩ người nào tu thì không có bệnh, không có già, không có chết. Với cặp mắt của Đức Thế Tôn Ngài chỉ dạy, tất cả mọi con người chúng ta đều đi qua khổ ải của sanh, già, bệnh và chết, kể cả Đức Thế Tôn.

– Sự thể là như vậy, này A-nan, tánh già nằm trong tuổi trẻ.

Tánh già đã nằm trong tuổi trẻ. Khi quý Phật tử sanh ra một đứa con, hoặc con mình sanh ra đứa cháu, với cặp mắt giác ngộ của tánh Bát-nhã, trong bàn tay đứa bé có mình, có cha mẹ, có dòng tộc mình. Khi một chiếc lá nằm trên thân cây, cặp mắt của người giác ngộ thấy màu xanh là sự úa vàng cho mùa thu đến. Họ thấy liền chứ không phải đợi đến mùa thu. Họ quán chiếu nhanh đến mức độ như vậy. Mình biết tánh già nằm trong tuổi trẻ thì mình không ngạo mạn. Ra đường gặp bà cụ nào đi run rẩy mình không đứng nhìn cười, mà biết rằng sẽ có lúc mình giống như bà cụ đó.

Khi tôn giả Xá-lợi-phất về quê, Ngài muốn người em út, là tôn giả Ly-bà-đa lúc đó mới có bảy tuổi, đi xuất gia mà không biết cách nào. Mẹ Ngài lo lắng, sợ Ngài rủ em đi xuất gia nữa, bà tức tốc tổ chức đám cưới cho con trai út với cô dâu mười ba tuổi. Bà ngoại của cô dâu, khi ấy 110 tuổi, bước ra để đeo nhẫn cho cô dâu. Nhìn thấy lưng bà còng, da mặt nhăn nheo, tôn giả Ly-bà-đa giật mình. Ngài nói trong tâm: “Người vợ xinh đẹp yêu quý của mình cuối cùng rồi cũng như bà ngoại.” Người có túc duyên họ nhìn thấu suốt liền. Ngài tìm cách trốn vào rừng tu tập, trong ba tháng chứng quả vị A-la-hán.

Tánh bệnh ở trong sức khỏe.

Cái bệnh nằm trong sức khỏe. Bây giờ bác sĩ nói trong thân của ai cũng có những chứng bệnh: Bệnh lao, bệnh ung thư, bệnh gì cũng có. Kháng thể mạnh thì mình luớt qua được. Khi kháng thể không còn thì mầm mống bệnh đến.

Tánh chết nằm trong sự sống.

Cặp mặt giác ngộ của Đức Phật thấy nó nằm sẵn hết. Thế Tôn lại dạy thêm:

Bất hạnh thay cho tuổi già, đáng sợ thay cho cuộc sống. Tuổi già làm phai nhạt sắc diện của màu da. Hình bóng ngày xưa khả ái, nay già đã phá tan. Ai sống được trăm tuổi, cuối cùng cũng phải chết, không bỏ sót một ai. Tất cả bị phá sạch, này A-nanda!”

Phật dạy rất kỹ, mình coi những bài kinh này rồi phải nói là rất thấm cho cuộc sống hiện tại của mình.

Vua Trần Thái Tông nói tiếp:

Hình dung thay đổi, khí huyết đã suy, dáng gầy tuổi cao, ăn uống hay sặc thường nghẹn. Tóc xanh má đỏ đổi thành tóc bạc da gà, ngựa trúc áo hoa lại thành gậy cưu xe cói.

Xưa ai sống 80 tuổi vua ban cho cây gậy.

Dẫu rằng mắt sáng như Ly Lâu cũng khó phân rành màu sắc; dù cho tai thính như Sư Khoáng cũng không nhận rõ âm thanh.

Ông Ly Lâu mắt rất sáng, chẳng hạn như canh tối ông cũng phân biệt màu sắc này, màu sắc kia nhưng về già cũng không nhìn rõ. Ông Sư Khoáng lỗ tai rất thính nhưng về già cũng nghe không được.

Tiều tụy như cây liễu lúc thu về, điêu linh như đóa hoa khi xuân hết. Bóng chiều vừa ng non tây, dòng nước sắp chảy về biển đông.”

Kệ rằng:

Con người kiếp sống tợ phù âu.

Thọ yểu người trời chớ vọng cầu.

Bóng ngã nương dâu, chiều sắp đến,

Thân như bồ liễu tạm qua thu.

Phan Lang thuở nọ còn xanh tóc,

Lữ Vọng ngày nay đã bạc đầu.

Cuồn cuộn việc đời thôi chẳng đoái.

Vầng ô gác núi nước trôi xuôi.

Ngài nói kiếp sống của con người tợ phù âu, mỏng manh tạm bợ vô thường.

Tướng bệnh

Tức là bệnh khổ. Có khi nào nhức răng mà thấy hạnh phúc không? Nhức răng, nhức đầu, nhức mắt, mỏi gối tê chân, khí huyết đảo lộn, không ai thấy hạnh phúc hết, đó là bệnh khổ.

Vua Trần Thái Tông nói:

“Tuổi đã già khọm, bệnh đến cao hoang. Chân tay mỏi mệt, mạch lạc khó thông. Trăm lóng rã rời, nóng lạnh chẳng thuận. Tan mất tánh chơn thường, sai lệch nguồn điều sướng. Ngồi đứng khó khăn, co duỗi đau đớn. Mạng dường ngọn đèn trước gió, thân như hòn bọt trên sông. Tâm sanh bóng quỉ lô nhô, mắt thấy không hoa lốm đốm. Hình hài gầy yếu, ai là Biển Thước thuốc thang, thân thể hao mòn, nào kẻ Lư Nhân cứu chữa.”

Dầu cho Hoa Đà Biển Thước ra đời cũng không cứu được mình. Khi thân này hết sức rồi thì bệnh khổ đến, giống như cây thông hết nhựa thì cây sẽ chết.

Bài kệ vua Trần Thái Tông dạy:

Âm dương trái vận vốn xoay vần,

Gieo rắc tai ương đến thế nhân.

Đại để có thân thì có bệnh,

Ví rằng không bệnh cũng không thân.

Tức là ngày, đêm, năm tháng xoay vần qua mãi. Xoay vần thì tuổi già đến, bắt đầu bệnh cũng đến. Ngày xưa khoảng chừng hai mươi mấy tuổi sức khỏe của tôi nói thiệt là không ai bằng. Nhưng năm nay tôi bốn mươi sáu rồi, đi xe khoảng chừng năm sáu trăm cây số chịu không nổi. Ngày xưa đi xa một ngàn cây số không có sao hết. Ở đây tôi thấy quý Phật tử sáu bảy chục tuổi mà đi xe tôi nể, tức là cũng có sức khỏe dồi dào đó, ăn uống còn thấy ngon, đó là cái phước của mình. Phật dạy có thân tức là có bệnh. Bây giờ muốn không bệnh thì đừng có thân này.

Lão Tử nói: “Sở dĩ ta có họa lớn vì ta có thân, nếu ta không có thân thì không có họa đến.”

Linh đơn chớ cậy trường sanh thuật,

Lương dược khó mong được sống bền.

Sớm nguyện xa lìa ma cảnh giới,

Xoay tâm về đạo, dưỡng thiên chân.

Ở đây nói dầu cho linh đơn, giống như Tần Thủy Hoàng, ông sai người tìm linh đơn trường sanh cho ông, cuối cùng ông cũng chết. Vua nhà Đường, tức là Lý Thế Dân, cũng tìm thuốc luyện linh đơn, nhưng rốt cuộc ông cũng chết. Muốn không chết phải làm gì? Xoay tâm về đạo để mà dưỡng thiên chân. Muốn không chết là phải trở về cảnh giới vô niệm, tức là thể nhập Phật tâm của mình, thì tức khắc mình ở trong cái vĩnh cửu hạnh phúc.

Tướng chết

“Bệnh càng trầm trọng, mạng sắp cáo chung. Tuổi thọ mong hưởng trăm năm, thân thể trở thành giấc mộng. Thông minh trí tuệ khó trốn ngày đại hạn sắp sang. Sức mạnh oai hùng đâu chống được khi vô thường đã đến.”

Chẳng hạn như ông Hạng Võ cử đỉnh, Từ Hải ra trận một mình đánh cả trăm người nhưng cuối cùng rồi cũng phải chết.

“Thiếp thuận vợ trinh trở thành đau thương đứt ruột; Anh nhường em kính vội nên ly biệt suốt đời.”

Ngày tết, có ông phú hộ đến gặp Thiền sư Tiên Nhai, cúng dường xong ông nói:

– Bạch Hòa thượng, đầu năm Hòa thượng cho con chữ gì gọi là đại phúc, là phúc lớn trong gia đình con, để con treo trước nhà mừng ngày mùng một.

Thiền sư Tiên Nhai ghi: “Cha chết, con chết, cháu chết.”

Ông phú hộ nói:

– Hòa thượng giỡn hay sao, ngày mùng một mà treo mấy chữ này.

Thiền sư Tiên Nhai nói:

– Đó là hạnh phúc lớn trong cuộc đời của ông. Chẳng hạn bây giờ ông đang sống mà cháu ông chết ông buồn không? Hoặc ông đang sống con ông chết ông buồn không? Đó là nỗi khổ của kiếp người. Còn đằng này là cái chết tuần tự. Ông sống một trăm tuổi, con ông, cháu ông cũng sống một trăm tuổi rồi tuần tự chết là hạnh phúc rồi.

Không chết tuần tự như thế, như người miền Bắc hay nói, lá già không rụng mà rụng lá non, đó là cảm khái được cái cảnh vô thường. Người một trăm tuổi không mất mà đứa nhỏ chừng một hai tuổi hoặc là mười bốn, mười lăm tuổi ra đi.

Vật mình lăn đất, vỗ trán kêu trời,

Tường hoa nhà rộng có làm chi,

Vàng kho, ngọc đụn rồi cũng bỏ,

Dạ đài mù tối, luống nghe gió bấc vu vi,

Tuyền hộ then gài, chỉ thấy mây sầu ảm đạm.

Khi bỏ thân xác này rồi, quý Phật tử mà không có tu học bỗng nhiên mình nghe gió thổi hù hù, núi đổ sập lở, rồi thấy chó sói, rồi cọp rồi beo, nó rượt đuổi, hoảng sợ mình lủi vô hang tức là đi đầu thai. Còn mình có tu thì khác, có tu thì thấy trước mắt mình quang đãng, mây trời dày đặc, rồi Phật, Bồ-tát, Thánh chúng đủ hết. Mình có tu tâm mình cảm ứng, tương ưng thì hiện ra những cảnh giới mười phương Tịnh độ. Còn không tu mình làm ác, thì hiện ra cọp beo, chó sói, gậy gộc rượt mình. Lúc đó đâu có ai ở bên mình. Ngày thường thì có chồng, có con, có vợ, có người thân. Còn ngày cuối cùng ra đi chỉ một mình thôi. Giỏi lắm là có quý Thầy đến khai thị nhắc nhở đừng quyến luyến cảnh trần gian, đừng sợ hãi những khi sấm sét nổi lên, mà chỉ một bề duy nhất là quay về nội tâm, đó là những hư cảnh. Mình biết như vậy thì hư cảnh đó biến mất. Muốn được như thế hằng ngày quý Phật tử phải tu học, phải quán chiếu thật sâu. Cho nên có bài kệ:

Bão táp cuồng phong đất bụi bay,

Lão ngư say tít, chiếc thuyền lay.

Bốn bề mây phủ màu đen kịt,

Một dãy sóng ngầm tiếng vang tai.

Sầm sập trận mưa ào ạt đổ,

Ì ầm sấm nổ suốt vần xoay.

Tạm thời bụi lắng, chân trời sáng,

Trăng lặn lòng sông, canh mấy ai?

Vua Trần Thái Tông diễn tả, khi mình bỏ thân này rồi thì thần thức đi ra, trời tối đen mù mịt giống như ở trên một chiếc thuyền sóng bão cuồn cuộn đến. Mà khi bão sóng lặng xuống rồi thì ai biết được cảnh này, chỉ có người tu mới hiểu được, mới thấu thoát được thôi. Cho nên mình phải tu tập, mình gắng sức để vượt qua những cái khổ nạn sanh, già, bệnh, chết. Đó là những cái khổ trong cuộc đời.

Kế đến là Oán tắng hội khổ, tức là người mình thù ghét ở chung với mình trong một nhà cũng rất là khổ. Ái biệt ly khổ, thương nhau mà xa lìa càng khổ hơn nữa. Cầu bất đắc khổ, cầu không được là khổ. Rồi ngũ ấm xí thạnh khổ.

Cho nên Tổ Đạt Ma dạy, muốn thoát khỏi tám cái khổ này thì chúng ta phải tu học thôi chứ không có nói suông, không ở trên văn tự mà chia chẻ nữa. Tổ Đạt Ma dạy:

Người đời trong cơn mê dài đầy dẫy sự tham chước gọi là cầu. Ngược lại người thế tục, người trí giác ngộ sự thật, an tâm nơi vô vi, thân thuận theo sự biến chuyển, vạn vật đều là không, không có chỗ nào ham muốn hết.”

Tức là mình cũng làm, cũng ăn, nhưng đừng ở trên tướng đó mà trụ rồi sanh tâm. Chẳng hạn thường một tháng mình làm được ba ngàn euro, mà bây giờ buôn bán trục trặc, còn có hai ngàn mình vẫn vui, tùy theo sự biến chuyển, tất cả vạn pháp đều là không, không có chỗ mong cầu, không có chỗ ham muốn, tức là thuận theo pháp.

“Công đức và hắc ám thường đuổi theo nhau.”

Cái lợi đến thì chắc chắn cái suy sẽ đến.

“Ba cõi ở lâu giống như trong nhà lửa, có thân tức là có khổ, chẳng được an ổn. Hiểu rõ được chỗ này thì sẽ bỏ được mọi thứ, dừng lại vọng tưởng, không có cầu mong.”

Mình thấy tu rất là đơn giản đâu có gì khó. Mình tưởng tu thiền hay tu gì khó chứ thật ra không có khó, chỉ đừng có trên tướng mà sanh tâm trụ trước. Chẳng hạn như bây giờ mình uống ly nước, biết uống ly nước, chứ đừng trụ trên cái tướng đó: hôm qua mình uống ly nước rất ngon, mà sao hôm nay ly nước này không ngon. Tức là ở trên tướng mình trụ tướng rồi sanh tâm. Mà có tâm tham đắm tham cầu rồi thì cái khổ kế bên. Hiểu được chỗ này rồi thì sẽ dễ dàng bỏ mọi thứ.

Ngày xưa khi chưa biết đạo chúng tôi cũng biết đủ thứ, có những người biết hút thuốc, biết uống rượu… Mà tại sao biết đạo rồi bỏ hết tất cả. Bởi vì biết cái này là giả tạm, vô thường mỏng manh, rũ một cái là xong. Dừng lại vọng tưởng, không có mong cầu thì khổ không đến.

“Có cầu thì có khổ, không cầu mới được vui. Khi tâm không mong cầu thì tức khắc đó là tu đạo.

Rất là đơn giản. Khi tâm không còn mống niệm tức là đang tiến thẳng vào con đường công phu tu đạo.

Chúng ta học những bài pháp này để ý thức được chỗ đứng của mình. Chúng ta giảm bớt mong cầu, giảm bớt khát ái, không còn đuổi theo những sóng nắng, mà như lời Phật dạy giống như con hươu đi trên bãi sa mạc khát nước, từ xa nó thấy sóng nắng dợn lên nó đuổi theo, càng đuổi càng khát, khi gặp được dòng sông rồi thì nó ngã xuống chết, bởi vì dòng sông đó chỉ là bóng dợn của thức tâm vọng tưởng điên đảo. Hiểu được rồi thì bây giờ chúng ta gắng sức tu học, làm được phước thiện bao nhiêu thì chúng ta làm, ráng cố gắng buông xả tức là quý Phật tử thành tựu pháp. Mình thấy tu rất là đơn giản, chuyện gì bỏ ráng cố gắng bỏ, đừng bám víu ở trên đó mình sanh tâm rồi khóc thương khi vô thường đến. Khi quý Phật tử biết pháp rồi, vô thường đến mình rất là bình thản.

Mình biết chắc chắn tất cả ai cũng sẽ đi con đường này. Bởi vì thân thể của chúng ta là tạm bợ, kế là tâm chúng ta vô thường, kế là chúng ta phải quán chiếu sanh, già, bệnh chết đều là khổ để chúng ta không còn gá trên hình hài này để đắm đuối mà sanh tâm. Một niệm bất giác trở lại cõi Ta-bà này tức là cái khổ đến. Hiểu được như thế quý Phật tử gắng sức tu tập để chuyển hóa nội tâm.

***

Tham Vấn

Hỏi: Nếu chúng ta tu thiền mà thêm niệm Phật thì giống như con hổ mọc thêm hai cái sừng. Như vậy chúng con tu thiền và cũng niệm Phật có được không?

Đáp: Đây không phải quý thầy nói mà là Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ, Ngài tu thiền đắc đạo, nối pháp dòng của ngài Pháp Nhãn. Khi đắc pháp với nhà Thiền rồi, có một lần Ngài đứng trước Tam Bảo rút thăm, nếu có nhân duyên về pháp nào để phổ độ chúng sanh thì phổ độ pháp đó. Do nhân duyên đó cho nên Ngài đưa ra những bài kệ, bài chú có Thiền có Tịnh giống như cọp mọc thêm sừng.

Ở đây tôi chỉ nói quan điểm của tôi. Chẳng hạn người này tu tập về con đường thiền, nghĩ rằng chưa chắc được giải thoát, nên phát nguyện nếu bỏ thân này muốn được tái sanh lên những cõi Trời, chẳng hạn như cõi Trời Đâu Suất trong nội viện của Bồ-tát Di Lặc để tu tiếp. Như ngài Hư Vân, pháp sư Huyền Trang, ngài Thế Thân, ngài Vô Trước v.v… rất là nhiều các vị đại sĩ. Tức là các ngài tu thiền mà kiêm phát nguyện sanh về Tịnh Độ. Có những người ngồi thiền, rồi niệm Phật, gọi là có Thiền, có Tịnh.

Theo tinh thần nhà Thiền, hay tinh thần của Phật giáo, không có một pháp cho người, giống như Lục Tổ nói: Phật nói tất cả pháp để trị tất cả tâm, còn ta vô tâm, thì không cần tất cả pháp.” Mà bây giờ mình chưa vô tâm, do đó phải cần tất cả pháp. Có duyên với pháp nào thì mình tu pháp đó, bởi vì tất cả pháp để trị cái tâm vọng tưởng điên đảo. Khi tâm vọng tưởng điên đảo yên lắng rồi thì câu niệm Phật cũng phải buông xả luôn. Bởi vì câu niệm Phật giống như một chiếc thuyền bè qua sông. Qua sông rồi thì có ai đội chiếc thuyền lên đi nữa không? Vì vậy Phật nói pháp của ta giống như chiếc thuyền qua sông, pháp còn phải bỏ, huống nữa là phi pháp.

Kinh điển giống như ngón tay chỉ mặt trăng, chúng ta đừng có dính mắc trên ngón tay mà không thấy được mặt trăng sáng soi khắp sơn hà. Mình mượn câu niệm Phật để dẹp trừ tất cả những trần lao phiền não. Trần lao phiền não dẹp xong rồi thì câu niệm Phật cũng phải buông luôn.

Giống như đạp nhằm cái gai, tìm một cái gai lớn hơn mình lể. Cái gai đâm vào chân là vọng tưởng điên đảo, tham, sân, tật đố, ích kỷ, những cái tâm cấu bợn. Cái gai dùng để lể là câu niệm Phật. Khi lể xong thì cây gai cũng phải liệng luôn. Đó gọi là niệm mà vô niệm.

Ngài Châu Hoằng nói trong bộ Di Đà Sớ Sao: “Vãng sanh thật ra không có vãng sanh tức là vô sanh.” Ngài luận rất là kỹ lưỡng vấn đề đó. Niệm Phật mà không có cái gì để niệm, tức là vô niệm, thì đồng với tinh thần của nhà Thiền. Qua phần này tôi nêu lên cho quý Phật tử thấy, các pháp đồng về một nguồn, giống như trăm sông chảy về biển chỉ mang một vị, vị đó là vị giải thoát.

Nhà Phật chia ra: thế giới tất đàn, đối trị tất đàn, các các vị nhân tất đàn, đệ nhất nghĩa đế tất đàn.

Thế giới tất đàn: Đức Phật xuống cõi Ta-bà này biết tâm chúng sanh có những niềm mong muốn, khát vọng. Bây giờ muốn biến hiện ra cảnh giới Tịnh Độ trang nghiêm thanh tịnh, phải có cái gì đó cho chúng sanh thích. Thì Đức Phật diễn tả cảnh giới Tịnh Độ đầy đủ bảy báu, vàng bạc, xa cừ, san hô, hổ phách, mã não, trân châu. Thế giới này nếu đi ra đường mà đá biến thành kim cương thì không có nhà tù, không có ai trộm cướp làm chi. Bốn đường ác cũng đóng cửa, những đường khổ đóng cửa hết. Cho nên Đức Phật diễn tả những thế giới phải lung linh mầu nhiệm để cho chúng sanh thích thú, khi thích thú thì họ chuyên chú.

Tinh thần của nhà Phật trước là dùng dục câu dắt, sau dùng trí mà nhổ. Như tôi hay kể chuyện Thiền sư Bạch Ẩn mướn ông già niệm Phật, cứ một câu niệm Phật trả một đồng, trước là dùng dục đồng tiền câu dắt. Ông về niệm liên tục, ông niệm càng nhiều thì thiền sư Bạch Ẩn càng hết tiền. Cuối cùng ông giao hàng quán cho con dâu rồi trốn lên một căn phòng thật kín, niệm một hồi ông buông xâu chuỗi nhập định luôn. Đứa con thấy hai ba ngày mà ông chưa xả, hoảng hồn chạy đến Thiền sư Bạch Ẩn. Ngài đến nhìn vào cửa sổ nói:

– Mừng cho cha của con, bây giờ ông nhập vào chánh định rồi.

Khi đánh khánh cho ông xả, Thiền sư Bạch Ẩn nói:

– Hồi xưa tôi trả cho ông một câu niệm Phật một đồng, bây giờ ông vào cơn đại định này, tôi trả ông một ngàn đồng.

Ông nói:

– Bây giờ Hòa thượng cho con hết giang sơn này con cũng không cần.

Tiền niệm Phật mướn, ông trả lại hết cho Thiền sư.

Qua phần này tôi nêu lên tinh thần tu tập của Thiền và Tịnh để mình nắm chắc phương pháp tu, không còn ngăn ngại nữa. Thiền cũng tốt, Tịnh, Mật cũng tốt, miễn sao mình giải phóng những cái tâm cấu bợn.

Các các vị nhân tất đàn: Các các là mỗi mỗi, tùy theo căn duyên bệnh của mỗi người mà Đức Phật chỉ dạy.

Vào thời Đức Phật có một thầy Tỳ-kheo tu suốt mà không chứng đạo, đến trình Đức Phật. Đức Phật quán chiếu rồi kêu tôn giả A-nan đến gặp vua Ba Tư Nặc, nói vua xây cho vị Tỳ-kheo này một biệt điện giống của cung trời Đế Thích, thì vị Tỳ-kheo này tu mới chứng quả. Quả tình vị Tỳ-kheo ngồi thiền trong biệt điện bảy ngày chứng quả. Tôn giả A-nan nói:

– Bạch Đức Thế Tôn sao lạ kỳ vậy, ông ấy tu trong cốc trong hang không chứng quả mà tại sao vào trong biệt điện sang trọng lại chứng quả?

Phật nói:

– Vị Tỳ-kheo này năm trăm đời là trưởng giả và gần năm trăm đời là trời Đế Thích, ông toàn ở những biệt điện sung sướng thôi.

Cho nên có những người tu trong núi, hoặc có những người ở trong cái thất sang cả, quý Phật tử đừng có nhìn bằng cặp mắt của mình, không thấy được đâu. Cho nên gọi là các các vị nhân tất đàn, tùy theo mỗi vị mà Đức Phật đưa ra phương tiện.

Đối trị tất đàn: Bệnh tham thì phải quán thân bất tịnh. Bệnh sân thì phải dùng quán từ bi. Dùng đúng thuốc thì tức khắc hết bệnh. Chẳng hạn mình đang nhức đầu mà dùng thuốc tiêu chảy thì không bao giờ hết. Phải dùng thuốc nhức đầu mới hết bệnh.

Đệ nhất nghĩa tất đàn: Vua Lương Võ Đế đến hỏi Tổ Đạt Ma, thế nào là Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa. Tổ Đạt Ma dõng dạc nói một câu: “Rỗng rang không có Thánh.” Chỗ đó không có thánh phàm gì hết, bản lai vô nhất vật mà thánh phàm gì. Cuối cùng rồi phải đến giai đoạn xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi nhơ. Đó là tâm điểm của người tu. Biết rồi là quý Phật tử không bao giờ tranh cãi pháp này cao, pháp kia thấp, pháp này vi diệu, pháp kia không được. Mình hiểu được bổn hoài của Đức Phật chỉ dạy cho mỗi con người chúng ta rồi, thì tức khắc là pháp pháp đồng một pháp. Pháp không có tranh cãi.

Có người chia ra tiểu thừa, đại thừa, Lục Tổ nói không có thừa.

“Thấy nghe, tụng đọc là tiểu thừa. Y kinh hiểu nghĩa là trung thừa. Y pháp tu hành là đại thừa. Không có dính mắc một pháp, không có trụ trên một pháp, thông suốt hết tất cả là tối thương thừa.”

Hiểu được rồi mình ung dung tự tại tu tập.

Hỏi: Có lần con được đảnh lễ Hòa thượng Thích Thanh Từ ở Việt Nam. Khi con đến gặp Ngài thì con mới tập thiền, sau đó về con định đi theo hướng Thiền, nên con ở nhà tự ngồi. Con cũng cố gắng giữ thanh tịnh mà không được, đang ngồi tự nhiên nghĩ ngợi, mỗi lần con ngồi khoảng chừng năm, mười phút nó lại như vậy. Con chuyển qua vừa tụng kinh con vừa thiền, bây giờ con ngồi kiết già tụng kinh thì đỡ hơn. Rồi con mơ, tối ngủ con nằm mơ thấy ma quỷ, con phải Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật thì con mới an cái tâm của con được, thành ra con thấy tu thiền sao khó quá.

Đáp: Cô gặp Hòa thượng cũng là túc duyên xưa nên mới gặp, duyên cạn hoặc sâu. Quý Phật tử thực tập phải có phương pháp. Ngồi thiền mà vọng tưởng nhiều quá, ban đầu mình phải tập Lục diệu pháp môn, tức là Sổ tức, Tùy tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh. Sổ tức là đếm hơi thở, hít vào đếm một, thở ra đếm hai, tiếp tục đến mười. Nếu quên hoặc đếm lộn thì quay lại từ đầu, mình theo dõi tiến trình hơi thở, suy nghĩ vọng tưởng trụ vào hơi thở thì vọng từ từ thưa dần.

Nằm mộng có năm nguyên do, một là thiện, hai là ác, ba là tâm lý, bốn là sinh lý, năm là hộ pháp báo mộng. Mình ngủ thấy ma quỷ rượt đuổi, có khi do nằm đè lên trái tim, mình bị ngộp nên biến hiện ra. Hoặc thời quá khứ mình tạo nghiệp xấu, tu một thời gian không thấy ma quỷ nữa mà thấy mình đi nghe pháp chẳng hạn. Bây giờ chúng tôi nằm mộng đa phần là thấy mình vô pháp hội giảng Phật pháp. Bởi vì thuyết pháp hằng ngày, nó đã nhập tâm nên nằm mơ cũng thấy. Có những người ở ngoài đời chưa ăn chay trường, khi mới xuất gia nằm mơ thấy người ta mời ăn mặn cũng ăn. Tu khoảng chừng năm sáu năm, người ta mời ăn mặn không ăn, nói tôi tu rồi không ăn mặn, giật mình dậy biết nằm mơ.

Khi cô nằm mơ thấy ma quỷ thì cô trụ trong tướng niệm Phật thì ma quỷ sẽ hết. Bởi vì Phật A Di Đà là Vô lượng quang, Vô lượng thọ, Vô lượng công đức. Vô lượng quang là ánh sáng từ trong bản thể chiếu ra thì ma nào vô nữa. Những hiện tượng này cũng thường thôi chớ không ngại gì hết. Thấy như vậy mình biết chắc đời trước cũng tạo nghiệp nên việc đầu tiên là phải thành tâm đến trước Tam bảo sám hối thật là tha thiết, phát nguyện tu tập thì lần lần nó thưa dần rồi sẽ hết, mình ngủ được an giấc. Quý Phật tử hay thấy ma quỷ, tìm kinh Từ Bi đọc thì ngủ rất dễ dàng không có ác mộng, khuôn mặt mình tươi tắn, thuốc độc không hại được, được Hộ Thần hộ cho mình…. Cho nên mình phải quán, gọi là quán từ bi, quán lòng từ bi của mình phủ khắp hết. Vào thời Đức Phật có sáu thầy Tỳ-kheo tu trong một khu rừng, tối lại gặp quỷ dạ xoa hiện hình. Phật chỉ bài kinh gọi là từ bi quán. Quý Phật tử tìm kinh Từ Bi tụng đọc hàng đêm thì bảo đảm quý Phật tử toàn thấy Phật, Bồ-tát, không còn thấy ma quỷ gì nữa.

Hỏi: Khi tập trung tâm vào một sự việc nào đó như: niệm phật, nghe nhạc phật, hát, thì tâm con cũng được yên, thì như vậy cũng có một sự thiền định, phải không Thầy?

Đáp: Trụ trong tướng, gọi là tạm thôi. Khi tụng kinh, trụ trong tướng tụng kinh; khi lái xe, trụ trong tướng lái xe; trụ vào cái tâm đó, tạm để cho nó an. Trụ trong tướng tịnh mà tướng ác nó biến, không còn nữa, cũng có Thiền trong đó.

Hỏi: Khi chưa xuất gia còn là phật tử tại gia thì chưa thấy gì, nhưng khi mới xuất gia thì có những chướng duyên nó trổ ra, con không biết đó là chướng duyên thử thách hay là tập khí ác nghiệp?

Đáp: Mình sống ở đời, chưa phát nguyện xuất gia, khi nỗi buồn đến mình ra quán karaoke hát thì hết buồn, mình tưởng rằng hết nhưng mà không hết. Khi phát nguyện xuất gia rồi mà nỗi buồn hay nghịch cảnh, nghịch duyên đến thì mình tưởng nghiệp đổ ra, nhưng mà không phải.

Giống như quý Phật tử vay ngân hàng một số tiền lớn. Nếu ngân hàng biết mình sẽ về Việt Nam ở luôn thì sẽ đến nhà mình đòi tiền lại. Cũng vậy, khi mình chuẩn bị phát tâm xuất gia, thế gian pháp này mình từ giã không còn bám víu nữa, thì có thể tất cả những nghiệp tập đời trước đã tạo sẽ hình thành. Chúng ta gặp những duyên, nó tạo một lực, chính nghiệp lực này cản trở bước đường tu của mình nếu mình không vượt qua được. Hơn nữa, khi chuẩn bị xuất gia, mình chưa phải giống như các vị Tổ một phen gọi là đơn đao đột nhập, chặt một đao là đứt hẳn, mà tâm mình do dự, chính tâm do dự đó, giữa cái thiện và cái ác bắt đầu cấu xé với nhau. Nửa muốn tu, mà nửa thì muốn sống đời cư sĩ, chính điều đó khiến nghịch cảnh đến, chỉ vậy thôi, làm cho mình khó chịu, bất an, đủ thứ chuyện hết.

Hỏi: Thưa thầy, với hội trường đông người và một nhóm Phật tử, cùng một đề tài thì thầy giảng có khác nhau không?

Đáp: Ở miền Bắc Việt Nam, khi tôi giảng ở chùa hay thiền viện, có những hội trường đông năm sáu ngàn người, có khi ba bốn ngàn người, thì tôi giảng cũng như thế này. Mà tôi giảng bên này có những chỗ tám chục người, một trăm người, hoặc cho một gia đình năm người, mười người tôi cũng giảng như vầy. Có những người, đông thì giảng được nhưng mà năm sáu người giảng không được. Bởi vì tôi quán chiếu, khi giảng dạy Phật pháp bất cứ nơi nào, không những loài hữu tình nghe, mà còn có những loài vô tình họ nghe nữa. Nếu họ thâm nhập được, họ cũng cởi bỏ những xiềng xích trói buộc, tức là sự chấp ngã. Quán chiếu vậy thấy hội trường rất là đông nên tôi giảng bình thường.

Mục đích của giảng sư không phải là đông hay ít, mà trong pháp hội có số người lãnh hội nhiều hay ít, đó mới là điều quan trọng. Mình giảng đông mà không ai lãnh hội thì thời pháp đó cũng uổng. Hoặc ở trên này giảng mà ở dưới ngủ gà ngủ gật thì cũng không thâm nhập gì bao nhiêu. Cho nên mục đích của người hướng dẫn Phật pháp là mong Phật tử lãnh hội, về họ thực tập chuyển hóa nội tâm, làm cho gia đình họ được hạnh phúc an ổn thì người giảng sư được phước.

Tôi giống như giám đốc ngân hàng cho quý Phật tử vay một số vốn, quý Phật tử về làm ăn được thì đến trả vốn trả lãi đầy đủ. Nếu làm ăn không được, mà một trăm người, một ngàn người không có tiền trả thì ông giám đốc ngân hàng bị hụt vốn, tài sản không còn.

Tâm Phật và Tâm Ma

Đầu tiên, tôi xin kể một câu chuyện trong kinh Bách Dụ:

Tại một vùng nọ, có anh họa sĩ vẽ rất đẹp và rất giống hình mẫu hoặc người mẫu. Bởi vì khi anh nhìn vào cái hình nào đó rồi thì đi, đứng, nằm, ngồi anh đều liên tưởng và tác ý đến, cho nên bức hình anh vẽ rất sống động.

Một hôm có người nhờ anh vẽ hình quỷ dạ xoa. Quỷ dạ xoa thì hình thù rất xấu, hình tướng xấu thì tâm nó cũng xấu luôn. Hằng ngày anh đều liên tưởng đến con quỷ dạ xoa. Một thời gian, anh có người bạn đến thăm, vừa gặp anh người bạn giật mình vì thấy khuôn mặt anh rất giống quỷ. Quý Phật tử biết tại sao anh họa sĩ giống quỷ không? Tại vì hằng ngày niệm cái tướng ác. Nhớ nghĩ tướng ác nên hiện ra tướng ác. Bởi vì khi anh tác ý là một hạt giống ác gieo vào tâm thức.

Cho nên nhìn sắc mặt quý Phật tử tôi biết có tu hay không tu. Mình đến với các Thiền sư, vừa đến chưa cần trình là các Ngài biết. Những người có công phu thì đi, đứng, nằm, ngồi mình nhìn thấy khác. Ngài Mã Thắng đi khất thực, tôn giả Xá-lợi-phất thấy biết đây là người chứng đạo. Tôn giả nói không ngờ trên thế gian này có một vị A-la-hán ra đời. Bởi vì từ thân tướng, lời ăn tiếng nói đến cung cách của Ngài toát ra hết. Cho nên người mới bước chân vào đạo mình nhìn cũng biết.

Một thời gian sau có người đến nhờ anh họa bức hình của Bồ-tát Quán Thế Âm, nên hằng ngày anh liên tưởng, tác ý đến hình ảnh của Bồ-tát. Một hôm người bạn thân đến thăm anh, giật mình thấy khuôn mặt anh bây giờ tướng quỷ mất mà tướng Phật hiện lên.

Trong kinh Thập Thiện, Đức Phật nói với vua rồng Ta-kiệt-la biển long cung:

– Này Long Vương, ngươi thấy thân tướng của Như Lai trăm ngàn ánh sáng của Phạm Thiên cộng lại cũng không bằng, vì vô lượng kiếp Như Lai tu tập về thiện pháp cho nên bây giờ mới được thân tướng này. Ông thấy các vị Bồ-tát hay không? Trăm ngàn muôn kiếp các vị này cũng trang nghiêm tướng hảo bằng thiện pháp. Này Long Vương, ông thấy Thiên Long Bát Bộ hình tướng oai nghiêm, hào quang sáng chói là cũng nhờ vô lượng kiếp tu thiện pháp. Còn thân tướng của ông là do ông tạo ác pháp.

Mình thường nghe quý thầy nói thiện pháp, vậy thiện pháp là gì? Thiện pháp có phải là cúng dường không? Thiện pháp ở đây là thân làm điều lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành, chứ không phải bố thí cúng dường là đủ. Mình bố thí cúng dường mà nóng giận chửi bới, thì đời sau giàu có nhưng sanh ra xấu xí.

Bà Mạt Lợi phu nhân hỏi Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức thế Tôn, tại sao có một số phụ nữ dung sắc xấu xí nhưng rất giàu có.

Phật nói:

– Do đời quá khứ biết bố thí cúng dường Sa-môn, Bà La Môn nhưng hay nóng giận, bực tức, hay chửi bới, đánh đập người.

Ai đụng chạm một chút là chịu đựng không được. Do niệm ác, do hành động, lời nói như thế nên bây giờ sanh ra tướng đó. Nhưng nhờ bố thí cúng dường nên được giàu có.

Bà hỏi thêm:

– Bạch Đức Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì mà có một số phụ nữ hình sắc rất là đẹp nhưng nghèo khổ, tiền bạc không có?

Phật nói:

– Do đời trước có lòng kham nhẫn nhưng không biết bố thí cúng dường.

– Bạch Đức Thế Tôn, do nhân gì do duyên gì có một số phụ nữ vừa xấu mà vừa nghèo.

– Do sân hận bực tức lại không biết bố thí cúng dường.

– Bạch Đức Thế Tôn, do nhân gì do duyên gì mà có một số phụ nữ vừa đẹp, mà vừa giàu có.

– Do bố thí cúng dường lại có tâm kham nhẫn.

Trong bốn hạng phụ nữ kể trên, quý Phật tử thích làm hạng phụ nữ thứ mấy? Nếu thích hạng thứ tư thì chúng ta phải tu tập hạnh kham nhẫn, kế nữa là biết bố thí cúng dường, tức là chúng ta gieo hạt giống Phật. Gieo hạt giống Phật thì tâm Phật hiện ra.

Bồ-tát Văn Thù có bài kệ:

Trên mặt không sân đồ cúng dường.

Mình không sân, mặt vui cười là cúng dường Tam Bảo. Làm lợi ích cho mọi người có phải là cúng dường đâu, mà trên khuôn mặt mình đừng có sân hận bực tức, lúc nào cũng vui cười tức là mình cúng dường. Mình đi chùa ở đây thì tươi cười, về nhà mặt bực tức là mình không phải người tu. Đến chùa thì mình cung kính quý thầy, nhưng về nhà đối với chồng, đối với người thân giống như bà chằn. Tức là quý Phật tử ở đây gieo tâm Phật mà về nhà gieo tâm ma. Ma, Phật lẫn lộn. Cho nên các vị Bồ-tát, Chư Phật chỉ rất là kỹ.

Trong miệng không sân xuất diệu hương.

Nếu quý Phật tử đừng nói bậy, đừng nói lời ác khẩu thì miệng lúc nào cũng thơm.

Trong tâm không sân là trân bảo.

Nhiều khi mặt mình không sân, miệng không nói lời bậy, nhưng trong tâm thì sôi sùng sục. Trong tâm đừng có sân, là trân bảo.

Không nhơ, không nhiễm là chơn thường.

Chúng ta luôn luôn phải gieo những niệm lực, nguyện lực của Chư Phật, Bồ-tát. Một niệm ác dấy lên là mình gieo hạt giống ma. Một niệm thiện dấy lên là mình gieo hạt giống Phật. Muốn thành Phật hay thành ma là do quý Phật tử.

Phật Phật, ma ma chính lòng ta,

Ma, Phật hay không là chánh tà.

Thiền sư Bàng Am nói:

Một niệm tâm thanh tịnh,

Phật ở điện Ma Vương.

Một niệm tâm ác sanh,

Ma Vương trong điện Phật.

Một niệm tâm thanh tịnh dấy lên tức là Phật ở trong thân ngũ uẩn. Một niệm tâm ác dấy lên tức là ma ở trong thân ngũ uẩn. Cho nên muốn làm ma hay làm Phật là tùy quý Phật tử. Nếu hằng ngày gieo những hạt giống xấu ác, giống như một mảnh vườn không trồng hoa, không trồng cây kiểng, thì mọc toàn là cỏ dại.

Có những người đến chùa gieo toàn những hạt giống xấu ác là hạt giống ma, Ngài Nam Sơn nói: “Các ông đến chùa không chịu lượm châu báu mà lượm toàn là phân.” Các Ngài nói mạnh lắm. Mình đến chùa gặt hái những điều phước thiện, tức là thân làm lành, miệng nói lời lành, và ý nghĩ điều lành. Chúng ta muốn hoàn bị phương hướng đi, là phải gieo những niệm lực và nguyện lực.

Vô lượng kiếp Đức Phật luôn luôn gieo những hạt giống thiện pháp trong tàng thức, cho nên thân tướng của Ngài hào quang sáng chói, trăm ngàn vị Phạm Thiên cộng lại ánh sáng cũng không bằng.

Khi quý Phật tử nhận được tâm Phật của mình thì nhìn đâu cũng thấy Phật, không bao giờ dám coi thường một người nào hết. Mình cũng không cống cao ngã mạn, bởi vì ai cũng là Phật. Vạn pháp đều là Phật, hiển bày trên ngọn cỏ, cành cây, hiển bày lên tất cả cảnh giới thực tại. Các Ngài thấu suốt như vậy, đến mức độ các Ngài khẳng định cảnh giới ta bà khổ đau này cũng là cảnh giới tịnh thổ của Đức Phật A Di Đà.

Khi mình gieo tâm Phật thì chắc chắn khi chết mình trở về với Bổn Nguyện Phật Di Đà. Còn gieo tâm ma mà đòi lên cõi Phật thì chuyện đó không có. Cho nên các ngài nói mình tu là tu nhân chứ không phải tu quả. Nhân tức là mình hoàn bị tâm Phật thì chắc chắn khi chết mình trở về cõi Phật. Khi thể nhập được tâm Phật thì mình nhìn tất cả mọi người, tất cả vạn pháp đâu đâu cũng có Phật hết, chứ không gặp ma nữa.

Một hôm Tô Đông Pha với Thiền sư Phật Ấn cùng ngồi thiền. Sau khi xả thiền, lúc ngồi uống trà, Thiền sư Phật Ấn hỏi:

– Hồi nãy tôi thấy ông nhìn tôi cười mà không biết ông cười cái gì.

Tô Đông Pha nói:

– Hòa thượng ngồi thiền nhìn giống như một đống phân bò nên con cười.

Tô Đông Pha hỏi:

– Hòa thượng cũng nhìn con cười. Hòa thượng thấy gì mà cười?

Thiền sư Phật Ấn:

– Tôi thấy ông ngồi thiền đẹp quá, trang nghiêm như Phật.

Tô Đông Pha đi đâu cũng kể xưa giờ ông thua Thiền sư Phật Ấn, nhưng hôm nay ông thắng lớn. Về đến nhà ông kể câu chuyện này cho cô Tô Tiểu Muội. Cô Tô Tiểu Muội nói:

– Anh thua rồi. Thiền sư Phật Ấn thấy anh ngồi giống như Phật vì tâm của Ngài đã thể nhập vào tâm Phật, cho nên nhìn tất cả mọi người đều là Phật. Còn tâm anh xấu dơ, ô nhiễm, cho nên anh nhìn người nào cũng thấy là đống phân bò.

Câu chuyện trong Nghệ thuật sống:

Có một ông mất cây búa, ông nghi đứa bé hàng xóm lấy. Nhìn nó đi, đứng, nằm, ngồi ông đều thấy tướng ăn trộm hiện ra. Nhưng một hôm ông thấy cây búa ở trong đống rơm, ông nhìn đứa bé không còn thấy tướng ăn trộm nữa. Là do tâm của mình!

Qua phần này tôi nêu lên cho quý Phật tử thấy, muốn thành Phật hay muốn thành ma là do trong đời sống hằng ngày. Đời sống mình quá ô nhiễm, tật đố, tham sân, ích kỷ, đụng đâu cũng phiền não, bực tức sân hận thì khi chết năng lực nghiệp này đẩy mình. Tổ Quy Sơn nói: “Giống như lưới thủng chim bay, thức tâm theo nghiệp, nặng đâu thì sa đó.” Hằng ngày mình gieo hạt giống ma thì chắc chắn chết mình về cõi ma. Hằng ngày gieo tâm Phật thì chắc chắn rằng chết mình trở về cõi Phật, rất là đơn giản.

Tại thành Cẩm Châu ở Trung Quốc có hai ngôi chùa gần nhau. Ngôi chùa thứ nhất là Xuất Thủy Tự, ngôi chùa thứ hai là Hương Tích Tự. Chùa Hương Tích Tự có ba vị Hòa thượng tu hành rất tinh tấn nhưng ít ai để ý. Ngược lại chùa Xuất Thủy Tự thì ai cũng tìm đến. Chùa Xuất Thủy Tự có tên như thế, là do ở đó có cái giếng. Ai bệnh uống nước giếng này đều hết bệnh.

Một hôm vua bệnh rất nặng, vua sai người đến múc nước giếng đem về uống cũng hết bệnh. Vua xuất ra số tiền rất lớn, xây lại chùa như cung điện nguy nga. Chùa ngày nào cũng tấp nập, khắp nơi người ta kéo đến uống nước giếng chữa bệnh. Tiền cúng dường rất là nhiều, Tăng chúng về tu tổng cộng một ngàn vị. Người ta cúng dường nhiều quá cho nên quý thầy ở đó tu hành cũng hơi giải đãi, không còn tinh tấn như ngày xưa nữa.

Một hôm có mười tám vị ăn mày áo quần rách rưới, hôi hám đến xin một bữa cơm. Thầy tri khách nhất quyết không cho vào mà còn xua đuổi:

– Chỗ này là chỗ thanh tịnh trang nghiêm, các ông là ăn mày, ăn xin tại sao lại vào đây.

Bị xua đuổi, mười tám vị ăn mày đồng hát lên:

Hồn nhiên mà đi chừ tùy duyên mà độ người.

Tức là hồn nhiên đến cũng hồn nhiên đi chớ không buồn không giận. Đủ duyên thì đến để độ người, mà ở đây họ không có duyên, thì thôi đi nơi khác.

Từ bi để lòng chừ bổn phận thầy Tăng.

Tức là ông Tăng phải có lòng từ bi. Tăng không có lòng từ bi là không đúng. Vừa rồi ở Sóc Trăng, chùa của người Khơ Me, có hai chú tiểu phạm lỗi gì đó mà Sư trụ trì bắt phạt bằng cách nhúng hai bàn tay vào chảo nước sôi. Đây gọi là gieo hạt giống ma chứ không phải hạt giống Phật. Tôi cũng nuôi chú tiểu, mười hai chú. Mấy chú làm gì sai thì mình dạy bảo ráng cố gắng tu học. Chứ phạt như thế là không thể hiện đức tính từ bi của người tu Phật. Khi gieo hạt giống nghiệp ma chắc chắn chúng ta chết đi vào con đường ma. Tu mà không có từ bi thì không phải là tu.

Công danh lợi dưỡng chừ vốn thuộc nghiệp ma.

Công danh lợi dưỡng mình đắm đuối đó là nghiệp của ma, là gieo hạt giống ma.

Nhân quả rõ ràng chừ Phật tại tâm.

Phật tại tâm. Phật không có ở trong núi. Vua Trần Thái Tông vào trong núi thì quốc sư Phù Vân hỏi:

– Bệ hạ vào trong núi tìm cái gì?

Vua Trần Thái Tông nói:

– Trẫm vào trong núi để tìm Phật.

Quốc sư Phù Vân nói:

– Phật không ở trong núi, Phật chính ngay nơi tâm của Bệ hạ. Tâm lặng mà rõ biết, chính là tâm Phật.

Phật không có ở trong núi, không ở trên rừng, mà chính ngay nơi tâm mình. Hiểu sâu về con đường Phật pháp, mình mới thấy giá trị của Phật pháp. Phật ngay nơi tâm, nhưng không phải tâm vọng tưởng, tâm vọng tưởng là tâm ma. Tâm lặng mà rõ biết, đó là tâm Phật. Mình ngồi suy nghĩ lung tung là tâm ma. Còn tâm mình lặng mà mình nghe tiếng chim kêu, dế gáy, gió thổi mà không trụ trên tướng sanh tâm, đó là tâm Phật.

Mười tám vị ăn mày ghi lên cổng chùa:

Xuất thủy chẳng xuất Tăng. Chỉ lưu một ông Tăng đốt nhang đèn.

Tức là chùa này chỉ ra nước chứ không phải ra Tăng, không đào tạo được Tăng. Khi phát hiện câu kệ này, các vị Tăng báo với Hòa thượng trụ trì, ông sai Tăng chúng ở đó lấy nước rửa. Càng rửa, chữ càng nổi lên. Sợ quá ông bắt đập bức tường, xây bức tường mới. Trên bức tường mới, chữ càng hiện lên rõ ràng, càng đậm hơn nữa.

Rồi nước giếng uống vào người ta bị thổ tả, ói mửa, giếng nước thì bốc mùi hôi thối. Trong chùa bắt đầu án mạng xảy ra liên tục. Người ta bắt được một tên cướp, nó khai số người trà trộn xuất gia lẫn lộn trong Tăng chúng rất nhiều. Vua quyết định tịch thu hết tài sản của chùa. Không có cơm ăn, không có vật dụng cho nên Tăng chúng bỏ đi hết, chỉ còn lưu lại một ông Tăng tám chục tuổi đốt nhang đèn. Y như câu mà mười tám vị ăn mày ghi trên cổng chùa: “Xuất thủy chẳng xuất Tăng. Chỉ lưu một ông Tăng đốt nhang đèn”.

Ngược lại, tại chùa Hương Tích, ba vị Hòa thượng tu hành rất trang nghiêm. Mười tám vị ăn mày đến xin bữa cơm, gặp mùa đông tuyết đổ ngập đường. Ba vị Hòa thượng lo xong bữa ăn đạm bạc cho mười tám vị ăn mày, rồi mới bắt đầu đi vào thành để xin mười tám cái mền.

Tối hôm đó ông quan giám sát nằm mộng thấy một vị Hộ pháp nói: “Làm lành ham bố thí thì có phước về sau.” Ông tỉnh giấc thì gia nhân báo có ba vị Hòa thượng đến xin một số mền. Ông hỏi cần bao nhiêu, gia nhân báo cần mười tám cái mền bông. Khoảng một, hai giờ đêm ông quan này nằm mộng một lần nữa. Ông nghe nói đời trước ông không tạo nhân lành, không gieo thiện pháp nhiều nên đời này ông không có con. Nhưng bây giờ do cái phước ông khởi tâm cúng dường cho những vị Hòa thượng mười tám cái mền bông, chắc chắn ông sẽ sanh được một đứa con trai, sau này không những nó nối dõi tông đường, mà tổ tông rạng rỡ cũng vì nó. Và khuyên ông ráng cố gắng hộ pháp chùa Hương Tích Tự.

Khi mười tám vị ăn mày ngủ đêm trong phòng thì ba vị Hòa thượng bàn nhau tìm cách gì đó để mai vào thành xin thức ăn cho các vị này ăn sáng. Khi ba vị Hòa thượng chuẩn bị đi, mười tám vị ăn mày nói khỏi cần, chúng tôi đi rồi. Ba vị Hòa thượng giật mình, nhìn trên mặt tuyết không thấy có dấu chân. Vào chỗ mười tám vị ăn mày nằm ngủ thì thấy mười tám vị A-la-hán rực rỡ, hào quang sáng chiếu.

Sau khi nằm mộng, quan giám sát đến Hương Tích Tự, đề nghị khắc mười tám tượng bằng vàng để thờ trong chùa. Và ông bỏ ra số tiền rất lớn xây chánh điện, nhà tổ, thiền đường, nhà ăn. Từ đó ông xin đổi tên chùa thành La Hán Tự, bây giờ bên Trung Quốc vẫn còn.

Người ta đến La Hán Tự hành hương, tu tập nhiều bao nhiêu, thì ngược lại chùa Xuất Thủy Tự cỏ hoang mọc đầy bấy nhiêu. Khoảng ba năm sau, một vị Hòa thượng chống gậy đến gặp Hòa thượng trụ trì La Hán Tự nói:

– Thưa Ngài, tôi nghe nói vùng này có chùa La Hán mà tôi không tin. Bởi vì ngày xưa tôi nhớ chùa này gọi là Hương Tích Tự mà không hiểu tại sao bây giờ đổi thành La Hán Tự. Tôi hỏi nhiều người, người ta kể ra câu chuyện này. Mà Hòa thượng biết tôi là ai không? Tôi chính là vị trụ trì ngày xưa ở Xuất Thủy Tự. Lúc đó chùa giàu có, tiền bạc nhiều không biết chỗ nào mà để. Tôi xây mười cái Hương Tích Tự cũng được nhưng mà tôi chỉ ngó. Tôi nghĩ mấy người này không có phước, rồi thôi mặc kệ.

Ngày hôm nay tôi mới giật mình, biết công đức Hòa thượng tu hành rất lớn. Mà khi đó, tôi để tâm trong công danh lợi dưỡng, là gieo nghiệp ma nên động đến mười tám vị La Hán. Các ngài xuống dạy mà tôi không biết. Phước lực tôi quá dồi dào, đến mức độ cái giếng phun ra toàn là thuốc, người ta uống hết bệnh. Tôi nghĩ trên đời này không ai bằng. Tôi không màng đến mười tám vị ăn mày, cho nên xua đuổi không ngó ngàng đến. Mà dẫu người ta đến nói đây là mười tám vị La Hán hiện thân, tôi cũng không tin. Bây giờ tôi mới biết công đức của Ngài đúng là Phật sống.

Vị trụ trì La Hán Tự nói:

– Tôi không dám nghĩ tôi là Phật sống, mà tôi cố gắng tu tập để tâm mình giống như một đám mây lưu lộ trong không gian và thời gian này, để trở về tâm Phật, bước đi trên con đường của Như Lai Phật Tổ, chứ không nghĩ mình là Phật sống.

Vị Hòa thượng chùa Xuất Thủy Tự khóc nói:

– Ngày xưa người ta đến cúng dường rất nhiều, mới đầu tưởng không bị dính mắc. Cuối cùng chỉ có tâm tiền, mất đi tâm Phật. Mỗi ngày đốt hương lễ Phật tụng niệm kinh điển cho đến thời khóa công phu, toàn là gieo nghiệp ma mà không gieo hạt giống Phật. Do nhân duyên đó nên động đến mười tám vị La Hán. Các Ngài đến cứu tôi mà tôi không bước ra khỏi vũng bùn. Ngày hôm nay tôi xin một điều là cho tôi làm ông tăng bình thường, ở đây tôi quét lá đa, tôi làm công tác Phật sự giống như một chú sa di. Xin ngài từ bi giúp.

Hòa thượng trụ trì La Hán Tự nói:

– Xưa tôi với thầy cũng là bạn đạo thâm giao. Bây giờ thầy cũng lớn tuổi rồi, thầy tu tập cùng tôi.

Hay một điều là cuối cùng hai vị Hòa thượng cùng đắc đạo thành chánh quả trong một ngày. Tâm ma buông xuống, tâm Phật hiển lộ lên, liền chứng nhập vào con đường Niết-bàn, rất là đơn giản. Chúng ta tu học để gạn lọc hết tâm ma của mình. Đó là mục đích của tu học, dù mình tu bất cứ pháp môn nào. Thân tâm ngũ uẩn của mỗi con người chúng ta, Đức Phật nói tâm Phật ít lắm, tâm ma thì nhiều hơn.

Cho nên tôn giả Tịch Thiên nói, một khi làm thiện pháp, không phải tự nhiên khởi tâm mà do vô lượng mười phương chư Phật tác ý vào trong tâm thức, làm sống dậy thiện tâm. Mà khi vừa nghĩ làm chuyện gì đó, bắt đầu tâm ác khởi lên. Duy thức học nói trong tàng thức có năm mươi hai hạt giống, mà có mười hạt giống thiện thôi, hai mưới sáu hạt giống bất thiện. Như vậy cái ác nhiều hơn cái thiện.

Chẳng hạn như hôm nào đó mình đến một ngôi chùa đang xây dựng, khởi niệm cúng dường mười bao xi măng, mà mình không cúng liền, để sau khi đi vệ sinh xong rồi lên cúng. Khi mình lên cúng lại nghĩ thôi để đợt sau. Vậy là mất, không cúng, không làm. Ý tôi nói là vừa khởi lên hạt giống thiện pháp mình làm liền, chớ suy nghĩ là bắt đầu hạt giống ác đến. Điều này chúng tôi đã từng kinh nghiệm qua.

Tôi có người bạn đồng tu, hồi xưa ở trên Trúc Lâm với chúng tôi, sau này về Buôn Mê Thuột. Thầy nhận một ngôi cổ tự cũng còn đẹp lắm. Bữa nọ ông điện thoại đến tôi:

– Sư huynh, có một người phát tâm cúng dường tôi bốn mươi ba tỷ. Tôi định phá chùa này để xây chùa mới, ông thấy sao?

Tôi nói:

– Bây giờ ông nhận tiền chưa?

– Chưa, nhưng bà thí chủ gặp tôi rồi.

– Chừng nào cầm tiền trong tay rồi mới tính. Ông nghe lời tôi đi, ông đập ra mà người ta không cúng là chết luôn.

– Thầy cứ nghi vậy không hà.

Bắt đầu ông đập, ông nghĩ sẽ có bốn mươi ba tỷ, cho nên ông vay ngân hàng một tỷ mấy, làm lễ đặt đá lớn lắm. Sau đó ông điện thoại mười lần, lần nào cũng chỉ nghe tiếng nói: “thuê bao quý khách vừa gọi hiện thời không liên lạc được, xin quý khách vui lòng gọi lại sau.” Người đó hứa thật, nhưng khi về nhà gác tay lên trán, bắt đầu ác pháp lấn áp.

Kinh Pháp Cú kể câu chuyện:

Có ông đại phú rất giàu, gần bốn mươi tuổi mà chưa có con. Một hôm ông đi vào khu rừng, thấy một cây cổ thụ, ông nghĩ cây cổ thụ này chắc có thần ở, ông đến đảnh lễ cây cổ thụ nói rằng: “Nếu thần cho tôi có con thì tôi sẽ bảo hộ cây này, không ai được chặt phá, và hằng tháng tôi đều đến cúng cho ông ăn.” Khoảng một tháng sau, vợ ông báo tin có thai. Sanh được con trai đầu lòng, ông đặt tên là Mahapala tức là Bảo trợ anh. Một thời gian vợ ông mang thai, sanh tiếp một đứa con trai nữa, ông đặt tên là Cullapala, tức là Bảo trợ em. Hai anh em lớn lên, cha mẹ mất để lại gia tài rất lớn.

Một hôm trên đường đi công việc về, người anh thấy từng đoàn người nam nữ, già trẻ, tay cầm hương hoa dầu đèn cùng đi chung một đường. Ông ngạc nhiên hỏi, những người này nói là hôm nay có Đức Phật Thích-ca-mâu-ni ngự ở vùng này thuyết pháp cho nên chúng tôi đến nghe pháp và cúng dường. Nghe vậy ông tò mò đi theo.

Thời pháp hôm ấy, Đức Thế Tôn nói về bố thí sanh thiên, tạo các việc thiện pháp, tu tập. Ông thức tỉnh, phát tâm xuất gia. Phật hỏi:

– Ông còn cha mẹ, vợ con, anh em gì không?

– Chỉ còn một người em ruột, bạch Đức Thế Tôn.

– Ông về báo cho em ông biết, nếu em ông đồng ý thì Như Lai sẽ xuất gia cho.

Xuất gia rồi, ở tinh xá Kỳ Viên một thời gian, Tỳ-kheo Mahapala đến xin Đức Thế Tôn đề mục Thiền quán, và rủ thêm sáu mươi thầy Tỳ-kheo vào rừng tu. Tỳ-kheo Mahapala suốt ngày đêm ngồi thiền không ngủ, không đặt lưng xuống chiếu. Thức nhiều quá nên con mắt bị sưng, Đức Thế Tôn cho một y sĩ đến chữa mắt cho ông. Vị y sĩ nói nếu không ngủ chắc chắn con mắt ông sẽ bị hư và bị mù. Ông nói vô số kiếp ông đã từng bị mù mắt nên kiếp này ông không sợ, và vẫn ngồi thiền suốt đêm không ngủ.

Một đêm bỗng nhiên ông đạt đến sự giác ngộ, tức là chứng quả vị A-la-hán, đồng thời con mắt ông mù luôn. Khi trở về tinh Xá Kỳ Viên, tôn giả A-nan rất ngạc nhiên hỏi Phật:

– Tỳ-kheo Mahapala sanh ra trong một gia đình phú hộ, đó là phước thứ nhất. Phước thứ hai là ông ra đời gặp Phật. Phước thứ ba là ông được xuất gia. Nhưng con thắc mắc quá, không hiểu nguyên nhân tại sao ông lại bị mù mắt.

Cho nên khi nghịch cảnh đến gia đình mình, mình nói tại sao mình làm thiện, tại sao mình như thế này, mà lại gặp cái hoàn cảnh như vầy.

Đức Thế Tôn kể:

– Thời quá khứ lâu xa Tỳ-kheo Mahapala là một vị thầy thuốc chuyên chữa bệnh mắt rất giỏi, bệnh nặng cách mấy ông cũng chữa khỏi. Một hôm có một bà già mắt sưng húp, nhức nhối chịu không nổi, đến gặp ông nói:

– Thưa thầy, thầy chữa giúp bệnh cho tôi. Nếu thầy chữa hết bệnh, tôi sẽ đến ở đợ cho thầy suốt đời. Mà không chỉ tôi, hai đứa con tôi, một trai một gái cũng sẽ tình nguyện làm nô lệ cho thầy.

Vị thầy thuốc bào chế cho bà một loại thuốc nước nhỏ mắt. Về nhà, bà nhỏ thuốc vào mắt thì mắt không còn đau nhức nữa, ngày thứ hai thì mắt bớt sưng, ngày thứ ba mắt bà thấy rõ ràng, còn sáng hơn ngày xưa. Bà mừng quá. Khi tâm mừng vừa khởi lên, thì cái tâm gì kế bên quý Phật tử biết không? Bà khởi tâm: “Sao mình ngu quá, mình đến hầu hạ, làm nô lệ thì còn được đi, hai đứa con mình tội tình gì mà phải đến hầu hạ ông ấy. Thôi, bây giờ mình đã có cách.”

Bà đến gặp ông thầy thuốc: “Trời ơi tôi tưởng là thuốc ông hay lắm, tôi nhỏ vào nó nhức hơn nữa. Vậy mà ông nói thuốc ông hay!” Ông thầy thuốc nói trong bụng: “Bà xạo với tôi. Được rồi, bà xạo tôi cho bà chết! Bà nói mắt không thấy đường phải không, tôi cho bà không thấy đường luôn!”

Ông suy nghĩ như thế bà đâu có biết. Ông nói với bà: “Thuốc đó chưa hay đâu, thuốc này còn đặc biệt hơn, bà nhỏ vào không những canh ngày bà thấy, mà canh đêm cũng thấy luôn.” Bà tin quá, bởi vì thuốc đợt trước mới nhỏ ba ngày mà đã sáng mắt rồi. Bà đem lọ thuốc về, nhỏ vào mắt mù luôn.

Phật nói do nhân duyên đó mà ông rớt xuống địa ngục chịu vô lượng khổ, khi tái sanh vào loài ngạ quỷ, hoặc súc sanh, kiếp nào cũng bị mù mắt hết. Và đến đời này sanh lên làm người, gặp Phật, tu chứng quả, cái nghiệp vẫn còn đeo đuổi mãi.

Khi bà già đến gặp ông thầy thuốc, ngay trong giờ phút đó bà dùng tâm gì? Dùng tâm Phật, dùng tâm tha thiết, dùng niệm lành mà nói. Khi bà dùng tâm Phật, dùng niệm lành thì tâm Phật của ông thầy thuốc cũng sống dậy nên mới tương ưng. Nhưng khi mà bà bớt bệnh rồi thì bà dùng tâm ma nói. Tâm lường gạt là tâm ma. Khi tâm ma vừa dấy khởi thì ông cũng dùng tâm ma luôn.

Nhưng quý Phật tử phải chú ý chỗ này, điều đặc biệt nhất trong tinh thần của nhà Phật là, người ta dùng tâm ma làm hại mình, mình dùng tâm ma đối đãi là mình chịu nhân quả. Nếu ông thầy thuốc biết Phật pháp thì ông nói: “Bà lường gạt mình, thôi kệ, miễn sao bà hết bệnh là được.” Nhưng ngay trong giờ phút đó ông mê lầm cho nên gây ra nghiệp, tức là chịu khổ.

Ví dụ có người chửi mắng mình, mình nói: “Ông chửi tôi phải không, tôi mướn xã hội đen xử ông” thì ngay trong giờ phút đó là mình gieo nghiệp ma, nghiệp này ai gánh? Mình gánh, mình khổ. Tinh thần nhà Phật là nhân quả rõ ràng, không có trốn chạy. Có những lúc mình thấy tại sao mình làm thiện, con mình làm thiện, mà sao lại gặp hoàn cảnh này. Là do đời trước chúng ta đã gieo những hạt giống bất thiện nhiều quá. Khi quả nghiệp trổ ra thì không có trốn tránh được. Cho nên tu tập là hằng ngày mình phải gieo niệm lực và nguyện lực thiện pháp để bổ túc cho phương trình đi đến con đường giác ngộ và giải thoát. Rất là cần, không phải chuyện thường đâu.

Đến chùa, lạy lạy xá xá, tưởng vậy là xong, là hoàn thành trách nhiệm của người tu học. Không phải vậy đâu. Có mặt trong cuộc đời này, chúng ta phải tu tập chuyển hóa, phải hóa giải như thế nào để thành tựu trên bước đường giác ngộ và giải thoát. Không phải mình đến mình niệm niệm hai ba câu là xong. Phải bổ túc trong từng sát-na niệm chứ không phải chuyện thường đâu. Niệm ác vừa dấy lên, chúng ta tìm cách chuyển hóa liền, không chạy theo dính mắc, đắm đuối mà gây nghiệp. Hiểu được như thế mình phải tu tập để thấy những cái niệm đó.

Thiền sư Khuê Phong khai thị đồ chúng:

“Làm việc có nghĩa là tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghĩa là tâm cuồng loạn. Cuồng loạn theo tình niệm, lâm chung bị nghiệp lôi. Tỉnh ngộ không theo tình, lâm chung hay chuyển nghiệp”.

Làm việc có nghĩa là tâm tỉnh ngộ. Tức là mình không chạy theo vọng tưởng điên đảo mà mình điều phục ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tâm tỉnh ngộ thì khi lâm chung mình chuyển được nghiệp. Làm việc vô nghĩa tức là mình chạy theo vọng tưởng điên đảo, tạo nghiệp thân, khẩu ý, lâm chung bị nghiệp dẫn lôi, không làm chủ được.

Câu chuyện trong Nghệ thuật sống:

Có hai vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc. Bà vợ rất giỏi, gia tài sự nghiệp là do bà làm ra. Một hôm bác sĩ phát hiện bà bị bệnh rất nặng không thể cứu được. Ông chồng thương bà quá, vào thời đó chưa có máy chụp hình, nên ông nhờ họa sĩ vẽ chân dung bà để hằng ngày ông ngắm nhìn cho đỡ nhớ.

Bà dặn họa sĩ, mũ áo của bà phải vẽ nhiều hạt kim cương đính vào. Ông họa sĩ ngạc nhiên:

– Trên nón trên áo bà không có hạt kim cương nào hết mà sao kêu tôi vẽ? Tôi sẵn sàng vẽ, nhưng bà phải giải thích cho tôi hiểu.

Bà nói:

– Tài sản này do tôi làm ra, tôi nghĩ tôi chết chừng một hai năm là chồng tôi lấy người khác. Người vợ thứ hai của chồng tôi thấy hình tôi mũ áo toàn là kim cương, bà ta tưởng của chồng cho tôi bà ta sẽ xin. Ông chồng tôi làm gì có kim cương mà cho, thì hai vợ chồng sẽ không có hạnh phúc. Tôi thích như vậy đó.

Quý Phật tử thấy giống mình không? Mình chưa vào hoàn cảnh đó, khi vào hoàn cảnh đó mới thấy trên cuộc đời này mình chẳng muốn ai được hạnh phúc khi họ sống với người thân của mình. Tâm thức của bà này ngay trong giờ phút đó gieo nghiệp bất thiện, không muốn ai hạnh phúc.

Cho nên tôi làm bài văn phát nguyện:

Hôm nay con phát nguyện,

Thấy người khác thành công,

Hoặc hạnh phúc gia đình,

Như chính con làm được.

Khi phát nguyện như vậy là mình đã gieo một hạt giống thiện pháp. Thấy người khác được thành công, được hạnh phúc cũng giống gia đình mình thành công, hạnh phúc. Nói như thế là quý Phật tử phải tu thôi, chứ không cách gì khác.

Tổ Đạt Ma khai thị:

“Trong tâm ba độc, đó là cõi nước nhơ nhớp. Trong tâm không có ba độc, đó là cõi nước thanh tịnh.

Trong tâm mình không có ba độc tham sân si, đó là cõi nước thanh tịnh.

Kinh Duy Ma Cật nói:

“Muốn được Tịnh độ là phải tịnh tâm mình, tùy tâm mình tịnh, tức Phật độ tịnh.”

Quý Phật tử có thấy khi nào máy bay đổ xăng ở cây xăng này mà bay được không? Cõi Tây phương tịnh thổ mà Đức Phật diễn tả trong kinh Vô Lượng Thọ, cõi đó không đi bằng máy bay, không đi bằng phi thuyền mà đi bằng tâm, Phật dạy tâm phải tương ưng. Giống như chiếc máy bay, phải đổ xăng thích hợp thì mới cất cánh được. Tâm mình tịnh tức Phật độ tịnh. Muốn được Tịnh độ phải tịnh cái tâm mình trước.

“Giả sử cõi nước chẳng thanh tịnh, nhơ nhớp đầy dẫy mà Chư Phật Thế Tôn hiện ra thì không có việc này.”

“Nhơ nhớp chẳng sạch đó là gốc của vô minh. Chư Phật Thế Tôn tức là tâm thanh tịnh. Tất cả nói năng, tất cả hành động chẳng có gì chẳng phải Phật pháp.”

Ngài Phó Đại Sĩ nói:

Đêm đêm ôm Phật ngủ,

Ngày ngày cùng Phật nằm.

Ngồi đứng hằng theo nhau,

Nói nín cùng chung ở.

Mảy mảy chẳng xa nhau,

Như hình cùng với bóng.

Muốn biết nơi Phật đi,

Chỉ chỗ nói năng đó.

Tối quý Phật tử ngủ có ôm Phật ngủ không? Là ông Phật của mình đó, gọi là đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phật nằm. Đi đứng nằm ngồi đều có ông Phật kế bên. Các Ngài nói mình xuống địa ngục ông Phật này xuống luôn. Khi mình bị cái nghiệp địa ngục tra tấn hành hạ mình biết khổ, cái gì biết khổ tức là Phật rồi. Tánh biết là Phật, chỉ cần quý Phật tử trở về tánh biết, cái gì biết khổ, tức mình giải thoát.

Nhưng mà trở về không được, bởi hằng ngày mình sống với tâm ma mà không sống với tánh biết, không sống với tâm Phật nên mình không được giải thoát. Phật nói nếu chúng sanh ở cõi Ta-bà này không có tâm Phật, thì Như Lai không bao giờ xuống cõi này. Không có tâm Phật thì cả đời cũng không chứng ngộ.

Bây giờ tôi đưa ra ví dụ đơn giản. Chẳng hạn như người ta cho quý Phật tử một hòn đá, đem về không biết làm gì, bởi vì mình thấy hòn đá là hòn đá, nó không có cái gì trong đó. Nhưng nhà điêu khắc tài ba thấy có ông Phật nằm trong đó. Bây giờ muốn Phật hiển lộ thì ông biết phải làm gì. Ông đẽo, gọt, mài, giũa một thời gian thì Phật hiện lên.

Ngay thân năm uẩn của mình Đức Phật biết là có tâm Phật, mà muốn cho ông Phật này hiển lộ thì quý Phật tử phải hoặc là ngồi thiền, hoặc là niệm Phật, hoặc là tụng kinh để cho tâm tham sân, tật đố, ích kỷ của mình rớt xuống. Gọi là đẽo gọt. Khi đến chùa quý Phật tử nghe pháp, tụng kinh cũng là đẽo gọt. Nhưng mình đẽo gọt mười ký về nhà mình đắp lại mười ký, có khi mình đắp hai chục ký, cho nên mình mãi là chúng sanh. Hoặc mình cũng đẽo gọt, cũng mài giũa, nhưng mà mài giũa chút xíu rồi bỏ, giống như củi chuẩn bị phựt lửa thì mình tắt, tắt rồi đốt lại. Cho nên mình tu cứ vậy mãi, không có phát huy được.

Giống như câu chuyện con chim và người thương nhân mà tôi đã kể, con chim muốn thoát ra khỏi cái lồng vàng thì nó phải chết. Đức Phật đã chỉ cho mình, muốn thoát ra khỏi cõi Ta-bà đầy dẫy những cấu nhiễm, vô minh; muốn giải thoát cái thân tâm ngũ uẩn vô thường, mỏng manh tạm bợ của chúng ta để trở về đất Phật, trở về tâm địa của mỗi người, nhận ra tri kiến Phật và sống mãi, thì quý Phật tử phải chết. Chết những tâm niệm quá khứ, chết những tâm niệm xấu ác và sống lại trong ánh sáng vô niệm.

Tinh thần nhà thiền là “tuyệt hậu tái tô”, một niệm chết đi để ngàn năm sống lại. Có một lần nào đó ngồi thiền bặt hết vọng tưởng, rõ ràng thường biết, đó là mình chết. Chết những tâm niệm xấu ác, những hạt giống nghiệp ma thì mình mới sống lại trong ánh quang minh của Đức Phật A Di Đà, vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức. Mà mình không chịu chết! Chẳng hạn đi chùa, mình nghe chuyện gì đó của huynh đệ, chỉ là người ta hiểu lầm với nhau thôi, mình về nhà bấm điện thoại kể lung tung. Đó là mình không chịu chết.

Ở hội của Thiền sư Bạch Ẩn, một hôm Ngài giảng bài pháp, Ngài nói: “Tâm Phật của mười phương Chư Phật đều ở trong tâm chúng sanh. Muốn trở về cõi Tịnh độ rất là đơn giản, chỉ cần các ông tỉnh thức, chỉ cần các ông chánh niệm thì dòng tương tục sinh mạng của ông chấm dứt, tức khắc Phật hiện tiền. Các ông chỉ cần chú tâm thì Phật hiện tại nơi tâm các ông tương ứng với mười phương Chư Phật, không có chuyện gì khó hết.”

Một bà già ngồi dưới pháp hội nghe vậy bà nói: “Trời ơi sao mà đơn giản quá, chỉ cần chú tâm thôi, vậy mà hồi xưa giờ mình tưởng tu khó.” Bà về nhà đi đứng nằm ngồi bà đều chú tâm. Một hôm bà đang rửa nồi, khi bà đặt cái nồi qua một bên thì bà phát minh được tâm địa. Bà thấy tất cả đều là Phật, chỗ nào cũng có Phật.

Bà lên trình Thiền sư Bạch Ẩn:

– Thưa Hòa thượng, bây giờ con thấy Phật rồi, con thấy ánh sáng của Phật trùm khắp, vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức rõ ràng luôn.

– Bà thấy thật không?

– Dạ con thấy thật.

– Cái hầm phân của bà có Phật không?

Bà thoi Thiền sư Bạch Ẩn một cái:

– Ông già này chưa có ngộ.

Thiền sư Bạch Ẩn cười và ấn chứng cho bà. Bởi vì chỗ thanh tịnh có Phật mà chỗ nhơ nhớp không có Phật thì là Phật có ra có vào. Còn Phật tại tâm là khi mình nhận được rồi thì tất cả mọi nơi mọi chỗ, dầu là nhơ nhớp, cái gì cũng là Phật hết.

Thiền sư Pháp Nhãn phát nguyện lễ lạy kinh Pháp Hoa, cứ một chữ ngài lạy một lạy, nhưng đến chữ phân ngài không dám lạy, bất giác ngài ngộ luôn. Khi ánh sáng tự tâm rọi vào, chết đi những vọng niệm điên đảo thì tất cả mọi nơi, mọi chỗ đều có Phật. Đó gọi là gieo tâm Phật thì nơi nào cũng có Phật.

***

Tham Vấn

Hỏi: Trong kinh Pháp Hoa có một đoạn nhân duyên, khi ông trưởng giả sai cùng tử hốt phân, thiền sư Pháp Nhãn thấy chữ phân không dám lạy. Như vậy mình có lạy không thầy?

Đáp: Có gì đâu mà không lạy. Nó là văn tự, có dính gì đâu. Nhưng chính ý nghĩ phân biệt trong tâm niệm khởi lên “tại sao mình lạy cái đó”, tâm vừa khởi lên như thế tức là có tâm phân biệt. Chẳng hạn như cô gặp một người giàu sang, của cải đầy đủ thì kính nể, còn người nghèo hèn không kính, tức là mình có tâm phân biệt giàu nghèo. Còn mình thấy với tâm Phật là bình đẳng, người giàu tri thức cũng có tâm Phật, người nghèo khổ cũng có tâm Phật, thì tức khắc mình sống với tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng là tâm Phật.

Hỏi: Thưa thầy, một người trước mặt thì khen, nhưng sau lưng thì nói xấu, thì tâm người đó như thế nào?

Đáp: Ở đây, tôi dẫn chứng trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ dạy, miệng nói lời thiện, tâm nghĩ điều thiện tức là định huệ đồng đẳng. Còn nếu miệng nói lời thiện mà tâm nghĩ ác tức là định huệ không có. Chẳng hạn như nhà bạn mình hôm qua bị cháy rụi hết, mình đến chia buồn. Miệng mình nói tội nghiệp chị, thương chị quá. Đó là miệng mình thiện. Nhưng mà trong tâm mình nghĩ cho mày chết, hôm qua mày chửi tao, bây giờ mày gặp quả báo rồi đó. Như vậy tâm mình ác. Miệng mình nói điều thiện mà trong tâm mình thương, tìm cách giúp đỡ, tức là tâm và miệng tương ưng, tức là tâm Phật.

Hỏi: Mô Phật, xin thầy giảng cho chúng con rõ về câu “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” trong tứ hoằng thệ nguyện.

Đáp: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” là tứ hoằng thệ nguyện của hàng Bồ-tát. Như Bồ-tát Địa Tạng có một cái câu phát nguyện là: “Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề. Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật.”

Chúng sanh mà chưa độ hết thề không chứng Bồ-đề. Địa ngục chưa hết thì không bao giờ thành Phật. Đó là chúng sanh về hình tướng. Chúng sanh nơi tâm mình: tâm tham, tâm sân, tâm tật đố, tâm ích kỷ mà chưa độ hết thì Bồ-đề không chứng. Tâm địa ngục, tâm xấu ác, tâm vô minh không hết thì sao thành Phật được. Có bao nhiêu chúng sanh đều đưa vào vô dư y Niết-bàn, độ mà không thấy mình đang độ, đó gọi là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.”

Hỏi: Khi ngồi thiền hay tụng kinh thì tâm rơi vào hôn trầm hoặc vọng tưởng. Xin Thầy chỉ con có cách nào đối phó chúng.

Đáp: Người tu thiền sợ nhất hôn trầm và vọng tưởng. Trường hợp bị hôm trầm là do mình tu chỉ mà không tu quán, rồi tâm lâng lâng chìm vào trong sự mê mờ, nghĩa là có định mà không có tuệ. Lục Tổ dạy là định tuệ phải đồng đẳng, trong định phải có tuệ, trong tuệ phải có định thì lúc đó mới tỉnh giác. Trường hợp bị vọng tưởng là do mình tu quán nhiều quá dẫn đến sanh vọng, thì phải chuyển qua tu chỉ. Chỉ quán song tu thì không có hôn trầm mà cũng không có vọng tưởng.

Tâm Kinh Bát Nhã

Tâm Kinh Bát Nhã, hay còn có tựa đề là Tâm Kinh Trí Tuệ Cứu Cánh Rộng Lớn. Quý Phật tử dầu tu pháp môn nào của Đức Phật chỉ dạy, chắc chắn ai cũng thuộc bài Kinh này. Có người thuộc phần âm, có người thuộc phần nghĩa.

Đức Phật chia ra năm thời thuyết pháp, thời Hoa Nghiêm hai mươi mốt ngày, thời A Hàm mười hai năm, nhưng đặc biệt thời Bát-nhã tới hai mươi hai năm. Ý nghĩa tinh thần, năng lực của Bát-nhã rất vi diệu, ba đời Chư Phật cũng từ Bát-nhã mà ra, hay nói khác hơn Bát-nhã là mẹ của mười phương Chư Phật.

Bây giờ học phần sự trước, sau qua phần lý. Trong quyển kinh Tam Bảo Cảm Ứng của Hòa Thượng Thiền Tâm dịch có câu chuyện:

Đời nhà Tấn có một vị Sa-môn, Ngài tên là Thích Đạo Tuấn, chuyên tu Tịnh Độ. Một hôm ngài có người bạn thân đến thăm, vị này là pháp sư chuyên tụng Bát-nhã, nói với Ngài:

– Bát-nhã rất vi diệu . Tại sao thầy không tụng?

Sa-môn Thích Đạo Tuấn nói:

– Tôi chỉ cần sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật là đủ rồi. Tôi không cần Bát-nhã, mà cũng không tin Bát-nhã.

Đêm đó Sa-môn Thích Đạo Tuấn công phu xong, Ngài mới ngủ. Khoảng một giờ đêm Ngài nằm mộng thấy đi qua một cái biển rất lớn, sóng biển nổi cuồn cuộn. Tâm thức Ngài rất hoang mang sợ hãi, bởi vì biển quá lớn mà không có thuyền bè nào hết. Trong lúc đứng trên bờ biển, bỗng nhiên có một chiếc thuyền rất lớn, trên thuyền có ba vị đồng tử với cờ, phướn, lọng. Ngài vẫy tay gọi xin quá giang. Vị đồng tử lớn nhất trên thuyền đứng lên nói:

– Ông không có tin thuyền thì làm sao ông quá giang thuyền được. Mà dẫu cho ông lên chiếc thuyền này, thuyền cũng sẽ chìm.

Sa-môn Thích Đạo Tuấn hỏi:

– Thuyền là gì?

Vị đồng tử nói:

– Thuyền chính là Bát-nhã, ông không tin Bát-nhã, cũng không trì tụng Bát-nhã thì làm sao ông lên thuyền để trở về phương Tây được.

Nói xong thuyền và biển biến mất. Ngài giật mình dậy thấy đang nằm trên giường, người ướt đẫm mồ hôi, biết là nằm mộng. Từ đó về sau người ta thấy Ngài chuyên trì tụng kinh Bát-nhã. Với tâm lành và sự tu học chuyên cần, cuối đời Ngài ra đi an ổn.

Câu chuyện thứ hai:

Một thầy Tỳ-kheo ở Tây Vức sang Trung Hoa. Do có chút ít năng lực nên khi tụng kinh Bát-nhã, Ngài thấy chư Thiên rất đông. Ngài hỏi:

– Tại sao các ông không ở cõi Trời Đao Lợi nghe kinh mà phải xuống đây nghe?

Vị Thiên Tử nói:

– Khi Đức Phật ra đời truyền dạy giáo pháp nói về Bát-nhã thì trên đó cũng có, hiện giờ cũng có một cuốn Kinh Bát-nhã nằm ở Thiện Pháp Đường, nhưng không ai tụng hết. Chỉ có ở cõi Ta-bà này các Tỳ-kheo mới tụng kinh Bát-nhã, cho nên nghe chỗ nào có tụng Bát-nhã, chúng con đều xuống hầu để nghe kinh. Vị Sa-môn hỏi:

– Khi xuống nghe kinh, các ông xuống khoảng bao nhiêu người?

Vị Thiên tử này nói:

– Khi nơi nào có tụng Bát-nhã thì khoảng tám mươi bốn ngàn Thiên tử xuống hầu để nghe kinh.

Đó là năng lực của Bát-nhã.

Câu chuyện thứ ba:

Có bà cụ suốt đời không nghe kinh nghe pháp gì hết. Tuy nhiên bà cũng có một chút duyên lành là con gái bà tin tưởng theo đạo Phật. Một hôm có con trâu chạy vô nhà mà không có dây vàm, cũng không có chủ, bà nghĩ trâu này chắc là trâu rừng nên rượt theo để bắt. Con trâu bị rượt chạy vô chùa, bà cũng chạy theo. Nghe tiếng tụng kinh trong chùa bà bịt hai lỗ tai lại không chịu nghe nhưng vẫn cứ rượt theo con trâu. Khi ngang qua chánh điện, chuẩn bị chụp con trâu, bà phải buông tay ra không bịt lỗ tai nữa để chụp nó. Ngay trong giờ phút bà chụp được con trâu thì tiếng kinh của các thầy Tỳ-kheo tụng Ma Ha Bát-nhã Ba La Mật rớt trong tàng thức của bà. Về sau nhờ năng lực Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này, khi rớt xuống cõi xấu bỗng bà nghe được tiếng Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, tức khắc bà được sanh lên cõi Trời.

Tôi kể ba câu chuyện này để quý Phật tử thấy năng lực của Bát-nhã rất lớn. Từ sáu trăm quyển rút lại còn một quyển là kinh Kim Cang Bát-nhã. Rồi các ngài lại rút tỉa, còn lại hai trăm sáu mươi mấy chữ cho ngắn gọn để chúng ta tụng đọc cho dễ, gọi là Tâm Kinh. Tâm Kinh là kinh gì? Các vị Hòa Thượng thường nói Tâm Kinh là kinh ruột.

Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-Nhã Ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều Không, liền qua hết khổ nạn.

Quý Phật tử biết Bồ-tát Quán Tự Tại là Bồ-tát nào không? Chúng ta thường nói Bồ-tát Quán Tự Tại tức là Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhưng ở đây tôi chia sẻ cho quý Phật tử với cặp mắt của nhà thiền, Bồ-tát Quán Tự Tại chính là mỗi con người chúng ta. Ngay trong giờ phút thực tại này, quý Phật tử đừng nghĩ đông nghĩ tây, đừng có những niệm vọng tưởng chen vào thì ngay trong giờ phút đó quý Phật tử là Bồ-tát Quán Tự Tại. Trong tinh thần nhà thiền, sở dĩ chúng ta khổ là vì thấy có năm uẩn này. Còn ngay trong giờ phút thực tại này quý Phật tử chiếu kiến mà thấy nó không thì tự nhiên mình hết khổ. Thấy từng niệm không có thực thể, không có tự tánh thì đó là chúng ta học Bát-nhã. Ngay trong giờ phút này mình đang hiện diện, đang có mặt thì quý Phật tử không khổ nữa. Nếu quán không được thì cái khổ đến.

Trong kinh Tương Ưng Bộ, một hôm vua Ba Tư Nặc đến thăm Đức Thế Tôn. Vua bạch với Đức Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, con có một thắc mắc mà con nghi vấn mãi, bình thường con ăn một ngày bốn bữa, trong khi các thầy Tỳ-kheo ăn một bữa mà sao sắc mặt rất là vui tươi. Ông nói bài kệ:

Khất sĩ trong rừng sâu,

Mỗi ngày ăn một bữa,

Sao sắc mặt vui tươi.

Quý Phật tử ăn ngày mấy bữa? Ăn nhiều mà mình có những nỗi buồn thì sắc mặc cũng không vui. Hôm nào quý Phật tử không phiền não, không buồn, không giận, không khổ, mình ăn ít mà sắc mặt vui tươi.

Lúc trước tôi có tổ chức một chuyến hành hương Trung Quốc trong ba tuần lễ. Những người cùng đi chưa biết tôi nhiều, nên thường khi đến chỗ dùng cơm trưa đã là một giờ rưỡi chiều. Liên tiếp năm sáu ngày như vậy, tôi chỉ được ăn buổi sáng, buổi trưa đến quán ăn thì đã quá ngọ nên tôi không ăn, chỉ uống một ly nước lạnh là xong. Bởi vì ngày xưa tôi có dạy bốn bộ luật, trước khi dạy tôi phát nguyện nếu quá giờ ngọ mà ăn thì tôi sẽ không dạy hết trọn bốn bộ. Vì đã hứa trước Tam Bảo nên tôi phải giữ. Bốn bộ luật này không phải là khó dạy, nhưng khi đề xướng dạy thì đủ thứ chuyện trục trặc xảy đến, cho nên ít người nào dạy tròn bốn bộ. Nhiều người không hiểu nói tôi làm Phật sự nhiều, có chút đó mà chấp chặt.

Đến ngày thứ bảy, anh hướng dẫn viên người Trung Quốc đến quỳ lạy tôi, hỏi sư phụ có pháp trường sanh không thì chỉ dạy cho anh. Tôi hỏi pháp trường sanh là pháp gì. Anh nói anh ăn ngày bốn bữa mà đi theo tôi leo núi không nổi. Trong khi tôi chỉ ăn buổi sáng, buổi trưa tôi uống nước lạnh mà tại sao tôi leo núi rất là khỏe, sắc mặt tôi không buồn, không khổ, lúc nào cũng vui tươi. Anh ngạc nhiên lắm, nói chắc tôi có bí quyết gì.

Tôi nói tôi chỉ dạy cho anh phương pháp này với điều kiện là anh phải nói thật tôi biết về tài sản, sự nghiệp của anh. Anh nói anh làm hướng dẫn viên du lịch, tài sản anh có là mười hai cái khách sạn rất lớn. Mở khách sạn ở đâu thì anh cưới một người vợ ở đó và giao cho vợ trông coi khách sạn.

Tôi nói vậy thì đúng rồi, anh đi với tôi mà đầu óc anh nghĩ không biết vợ có trung thành không, có lấy cắp tiền bạc của mình không. Có một vợ thì anh còn tin tưởng, nhiều vợ đôi khi lại không tin. Anh giật mình tưởng tôi có thần thông, mà tôi đâu có, chỉ là tâm lý thôi. Vì anh luôn nghĩ đến gia đình, nhà cửa sự nghiệp nên bị hao mòn năng lượng rất nhiều, vì vậy phải ăn nhiều để đắp thêm vô. Còn tôi không nhà không cửa, cái gì cũng không. Mà tất cả đã không rồi nghĩa là cái có không cần nữa, cho nên tôi rất là khỏe, đi đến đâu cũng nhẹ nhàng hết.

Chiếu kiến năm uẩn là Không thì quý Phật tử qua khổ nạn liền, mà chiếu kiến là có thì mình sẽ khổ. Cho nên vua Ba Tư Nặc rất ngạc nhiên là tại sao khất sĩ trong rừng sâu ăn ngày một bữa mà sắc mặt rất vui. Phật trả lời:

Không sầu luyến quá khứ,

Không ước vọng tương lai,

An trú trong hiện tại,

Đoạn dục để giữ mình,

Sáu tình đều nhẹ nhõm,

Nên nét mặt vui tươi.

Người lớn tuổi hay nhớ về quá khứ, quá khứ thì có buồn vui, có sướng khổ. Mà khi buồn vui, sướng khổ đến thì trên nét mặt hiện ra hỉ, nộ, ái, ố. Mấy bà cụ bên Bỉ, bên Pháp, Canada tôi qua thăm thấy tội lắm, chiều cứ ra cửa sổ khóc, nói là nhớ quê hương, mà chỉ toàn nhớ những nỗi buồn. Chúng ta duyên theo về quá khứ rồi chết chìm trên quá khứ. Đức Phật nói mình bị những ngọn sóng quá khứ đánh chìm, luôn luôn đánh mất mình trong hiện tại. Phật dạy không ước vọng tương lai, mà mình thì luôn luôn ước vọng đến tương lai.

Các Thầy Tỳ-kheo luôn an trú trong hiện tại, đoạn dục để giữ mình, sáu tình đều nhẹ nhõm, nên nét mặt vui tươi. Còn người phàm thì Phật nói:

Quá khứ luôn truy tìm,

Tương lai luôn ước vọng,

Như cây khô lìa cành,

Kẻ ngu thường như vậy,

Nên nét mặt khô héo,

Cũng dường như thế thôi.

Ở một thôn làng nọ có cô gái tên Nguyễn Thị Bông, nhà cô nuôi ong rất nhiều. Một buổi sớm, mẹ bảo cô đem hũ mật ong lớn ra chợ bán, tiền bán mật tùy ý cô muốn mua gì cũng được. Đến nơi thì chợ chưa mở cửa, trong lúc đứng đợi cô suy nghĩ, bán được mật ong sẽ mua bầy gà về nuôi. Bầy gà lớn cô sẽ bán lấy tiền mua bầy bò. Bò lớn cô bán bò mua bầy ngựa. Sau khi bán ngựa cô cất biệt thự. Cất biệt thự rồi tiền vẫn còn, cô đi thẩm mỹ viện sửa sắc đẹp. Từ khi sửa sắc đẹp, rất nhiều người đến cầu hôn. Một hôm có một anh chàng tướng mạo khôi ngô tuấn tú đến cầu hôn cô. Cô mắc cỡ ẹo người làm duyên, hũ mật ong rớt bể! Là nãy giờ cô làm gì? Vọng tưởng! Vọng tưởng gì? Vọng tưởng tương lai mình mua bầy gà, bầy bò, bầy ngựa, rồi cất biệt thự, sửa sắc đẹp! Cho nên có người đọc đến chỗ này họ làm bài thơ:

Loi ngoi đã nửa kiếp người,

Xuân thu trên nửa nụ cười xanh xao.

Rõ ràng mở mắt chiêm bao,

Biết như mộng huyễn cũng đau xé lòng.

Ngửa tay có được gì không?

Họa chăng những hạt bụi hồng li ti.

Không có gì hết! Lúc ra đi mình ngửa tay bụi hồng, đúng không? Tinh thần của nhà Phật không phải để cho mình bi quan yếm thế, mà để cho mình thấy bản chất cuộc đời là như thế, để chúng ta chiếu kiến năm uẩn không có thật. Khi quý Phật tử chiếu kiến năm uẩn không thật thì quý Phật tử không còn buồn khổ gì nữa.

Bát-nhã chia ra ba phần, một là văn tự Bát-nhã, hai là quán chiếu Bát-nhã, ba là thật tướng Bát-nhã. Hằng ngày quý Phật tử đọc tụng gọi là văn tự. Mình đọc không cũng chưa được mà phải quán chiếu để trở về cái thật tướng.

Này Xá-lợi-phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc.

Tại sao không nói cho ngài Mục-kiền-liên, không nói cho ngài Đại-ca-diếp hay ngài La-hầu-la, mà nói cho trưởng lão Xá-lợi-phất? Bởi vì trưởng lão Xá-lợi-phất là tiêu biểu cho trí tuệ đệ nhất, là nguyên soái, là thượng thủ của chánh pháp. Nghĩa là muốn học Bát-nhã phải trang bị trí tuệ để thấy rõ bản chất không thật của các pháp. Cái thân của mình là sắc, không phải đợi nó hoại diệt mới là không. Ngay trong cái sắc đó thấy được nó không có thực thể tức là không. Mà ngay cái không đó, đủ nhân đủ duyên nó hợp lại thành sắc. Đó là tinh thần của Bát-nhã.

Bây giờ qua phần công phu. Chẳng hạn đang ngồi thiền, không có manh động một vọng tưởng nào hết, không có duyên theo sự kiện, không có mống niệm nào, đó là không. Bỗng nhiên mình khởi lên đủ thứ chuyện tức là sắc.

Thêm một ví dụ: Có một ông Tăng đến hỏi Thiền sư Bạch Ẩn:

– Thế nào sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc?

Ngài không giải thích mà nói một câu:

– Ô hô, một bát canh ngon có hai cục cứt chuột.

Quý Phật tử hiểu chỗ đó không? Chẳng hạn người ta đem cho mình một tô cơm, ngay trong giờ phút đó mình không thấy gì là gớm hết, đó là không. Bỗng nhiên mình thấy hai cục cứt chuột, tự nhiên không dám ăn nữa. Mình gớm, ngay chỗ đó là sắc. Sắc tức là không, ngay chỗ không tức là sắc. Ngay chỗ đó mà không dấy niệm, mình cũng bình thường, lấy hai cục cứt chuột bỏ ra một bên thì sắc tức là không. Ngay chỗ không niệm đó mà khởi tưởng lên mình duyên theo một dọc, con chuột vào tô cơm đi vệ sinh… thì không tức là sắc. Muốn được cái không thì đừng có dấy niệm gì hết. Việc này rất là khó, phải thực tập.

Quốc sư Đại Đăng ở Nhật Bản khi làm quốc sư, Ngài nghĩ sống sung sướng quá nên đạo chưa đến. Ngài quyết định xuống dưới gầm cầu Tokyo ở hai chục năm, các đệ tử đến Ngài đuổi về hết. Có một ông trưởng tử nhất quyết đòi ở với Thầy. Đêm đầu tiên người ăn mày kế bên chết, ông phải phụ Thầy khiêng xác đi chôn. Chôn xác người ăn mày xong, trưa hôm sau ông nhắc Thầy đi khất thực, Quốc sư Đại Đăng nói bát cơm của người ăn mày xin hôm qua còn dư nên không cần đi khất thực. Ngài sớt một nửa bát cơm cho đệ tử, đệ tử ói không ăn được trong khi Ngài ăn bình thường. Lúc này Quốc sư nói cảnh giới này là cảnh giới Bát-nhã, chỉ có bậc thượng nhân mới ở được. Đó là tinh thần Bát Nhã: sắc tức là không, không tức là sắc.

Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.

Tức là năm uẩn. Khi đã chiếu soi sắc là không thì cảm thọ của mình cũng không có thật. Tưởng, Hành, Thức cũng không có thật.

Này Xá-lợi-phất, tướng Không của các pháp không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong tướng không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Cái gì cũng không hết.

Thiền sử có câu chuyện:

Thiền sư Động Sơn năm mười hai tuổi làm chú tiểu, đọc đến chỗ không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, Ngài đắp y lên thưa với thầy trụ trì:

– Thưa thầy, trong kinh Bát-nhã nói không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, con có đủ hết tại sao nói không?

Quý Phật tử thấy các vị Tổ tái lai khác hơn người thường. Thầy trụ trì nói:

– Vậy là ông có duyên với Thiền Tông rồi, thôi để tôi gửi đến chỗ ngài Nham Đầu. Tôi giải thích không được, nhà Thiền mới giải thích được.

Từ đó Ngài học thiền, mới mười hai tuổi thôi. Ban đầu Ngài học về giáo, khi tụng đọc đến phần này thì thắc mắc, còn mình tụng thì cứ tụng thôi, chớ mình không thắc mắc tại sao Phật nói như thế. Người có căn cơ bậc thượng đọc đến đâu người ta thắc mắc đến đó. Đừng có nói căn cơ gì, ngày xưa chúng tôi vào học pháp với Hòa Thượng, ngài dạy về pháp Tri Vọng, tôi cũng ôm ấp: tại sao là Tri vọng, lấy cái gì để mà Tri? Nhờ thắc mắc như thế khi vào thất mình mới khám phá được sự kỳ diệu của pháp Tri Vọng. Còn như kêu mình niệm Phật thì cứ niệm thôi, mình không có ôm ấp là tại sao phải niệm Phật, tại sao Phật nói về thế giới đó. Mình tìm tòi, có một lúc bùng vỡ lên gọi là ngộ.

Vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Đạt Ma:

– Trẫm cất chùa độ tăng, làm tất cả các việc công đức, như vậy có công đức hay không, công đức này lớn hay nhỏ?

Tổ Đạt Ma khẳng định:

– Không có công đức.

Bởi vì trong tướng Không không có những cái đó, tướng đó là tướng hữu vi, tướng sanh diệt như hình với bóng. Vua Lương Võ Đế hỏi:

– Thế nào là công đức chân thật?

Tổ Đạt Ma nói:

– Trí thanh tịnh thể vắng lặng, công đức này từ bên trong mà được chứ không phải bên ngoài.

Vua hỏi tiếp:

– Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa?

Tổ Đạt Ma nói:

– Rỗng rang, không có Thánh.

Ngay trong bản thể nhất như đó không có Thánh, không có phàm, không có năng, không có sở, không có chủ, không có khách.

Tướng không của Bát-nhã là quét sạch hết. Học Bát-nhã là để phá tất cả các tướng. Nhưng đến tinh thần của Kinh Niết Bàn thì Phật dựng lại tất cả tướng, để chỉ ra pháp tánh, chỉ ra Niết-bàn. Cho nên học Bát-nhã là phá hết, không có dính mắc tướng. Không dính mắc tướng không phải là vướng cái Không, mà phá cái Không và cái Có, đi theo con đường trung đạo đế, đệ nhất nghĩa đế. Đừng nói học Bát-nhã cái gì cũng chấp không, không phải!

Có vị tăng tên là Thiết Chu, một hôm đến chùa Tướng Quốc thưa với Thiền sư Độc Viên:

– Thưa Hòa Thượng, con thấy cái nhà này không, Hòa Thượng không, con cũng không, tất cả vạn pháp đều không. Chủ không, khách cũng không; ta không, người cũng không.

Khi ông nói không như vậy. Sẵn cái dùi chuông, Thiền sư Độc Viên gõ lên đầu ông cái bốp sưng một cục. Ông nổi sân:

– Tại sao Hòa Thượng đánh con?

Thiền sư Độc Viên nói:

– Ông nói cái gì cũng không mà tôi gõ lên đầu ông là thành có rồi.

Không là không thực thể. Tinh thần của Bát-nhã là chơn không mà diệu hữu. Phải có cái nhìn xuyên suốt giữa cái Không và cái Có.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh có bài kệ:

Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không.

Có không, bóng nguyệt lòng sông,

Ai hay không có, có không là gì!

Ai hay được chỗ có và không? Có và không giống như hình bóng mặt trăng in xuống lòng sông vậy, nó không có thật. Tinh thần của Bát-nhã là như thế.

Một hôm có vị cư sĩ đến gặp Thiền sư Trí Tạng Tây Đường hỏi:

– Bạch Hòa Thượng, có nhân quả không?

Thiền sư Trí Tạng:

– Có.

– Có địa ngục không?

– Có.

– Có thiên đường không?

– Có.

– Có tội không?

– Có.

– Có phước không?

– Có.

– Hòa thượng có nói lầm không?

– Hồi nãy đi đến đây ông gặp ai?

– Hồi nãy trước khi đến gặp Hòa thượng thì con gặp ngài Trường Sa Cảnh Sầm.

– Ông gặp ngài Trường Sa Cảnh Sầm ông hỏi cái gì?

– Ngài Trường Sa Canh Sầm nói với con là không có nhân, không có quả; không có tội, không có phước; không có thiên đường, không có địa ngục. Cái gì con hỏi Ngài cũng nói không hết, mà tại sao Hòa thượng nói có.

Thiền sư Trí Tạng hỏi:

– Ông có nhà không?

– Dạ có.

– Ông có xe không?

– Dạ có.

– Ông có vợ không?

– Dạ có.

– Ông có con không?

– Dạ có.

– Còn ngài Trường Sa Canh Sầm có vợ không?

– Dạ không.

– Có con không?

– Không.

– Thì Ngài nói không là đúng. Còn ông, cái gì cũng có là phải có.

Trên tinh thần bản thể là không, các Ngài không còn duyên theo tất cả có không nữa thì các Ngài có quyền nói không. Còn mình có, là có tự mảy may, nếu không thì cả thế gian này cũng không. Nhớ kỹ một điều, có không chỉ là cái bóng thôi. Khi chúng ta ngủ nằm mơ thấy cọp rượt, thấy bị người đánh đập, tỉnh rồi thì tự nhiên những thứ trong mơ đó mất. Người mà ngộ đạo thể nhập tánh không rồi cũng như thế. Những cảnh tượng chúng ta thấy đều tan biến hết. Đó là tinh thần của Bát-nhã.

Không có nhãn giới, không có ý thức giới.

Tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức.

Không có vô minh, cũng không có hết vô minh. Không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ cũng không có chứng đắc.

Căn bản của nhà Phật là Tứ Diệu Đế: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Nhưng mà ở đây nói không có Khổ, không có Tập, không có Diệt, không có Đạo.

Khổ đế là gì? Sanh, già, bệnh, chết; Oán tắng hội khổ; Ái biệt ly khổ; Cầu bất đắc khổ; Ngũ ấm xí thạnh khổ; Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Tức là có những cái khổ luôn đi theo mình. Phật nói sở dĩ có Khổ là do Tập. Khổ là quả mà Tập là nhân. Chúng ta khổ là do gieo nhân tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ, nghi. Mười tập nhân đó tạo nên cái khổ. Muốn hết khổ chúng ta phải học Phật pháp.

Đạo, tức là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Trong ba mươi bảy phẩm Trợ đạo có Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, Ngũ căn ngũ lực, Thất giác chi. Trong ba mươi bảy phẩm Trợ đạo đó chúng ta đã học chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Khi học Phật pháp thì cái khổ này hết, vì Tập mình không gieo nữa, thì con đường Niết-bàn có mặt tức là Diệt đế. Trong tinh thần Bát-nhã là không có khổ, không có tập, không có diệt, không có đạo, đó là các ngài chỉ thẳng bản thể. Bởi vì bản thể, thật tướng không có những cái này, nhưng phương tiện thì chúng ta phải học. Học từng bước, từng bước chúng ta đi lên.

Tôi đưa ví dụ cho dễ hiểu. Có hai người đồng ra biển, người thứ nhất vừa nổ máy ca nô liền chạy ra biển. Còn người thứ hai cũng nổ máy nhưng chiếc ca nô không chạy ra biển mà chạy vòng vòng. Người có trí tuệ biết rằng sở dĩ chiếc ca nô không chạy được vì nó bị dính rác, dính rong. Muốn cho bánh lái chạy được, phải xuống gỡ từ từ. Ca nô thứ nhất tiêu biểu cho các bậc thượng căn, giống như Lục Tổ Huệ Năng, nghe là ngộ liền. Còn mình nghe thì nghe chứ không ngộ gì hết, vì mình bị cỏ rác bám mình, bây giờ mình phải gỡ từ từ. Nên mình phải học từ từ, phải đi từng bước.

Vì không có chỗ chứng đắc, Bồ-tát y theo Bát- Nhã Ba-la-mật-đa tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-Nhã Ba-la-mật-đa được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát-Nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú.

Nếu quý Phật tử muốn không sợ khổ hãi nữa thì phải nương theo Bát-nhã tu học. Ở đây nói ba đời Chư Phật cũng từ Bát-nhã mà ra. Có người hỏi tôi: “Bạch thầy, trong các bài chú, chú nào lớn nhất?” Tôi nói “chú Bát-nhã”. Tại sao tôi dám nói chú Bát-nhã? Ở đây nói Đại thần chú, Đại minh chú, Vô thượng chú, Vô đẳng đẳng chú. Vô đẳng đẳng nghĩa là không có chú nào lớn hơn nữa.

Hay trừ được hết thảy khổ, chân thật không dối.

Lời này là chân thật không có hư dối, Phật nói không có hư dối được. Sở dĩ quý Phật tử tụng tất cả các bài chú mà khổ là vì chấp mình có nên phiền não. Tụng bài chú này mình chiếu kiến năm uẩn đều không thì hết khổ được an vui, như vậy thật chú này là lớn rồi. Bài Tâm kinh rất là ngắn gọn đơn giản nhưng hằng ngày chúng ta cứ thực tập chiếu soi, một lúc nào đó năm uẩn mình rỗng thênh, bể vụn, thì ngay trong giờ phút đó chúng ta hết khổ, đó là chúng ta hiểu được ý nghĩa về Tâm Kinh.

Mỗi khi tụng đọc kinh điển Đại Thừa xong thì chúng ta đều tụng đọc bài Tâm Kinh Bát-nhã; điều đó để thấy rằng, dầu cho học bất cứ bài kinh nào mà chúng ta không trang bị trí tuệ thì Phật nói chúng ta giống như một con vẹt, nó nghe người ta nói Mô Phật nó cũng Mô Phật mà không biết Mô Phật là gì! Mình học kinh điển là để mình biết ý nghĩa Phật nói gì, tiếp theo mình phải trang bị Bát-nhã, là phải dùng trí tuệ Bát-nhã để chiếu kiến năm uẩn đều không thì tức khắc mình qua hết khổ nạn.

***

Tham Vấn

Hỏi: Bạch Thầy, bình thường ba giờ sáng con dậy để ngồi thiền, nếu hôm nào mệt con không dậy đúng giờ thì có người như bắt con dậy. Con khấn thầm cho con thức lại giờ khác, tức là bốn năm giờ con mới dậy ngồi thiền thì mới thôi. Nếu đến giờ hẹn đó mà không dậy, lại như có người bắt phải dậy. Thỉnh thoảng trong khi đang thiền, con nhìn thấy đầu lâu, hoặc có khi rất nhiều bộ xương. Bạch Thầy, con tu thiền và con tu cả Mật Tông, niệm chú và bắt ấn, con tự học ở trên mạng. Xin Thầy chỉ dạy những điều trên.

Đáp: 1- Nói về tâm sinh lý, nếu chúng ta có tâm tu học mà 3 giờ sáng không dậy thì cũng trằn trọc không ngủ được. Nói về thế giới siêu hình, nếu chúng ta tu mà giới đức được thanh tịnh, hoặc mình có túc duyên với cõi siêu hình thì được Chư Thiên hoặc là Long Thần Hộ Pháp báo cho mình biết giờ giấc để chúng ta tu học. Nhưng chúng ta đừng có chấp, nếu chấp thì thành bệnh. Bởi vì chấp thì cái ngã của mình lớn thêm, thấy rằng mình được Chư Thiên, được Hộ Pháp báo mộng còn mấy ông Thầy không được. Cái ngã chen vào thì trở thành bệnh. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà. Bất khởi thánh tâm, tức thiện cảnh giới”. Tức là nếu cho mình chứng thánh, mình hơn người ta thì mình rớt trong đường tà, năm mươi ngũ ấm ma. Còn nếu mình cho đây là bình thường thì đó là cảnh giới thiện do mình dụng công nó xuất hiện. Hiểu ý nghĩa đó là chúng ta không có sợ hãi.

2- Quý Phật tử trước khi vào cổng Thiền viện Pa-Auk bên Miến Điện sẽ thấy một bộ xương, là bộ xương cô hoa hậu nổi tiếng nhất Miến Điện. Trước khi chết cô để lại di chúc là gia đình đừng chôn cô mà đem để ngoài rừng cho quạ, chim ăn. Khi quạ chim ăn hết chỉ còn bộ xương, người ta đem về lấy rượu rửa thật sạch rồi để trong tủ kiếng, dưới ghi câu: “Sắc đẹp mỹ miều ngày xưa nay còn đâu!” Để cho quý Thầy và tất cả những người có tu học đến quán chiếu.

Ngồi thiền thỉnh thoảng thấy đầu lâu hoặc những bộ xương là túc duyên đời trước có tu về quán bất tịnh. Trong giờ phút đó đừng sợ hãi thì bình thường thôi. Còn nếu mình sợ thì chắc chắn sẽ sanh nhiều duyên khác.

Thiền thoại kể lại, Thiền sư Ngung có một đặc điểm là ngài nhìn thấy thế giới siêu hình. Một hôm đang ngồi thiền có một con quỷ không có đầu đến nhát Ngài. Gặp mình sợ không? Ngài nói với quỷ: “Nói thật với ông, trên đời này ông là sướng nhất, vì ông không có cái đầu. Sở dĩ tôi khổ là vì tôi có cái đầu, nó suy nghĩ lung tung hết.” Nghe vậy con quỷ biến mất. Lát sau con quỷ thứ hai không có tay đến, Ngài nói: “Nói thật với ông, trên đời này ông là sướng nhất, vì ông không có tay. Sở dĩ tôi phạm vào giới trộm cướp là vì tôi có tay, hay lượm cái này hay bỏ cái khác.” Con quỷ cũng biến mất. Rồi nó biến hiện đủ cảnh giới hết, biến hiện đến đâu Ngài quán đến đó, gọi là chiếu kiến năm uẩn không có thật, cuối cùng quỷ biến mất.

Khi chúng ta thấy hiện tượng rồi chúng ta quán chiếu, cái gì thấy được hiện tượng đó? Trở về chỗ tánh biết thì hiện tượng đó mất. Có những lúc chúng tôi nhập thất, đang ngồi yên, bỗng nhiên có tiếng lảnh lót kêu tên mình, vừa nghe là tôi xả thiền rồi mở cửa ra, thấy trời tối đen không có gì hết. Vô ngồi nó kêu lại lần nữa, kêu đúng tên mình. Thì mình biết rằng những hiện tượng này là do mình có túc duyên với những cõi đó, nên nó đến quấy rầy trong lúc mình ngồi thiền. Ngay trong giờ phút đó nếu mình sợ rồi xả thiền, lên trùm mền ngủ thì mất công phu của mình. Nó làm cho mình sợ để mình lỡ mất công phu mà. Ngay trong giờ phút đó mà mình chánh tâm, chánh niệm, trở về chỗ thật tướng thì những hiện tượng đó biến mất không còn gì nữa. Nhớ kỹ là những hiện tượng đó giống như là cái bóng vậy thôi chứ không có thật.

3- Quý Phật tử này tu thiền kiêm tu Mật. Ở đây mình không bàn sai hay đúng, nhưng quý Phật tử nhớ, bất cứ tu pháp nào cũng phải có một vị Thầy chỉ dạy chứ mình đừng coi trên mạng. Ngày xưa trước khi tôi biết Hòa thượng Trúc Lâm, tôi cũng đã học qua những pháp này. Có những cái ấn nếu mình học thì bắt buộc mình phải không được cái này không được cái kia. Chẳng hạn bắt buộc không được có gia đình, cái ấn đó để hàng chư tăng người ta học. Mà phải là cấp độ mấy, phải tu học bao nhiêu năm thì mới được Thầy truyền ấn pháp. Có thứ ấn mà khi bắt thì phải quán chiếu ở trên đỉnh đầu một chữ gì đó về Mật pháp. Trong lúc quán chiếu, nó là màu xanh, màu đỏ, màu vàng, màu tím gì, mình phải đi vào trung tâm đó như thế nào thì phải có thầy hướng dẫn. Hoặc học pháp ấn đó thì phải ở trong thất bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng theo quy định. Nếu vậy, một là mình phải qua Tây Tạng, hai là đến chỗ Ngài Lạt Ma 14. Nếu quý Phật tử học thì phải có thầy để các ngài hướng dẫn cho cặn kẽ.

Hỏi: Thưa thầy, trong lục thông, thì có lậu tận thông, xin thầy giải thích cho chúng con rõ như thế nào là lậu, như thế nào là tận?

Đáp: Theo tinh thần Thiền tông, tôi giải thích từng lớp cho dễ hiểu. Lục Thông là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông. Lậu tận là hết sự rỉ chảy, không còn rỉ chảy những tập khí nữa. Những tập khí đời thường của mình có những cái bỏ được rồi, nhưng tự nhiên cũng thèm chút chút, chẳng hạn thèm thuốc, thèm rượu, thèm bia… Mình không muốn mà tại sao có những hiện tượng này? Đó là những tập khí. Các ngài tu làm thế nào để sạch hết những tập khí này. Những sự rỉ chảy không còn sót nữa là các ngài chứng vào quả vô sanh, tức là chứng quả A-la-hán. Còn nếu chúng ta chứng đến ngũ thông rồi, thiên nhĩ thông, thiên nhãn thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông mà không chứng vào chỗ lậu tận thông, thì có một lúc nào đó chúng ta bị đứt thần thông.

Uất-đầu-lam-phất chứng được ngũ thông mà lậu tận thông chưa chứng. Khi về cung vua ông thường được vua cúng dường. Một hôm vua có việc đi vắng nên dặn cô công chúa mười tám tuổi: “Sáng nay sẽ có một vị tiên nhân từ trên núi xuống, con nhớ cúng dường.” Sáng sớm Uất-đầu-lam-phất dùng thần thông bay từ trên núi xuống thành phố, vào cung vua. Cô công chúa ra cúng dường, để hai bàn tay dưới chân ông, đảnh lễ cung kính. Vị tiên nhân Uất-đầu-lam-phất dấy niệm, khi phi hành để bay lên thì đứt thần thông rớt xuống. Ông kêu quân sĩ thắng ngựa cho ông ngồi lên. Dân chúng hỏi tại sao ngài không bay mà đi xe ngựa. Ông nói không muốn bay nữa.

Trở về ông ngồi thiền để luyện lại. Khi ngồi bên bờ suối, dưới thì cá lội ồn ào, chim trên trời kêu cũng ồn, ông nguyện đời sau sinh ra làm con chồn bay để dưới nước thì ăn cá, trên trời thì ăn chim. Sau này Phật thọ ký, hưởng hết cõi trời phi phi tưởng rồi thì ông rớt xuống làm chồn phi ly, tức là con chồn có cánh, muốn ăn chim thì bay lên trời ăn chim, muốn ăn cá thì lội xuống suối ăn cá. Ngày xưa đọc truyện này tôi tưởng là chuyện đời xưa, nhưng coi trong thế giới động vật mới thấy có một loài chồn có hai cánh, trên thì ăn chim, dưới ăn cá.

Tinh thần nhà Thiền nói cũng không hết ý mà chúng ta phải dụng công, phải tu học, phải kiến tánh. Kiến tánh rồi thì những rỉ chảy, những tập khí bắt đầu hao mòn và bớt từ từ. Muốn cho dứt hẳn, các ngài nói mình phải vào ẩn sâu trong núi. Như ngài Quốc sư Huệ Trung, bốn mươi hai năm ở trong núi. Ngài Triệu Châu ở ba chục năm, ngài Nam Tuyền, ngài Đức Sơn. Ở đây nói rõ một điều là muốn đạt đến chỗ đó chúng ta phải gia công, phải dụng công, nhiều khi đời này chưa xong mà đời khác, nhiều đời tiếp tục nữa.

Có nhiều người tu pháp môn Tịnh Độ, tu cũng chưa xong, mà ở đây hoàn cảnh không thích hợp, cho nên các ngài chỉ ra, ở Tây phương thế giới tịnh thổ có một cõi như thế, như thế. Tu với thánh chúng dễ, đơn giản hơn, thì mình lên đó mình tiếp tục tu. Cho nên mình phải phát nguyện đời đời kiếp kiếp tu học mãi mãi, giống như hồi sáng chúng ta phát nguyện, để cho những tập khí rỉ chảy không còn nữa, thì lúc đó mình thành tựu.

Hỏi: Xin thầy giải thích cho con, khi con nghe giảng kinh, online hoặc nghe trực tiếp thì đều buồn ngủ. Thứ hai là xin thầy cắt nghĩa cho con biết khi nào thì dị đoan mê tín, khi nào là chánh pháp? Xin xăm có đúng hay không? Cầu cơ có đúng hay không?

Đáp: 1- Vào thời Đức Phật, Tôn giả A-na-luật nghe Phật thuyết pháp cũng ngủ. Phật giảng mà còn ngủ nói chi là quý thầy. Khi tôn giả A-na-luật ngủ, Đức Phật quở, Đức Phật nói: “Trong luân hồi vô lượng kiếp, ông ngủ nhiều lắm.”

Bây giờ khoa học tính, giả sử con người thọ một trăm tuổi, hết năm chục năm là ngủ, hai mươi lăm năm nói chuyện thị phi, chỉ có hai mươi lăm năm tu học thôi. Có nghĩa là sự tu học của mình rất ít, mà nói chuyện thị phi trên trời dưới biển, trên sông dưới nước hai mươi lăm năm, còn năm chục năm là ngủ!

Phật quở “Ông ngủ nhiều rồi! Ông đã từng làm con sâu, con bọ, con gián, con trùn, đủ thứ các loài chúng sanh. Ông trải qua hết rồi mà tại sao ông còn ngủ!” Nghe Phật dạy như thế, cuối cùng ngài quyết định thức, hoàn toàn không ngủ cho nên Ngài bị mù mắt. Đức Phật dạy cho ngài phương pháp gọi là Kim cang biến chiếu tam muội, để ngài tu chứng được thiên nhãn thông.

Khi nghe giảng kinh pháp mà ngủ là mình biết nghiệp nặng. Ngày xưa khi còn ở ngoài đời, tôi nghe Hòa thượng giảng tự nhiên tôi khóc, tôi biết là có duyên. Chẳng hạn như quý Phật tử đi ra chợ, bỗng nhiên ở trong đám đông mình thấy có một người thân là chị, hoặc em, hoặc cha, hoặc mẹ đã mất tích hai chục năm, bây giờ quý Phật tử khóc hay là cười? Khóc chứ! Thì cũng vậy, kinh điển này là do túc nghiệp đời trước mình có gieo, tự nhiên nghe xúc động rồi khóc. Hoặc là mình có tâm hào hứng để nghe pháp, có một cái gì thúc giục. Còn mình nghe mà ngủ là biết rồi đó.

Trong kinh Bách Duyên có kể câu chuyện:

Vào thời Đức Phật có bốn đoàn thương nhân đến thỉnh Đức Phật nói một thời pháp. Khi thời pháp Đức Phật vừa dứt, tôn giả A-nan quỳ xuống thưa:

– Bạch Thế Tôn, thời pháp hôm nay Đức Thế Tôn giảng con chưa từng được nghe, bài pháp đặc sắc đến nỗi lông con dựng ngược. Mà sao nhìn xuống pháp hội con thấy tốp thứ nhất thì ngủ, tốp thứ hai thì cứ gõ gõ, tốp thứ ba ngó lên trời. Chỉ có tốp thứ tư là chăm chú nghe Đức Thế Tôn giảng.

Thế Tôn nói:

– Tốp thứ nhất từ loài rắn, năm trăm năm mới đầu thai lên, cho nên bây giờ nghe kinh ngủ li bì. Tốp thứ hai nghe giảng mà cứ gõ gõ là loài gõ kiến mới đầu thai lên. Họ ở trong loài súc sanh này cũng năm trăm kiếp, bây giờ mới đầu thai lên làm người nên còn tập khí gõ. Tốp thứ ba chỉ nhìn lên trời, những vị này đời trước năm trăm kiếp làm chiêm tinh, tức là coi sao. Tốp thứ tư chăm chú nghe giảng là những người đời trước có học về các bài chú trong Phạm Thiên, cho nên bây giờ họ chú tâm nghe.

Trong lúc nghe pháp mà ngủ, là biết mình từ cõi nào lên. Tôi nuôi chúng, khoảng một hoặc hai giờ đêm tôi hay thức dậy đi dạo một vòng, chú nào ngủ sấp, ngủ ngửa gì là mình biết ở cõi nào đến. Trong lúc mất bình thường, tức là lúc ngủ mê, nó biểu hiện ra hình tướng hết. Trong lúc nghe pháp mà ngủ, mình gật gật là phải về sám hối nhiều. Đó là nghiệp thức của mình.

2- Khi nào gọi là dị đoan mê tín, khi nào là chánh pháp? Tôi giải thích cho quý Phật tử hiểu một điều nhỏ trong đời sống. Chẳng hạn như ở Việt Nam có tục lệ khi cha mẹ mất, ba ngày sau đi mở cửa mả. Cái này không phải của đạo Phật mà đạo Lão, du nhập từ Trung Quốc. Mở cửa mả thì dắt theo con gà, đem cây mía, mớ ngũ cốc. Con gà tiêu biểu cho gà con mất mẹ, mất cha mất mẹ giống như con gà cô đơn, không chỗ nương tựa. Cây mía tiêu biểu cho cha mẹ bỏ công sức nuôi con khôn lớn, bây giờ ốm tong ốm teo như cây mía. Còn rải ngũ cốc ở trên mồ mả, có ý nghĩa là khi sống khi chết đều nhờ vạn vật. Bây giờ có những người chết đem thiêu rồi mở cửa mả ở đâu? Cho nên chuyển theo tinh thần nhà Phật, là ba ngày mình cũng đến cửa mả mình chăm sóc sửa sang lại mồ mả, vì lúc chôn đạo tì họ cũng làm sơ sài thôi. Rồi mình đốt một đống lửa sưởi ấm cho cha mẹ mình, giống như có mặt mình. Rồi anh em, bà con cô bác ngồi kể lại những công ơn của cha mẹ. Đó gọi là tinh thần của Phật pháp, là chánh pháp.

3- Nói về xin xăm, cầu cơ đúng hay sai thì ở đây mình không bàn, bàn mất lòng thiên hạ. Cái này không phải đạo Phật, mà đạo Lão du nhập vào Việt Nam, là phương tiện thiện xảo của những người xưa. Các ngài đến vùng đó, thấy người ta cần thì phương tiện. Khi xin xăm thì trong lá xăm nói là: “Ông bị nạn, ông muốn vượt khỏi cái nạn này ông phải bố thí cúng dường, phải hành thiện, tích đức thì mới vượt qua được.” Khi có nạn thiệt mình sợ, mình làm những việc thiện này thì tự nhiên phước mình tăng thì nạn hết, đơn giản vậy thôi.

Về tướng số cũng có chứ không phải không. Nếu không thì tại sao Đức Phật ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tướng lấy từ thời quá khứ cộng lại biểu hiện trên khuôn mặt.

Ma Y thần tướng vào kỹ viện được cô người hầu bưng cho một tách trà. Nhìn tướng cô ông giật mình, vì tướng cô này tệ lắm cũng làm đệ nhất hoàng hậu. Ông thắc mắc quá nên để ý coi ba ngày ba đêm mà vẫn không hiểu tại sao cô lại làm người hầu. Cuối cùng ông hỏi cô, cô nói cô bị tiểu són, phải thường xuyên vào nhà vệ sinh. Ông nói đúng rồi, cái tướng này nó phá các tướng khác. Muốn tướng thành trở lại thì người ta chỉ cho mình cách phá.

Có lần Ma Y thần tướng coi tướng một người, nói người này về sau phải đi ăn mày và chết đói. Nghe vậy người này buồn quá đi lang thang. Đến một vùng nọ, khi vào nhà vệ sinh ông thấy một bọc vàng bị bỏ quên, cả thảy một trăm thỏi. Cầm bọc vàng ông nghĩ Ma Y thần tướng hồi xưa giờ coi tướng không sai chạy, mình là ăn mày, cho dù lượm được bọc vàng thì cũng là ăn mày thôi. Nghĩ vậy ông ngồi gốc cây đợi. Quả nhiên có một cô gái chạy hớt hãi đến khóc, nói cha cô bị ở tù, cô phải bán hết tài sản và vay mượn thêm cho đủ một trăm thỏi vàng để cứu cha. Ông yêu cầu cô tả số vàng, rồi trả lại cho cô. Cô tặng ông ba thỏi vàng nhưng ông không nhận.

Trả vàng cho cô gái xong, trên đường đi lang thang ông đói bụng nên ngồi dựa gốc cây thở. Thình lình một con chuột chạy ngang, ông rượt theo tính bắt làm thịt ăn. Chuột chạy xuống hang, ông moi xuống thì gặp mười tám hủ vàng. Trở nên giàu có, ông rất ghét thầy tướng, sa-môn, thầy bói. Một hôm có một vị thiền sư tên là Tế Công đi ngang qua vùng đó, biết được tình hình, ngài nói Ma Y thần tướng coi tướng ông đúng chớ không sai, ông nghĩ lại coi ông có làm âm phúc gì không. Ông nhớ lại và kể câu chuyện cho thiền sư nghe.

Nói cho quý Phật tử hiểu, cầu cơ, xin xăm, bói tướng, xem tướng gì cũng như thế, không phải là không có nhưng không phải tinh thần của nhà Phật. Chủ đích của mình là tu học để chuyển hóa. Đó là mục đích mà tôi trả lời cho quý Phật tử.

Hỏi: Bạch Thầy, Ma Ba Tuần đã hiện ra Đức Bổn Sư cùng Thánh chúng cho Tổ Ưu-ba-cúc-đa xem, vậy Ma Vương có thể hiện thành Đức Phật A Di Đà và Thánh chúng để phá chúng sanh hay không?

Đáp: Tổ Ưu-ba-cúc-đa là tổ thứ tư, đệ tử của ngài Thương Na Hòa Tu. Tổ thứ nhất là Tổ Ca Diếp. Tổ thứ hai là Tổ A Nan, Tổ thứ ba là Tổ Thương Na Hòa Tu, Tổ thứ bốn là tổ Ưu-ba-cúc-đa. Khi Tổ Ưu-ba-cúc-đa giảng pháp, ma vương xuống tặng ngài một xâu chuỗi bằng hoa. Sa-môn nếu đeo hoa thơm khi giảng pháp là phạm giới luật của nhà Phật, cho nên Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nói:

– Ông có tâm cúng ta một xâu chuỗi bằng hoa, thì ta cũng tặng lại ông một vòng hoa.

Ma Ba Tuần đeo vòng hoa vào cổ thì vòng hoa biến thành thây chó chết, thây người chết, thây rắn chết, gỡ cách mấy cũng không được. Ma Ba Tuần đi tất cả các cõi trời lục dục giới nhờ những vị chư thiên, chư thiên mở không được. Vị Thiên tử nói ông té ở đâu thì từ đó đứng lên.

Ma Ba Tuần năn nỉ Tổ Ưu Ba Cúc Đa mở cho ông. Ông nói:

– Nhờ công đức của Ngài mà con được thảnh thơi, bây giờ Ngài cần gì con xin trả ơn.

Tổ Ưu Ba Cúc Đa nói:

– Khi ta sanh ra đời thì Đức Phật Thích-ca-mâu-ni nhập Niết-bàn rồi, bây giờ ông có cách gì hiện ra thử.

Ma Ba Tuần nói:

– Con hiện cái gì cũng được hết, nhưng khi con hiện ra Đức Phật, Ngài đừng có lạy con, Ngài lạy là con tổn phước.

Tổ Ưu-ba-cúc-đa hứa không lạy. Nhưng khi Tổ thấy Đức Phật Thích-ca-mâu-ni cùng một ngàn hai trăm năm mươi thầy Tỳ-kheo, từ bìa rừng đi từng bước từng bước ra, Ngài sụp xuống lạy. Ma Ba Tuần trách Ngài:

– Con đã dặn Ngài đừng có lạy con mà tại sao Ngài cứ lạy.

Tổ nói:

– Tôi đâu có lạy ông, tôi lạy Đức Phật.

Cũng vậy, khi quý Phật tử đến lạy tôi, không phải là lạy tôi mà lạy cái y của Như Lai, y ở đây là y của ba đời Chư Phật.

Quý Phật tử cứ thực tập với chiều sâu công phu của mình. Nếu tâm mình có ma thì ma nó hiện ra. Còn nếu tâm mình có Phật thì Phật hiện ra. Mình cứ dụng công đi đừng có ngại. Khi chúng ta dụng công phu lúc chúng ta còn sống mà có những cái tướng, ảnh tượng hiện ra thì chúng ta trở về câu niệm Phật. Nhà Thiền nói là trở về chỗ tánh biết để chiếu vào những ảnh tượng đó coi thử nó là cái gì thì tức khắc quý Phật tử ra đáp số. Cho nên chúng ta đừng có nghi ngại.

Chẳng hạn có người dân nghèo bình thường giả dạng tổng thống, giả dạng thì bảo đảm là không có xe đưa rước hú còi gì hết. Cũng vậy, năng lực của Đức Phật A Di Đà và Thánh chúng, khi mình vào được cảnh giới đó thì phải có biểu hiện ra là hoa mạn đà la thơm ngát hay hiện tượng gì đó, tự nhiên mình cảm được. Cho nên đừng có lo, mình cứ tu học đi.

Hỏi: Kính bạch thầy, nhà con có một bàn thờ Phật, Bồ-tát Đại Thế Chí, Đức Phật A Di Đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, nhưng ba vị này thì cao lớn, còn vị Bổn Sư Thích-ca-mâu-ni Phật thì bé tí, con phải sắp xếp và thờ phụng như thế nào cho đúng.

Đáp: Có những nơi người ta thờ tam Thánh, tức là ba vị. Phật A Di Đà đứng chính giữa, kế là Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Quán Thế Âm. Chúng ta thờ như vậy cũng được, thường thì ba tượng đứng. Ở chính giữa chúng ta đặt tượng Phật Thích Ca cỡ nào cũng được, với một điều là chúng ta đừng có tâm niệm so sánh, là mình tu để vãng sanh về thế giới Tây phương thì phải thờ vị Phật nào cho lớn để mình về cho dễ, còn Phật Thích Ca ngài là giáo chủ cõi Ta- bà thì mình thờ tượng nhỏ. Có tâm như thế là mình chết, tâm đó là tâm ngô ngã. Tất cả vạn pháp đều do tâm mình biến hiện ra. Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức. Có tâm tác ý như thế là bị lỗi. Nhờ Phật Thích-ca-mâu-ni mà mình biết được những cõi khác, công ơn Ngài rất lớn. Khi Đức Phật Thích Ca hiện trong cõi này, tất cả các cõi trời chư thiên, các cõi Tịnh Độ đều rúng động. Các Ngài nói đời mạt pháp không ai dám xuống cõi này, không ai hiện thân ở cõi Ta-bà này để trở thành một vị Phật. Sở dĩ Thế Tôn xuống cõi này là Ngài tròn đủ một trăm pháp Ba La Mật. Năng lực và sự vi diệu của Ngài mình tính đếm không được, cho nên mình thờ. Nếu có tâm ngô ngã là mình có lỗi. Mình bình thường, có tượng gì mình thờ tượng đó, cung kính, sắp xếp cho gọn thì không có lỗi.

Hỏi: Nhà con có bức tượng lớn là tượng Phật bà, bức tượng nhỏ là Phật Thích Ca, xin hỏi Thầy con phải để hai bức tượng này thế nào? Thứ hai thờ ông bà cha mẹ cùng trên bàn thờ Phật, hình Phật chính giữa, hình cha mẹ hai bên có được không? Xin Thầy giảng dùm.

Đáp: Đức Phật Thích-ca-mâu-ni là một vị giáo chủ cõi Ta-bà. Còn Bồ-tát Quán Thế Âm Ngài cũng là cổ Phật, nhưng với tư tưởng của mình, với hình ảnh của mình thì Ngài cũng là một vị Bồ-tát trợ giáo cho Đức Phật Thích-ca-mâu-ni trong cõi Ta-bà này. Chúng ta không để hai tượng hai bên mà luôn luôn phải để tượng Phật Thích-ca-mâu-ni chính giữa. Dầu cho tượng Bồ-tát lớn cách mấy chúng ta cũng để một bên chứ không để ngược. Giống như thủ tướng không ngồi ngang hàng với tổng thống được, mà trên phải là tổng thống, dưới là thủ tướng.

Thờ cha mẹ chung bàn thờ Phật là không được, ngồi ngang hàng là không được, dù tượng Phật đặt ở chính giữa. Nhiều khi cha mẹ sanh lờn rồi giỡn cười. Giống như thủ tướng thì không ngồi ngang hàng với cấp phường, xã được. Như tôi chỉ là ông tăng bình thường thôi, nếu tôi nói tôi bình đẳng, tôi ngồi ăn cơm với quý Phật tử, một thời gian quý Phật tử gắp thức ăn cho tôi ăn luôn, rồi cười giỡn luôn. Trong nhà Phật gọi là tăng tục có phần. Tôi là chư tăng, không thể nào cười giỡn, ca hát hay nhảy múa. Nếu ở chung một thời gian, bảo đảm quý Phật tử gặp tôi vỗ vai luôn. Mình thờ phượng cũng vậy, cha mẹ mình phải ở dưới, còn Phật phải ở trên chứ không thờ chung được.

Hỏi: Kính bạch Thầy, xin Thầy giảng cho chúng con thế nào là hiểu Phật pháp, thế nào là hiểu đạo?

Đáp: Đạo và Phật pháp cũng là một. Hiểu Phật pháp là hiểu về những điều Đức Phật chỉ dạy. Trong tinh thần nhà Phật là tu tập như thế nào để lòng tham, lòng sân, lòng tật đố mình giảm bớt. Muốn cho lòng sân lòng tham giảm bớt thì phải tu. Chẳng hạn như tu thiền, tu Tịnh, tu Mật, tụng kinh bái sám, gặp duyên gì mình buông xả, đừng có dính mắc tức là mình hiểu Phật pháp. Mình biết cách tu, thấu tột được chấp ngã là con đường đi xuống, làm khổ mình khổ người. Bớt chấp ngã tức là mình hiểu đạo, đơn giản vậy thôi.

Hỏi: Thưa thầy, khi chúng con ngồi thiền, có một vị thầy cầm cái cây, đi qua đi lại, lâu lâu đánh cái bịch, việc đó có ý nghĩa gì?

Đáp: Khi quý Phật tử ngồi thiền, có một vị vác thiền bảng đi, nhà thiền gọi là người giám thiền. Khi mình ngồi thiền bị hôn trầm, vị thầy giám thiền dùng cây thiền bảng đập cho mình tỉnh ngủ. Bởi vì hôn trầm trong nhà thiền gọi là rớt trong hang quỷ, không phát sanh được trí tuệ, không có sáng suốt. Cho nên khi vị giám thiền đánh trên vai mình cái bốp là mình phải xá xuống một cái để cám ơn, chứ mình trợn mắt nhìn lên là không đúng. Vị giám thiền còn có trách nhiệm coi người ngồi thiền có ngay ngắn không, nghiêng hay ngả bên nào vị đó sửa.